Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Đảng bộ tỉnh quảng bình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 1989 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.38 MB, 176 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ QUANG CHUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC GIAI ĐOẠN 1989 – 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGÔ QUANG ĐỊNH

TP. HỒ CHÍ MINH – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.
Tác giả

Lê Quang Chung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1


1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ....................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................. 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .......................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 7
Chương I: CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH .................................................................... 8
1.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới .............. 8
1.1.1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc .......................................... 8
1.1.2. Quan điểm, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
trong thời kỳ đổi mới ............................................................................................. 18
1.2. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc điểm các dân tộc
thiểu số tỉnh Quảng Bình ..................................................................................... 32
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình ............. 32
1.2.2. Đặc điểm các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình ......................................... 41
Chương II: Q TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG BÌNH GIAI ĐOẠN
1989 - 2010 ............................................................................................................ 58
2.1. Giai đoạn 1989 - 2000 .......................................................................... 58
2.1.1. Quan điểm, chủ trương, chính sách và những giải pháp chủ
yếu của Đảng bộ tỉnh ..............................................................................................
2.1.2. Quá trình lãnh đạo thực hiện và kết quả đạt được ........................... 71
2.2. Giai đoạn 2001 - 2010 .......................................................................... 87


2.2.1. Quan điểm, chủ trương, chính sách và những giải pháp chủ

yếu của Đảng bộ tỉnh ..............................................................................................
2.2.2. Quá trình lãnh đạo thực hiện và kết quả đạt được .......................... 100
Chương III: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC Ở QUẢNG BÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI.......................................... 110
3.1. Nhận xét chung về q trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình giai đoạn 1989 - 2010 .................................. 110
3.1.1. Về thành tựu ..................................................................................... 110
3.1.2. Về hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ............................. 122
3.2. Kinh nghiệm rút ra từ quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình giai đoạn 1989 - 2010 ........................... 135
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới .................................................. 135
KẾT LUẬN ................................................................................................ 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 149
PHỤ LỤC................................................................................................... 155


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng chung sống. Trong
đó, dân tộc Kinh (cịn gọi là dân tộc Việt) chiếm 86,2% dân số, 53 dân tộc thiểu số
còn lại chiếm 13,8% dân số. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu cư trú trên
các vùng rừng núi, biên giới, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh - quốc
phịng và đối ngoại. Tuy có sự chênh lệch đáng kể về dân số cũng như trình độ phát
triển, sự khác nhau về tâm lý, tập quán sinh hoạt nhưng các dân tộc trong cả nước
vẫn xem nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, cùng
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, luôn luôn chung sức xây

dựng bảo vệ Tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn.
Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam thì vấn đề dân tộc và chính
sách dân tộc là một vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa sống cịn. Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn xác định công tác dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là một trong
những vấn đề chiến lược đối với cách mạng, coi việc chăm lo đời sống đồng bào
các dân tộc là trách nhiệm, nghĩa vụ và đạo lý truyền thống. Nghị quyết Đại hội lần
thứ X của Đảng đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đồn kết dân tộc có vị trí chiến
lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam đồn kết, bình đẳng, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa...”.
Với sự nhất quán trong hệ thống chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về vấn đề dân tộc, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, rất
đáng ghi nhận trong việc chăm lo phát triển đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, giáo dục…cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, biên giới. Những thành tựu đó đã góp phần hết sức quan trọng
vào sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Quảng Bình là một tỉnh thuộc khu vực duyên hải Bắc Trung Bộ, phía đơng
tiếp giáp biển với Đơng, phía bắc tiếp giáp với tỉnh Hà Tĩnh, phía nam tiếp giáp với
tỉnh Quảng Trị, phía tây tiếp giáp với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Trừ


2

thành phố Đồng Hới, trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của tỉnh, 6 huyện cịn
lại đều là những huyện miền núi và có miền núi.
Quảng Bình có hai dân tộc thiểu số có số dân đơng nhất là Dân tộc Bru - Vân
Kiều gồm các tộc người: Vân Kiều, Khùa, Ma Coong, Trì và dân tộc Chứt gồm các
tộc người: Sách, Rục, A Rem, Mày, Mã Liềng. Ngồi ra cịn có các dân tộc thiểu số
khác với số dân không nhiều như: Thái, Thổ, Mường, Pacô, Tày, Êđê, Karai, Giẻ

Triêng... Qua các thời kỳ cách mạng, các dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Bình đã
chung sức, chung lịng, góp cơng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 7 - 1989, tỉnh Quảng Bình được tái lập. Thời kỳ này, Đảng và Nhà
nước ta có nhiều chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi
chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số. Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình
đã kịp thời thành lập Ban chỉ đạo xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội miền núi
(năm 1990), Ban Dân tộc và Miền núi (năm 1993). Từ đó đến nay, nhờ được sự
quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, của chính quyền địa phương và sự nỗ lực
của nhân dân, quá trình thực hiện chính sách dân tộc của tỉnh đã đạt được những
thành tựu quan trọng: Cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ, làm thay đổi bộ mặt nông
thôn vùng đồng bào dân tộc - miền núi; một số mô hình định canh, định cư có hiệu
quả rõ rệt, tỷ lệ đói nghèo giảm bình qn qua hàng năm, đạt kết quả tốt trong việc
thực hiện xóa đói, giảm nghèo….Tuy nhiên, bên cạnh đó thì lộ trình đổi mới, phát
triển các dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Bình vẫn cịn nhiều khó khăn, thách thức:
Đồng bào sống chủ yếu ở các xã đặc biệt khó khăn, dân cư phân tán, kinh tế hàng
hóa cịn chưa phát triển, các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp có nguy cơ mai
một...
Với mục đích nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những thành tựu, cũng như
những hạn chế trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ
tỉnh Quảng Bình giai đoạn 1989 - 2010, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm
khắc phục những tồn tại, hạn chế, vượt qua những khó khăn, thách thức, nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới, tác giả
đã chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc
giai đoạn 1989 - 2010” làm luận văn Thạc sĩ Sử học của mình, chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là một vấn đề hết sức quan
trọng. Việc nghiên cứu vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước,
các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu đã thu hút sự quan tâm
của các nhà hoạch định chính sách và giới khoa học. Vì vậy, đã có khá nhiều cơng
trình nghiên cứu về lĩnh vực này với nhiều cấp độ khác nhau, ví dụ như:
Tác phẩm “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt
Nam” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, do Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội ấn hành năm 2002 trình bày một số vấn đề chung về dân tộc và quan hệ
dân tộc trên thế giới; tình hình, đặc điểm chủ yếu và mối quan hệ giữa các dân tộc ở
nước ta; chính sách dân tộc của Đảng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ,
đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Tác phẩm “Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và
miền núi, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội ấn hành năm 2002 trình
những vấn đề lý luận, nhận thức về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta, những định hướng trong việc quy hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát
triển kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng. Đồng thời kiến nghị một số
giải pháp giải quyết các vấn đề như xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, nâng cao dân
trí, chăm sóc sức khỏe...ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc
thiểu số.
Tác phẩm “Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện
nay” của Phan Xuân Sơn và Lưu Văn Quảng đồng chủ biên, được Nhà xuất bản Lý
luận chính trị, Hà Nội ấn hành năm 2006 trình bày một số vấn đề lý luận về dân tộc
và chính sách dân tộc, khái quát chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta qua
các thời kỳ cách mạng, những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chính sách dân tộc
và nêu lên những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua đã có một số cơng trình tiêu biểu như sau:
Phóng sự “Dân tộc thiểu số Quảng Bình trên đường đổi mới” do Đài phát
thanh - truyền hình Quảng Bình thực hiện năm 2009 đã trình bày sơ lược về quá



4

trình thực hiện chính sách dân tộc và những kết quả đạt được ở tỉnh Quảng Bình
giai đoạn 1989 - 2009.
Tác phẩm “Người Chứt ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh được
Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế ấn hành vào năm 1995 trình bày những nội dung cơ
bản về đặc điểm thiên nhiên - lịch sử - con người ở hai huyện Tuyên Hóa và Minh
Hóa - địa bàn cư trú chủ yếu của người Chứt; trình bày về đặc điểm sinh hoạt kinh
tế, các quan hệ xã hội và những giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của người
Chứt. Thơng qua việc tìm hiểu cội nguồn lịch sử, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
của người Chứt, tác giả mong muốn góp phần tìm kiếm những giải pháp thích hợp
để giúp đồng bào Chứt thốt khỏi tình trạng đói nghèo.
Dự án “Nghiên cứu biến đổi văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
Quảng Bình - Các giải pháp bảo tồn và phát huy” do Nguyễn Văn Mạnh làm chủ
nhiệm, được Trường Đại học Huế thực hiện năm 2009 đã tìm hiểu về di sản văn hóa
của các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình, những biến đổi văn hóa vừa mang yếu tố
tích cực vừa có những mặt tiêu cực, đồng thời đề xuất một số giải pháp bảo tồn giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình.
Bài viết “Các dân tộc thiểu số Quảng Bình trên con đường hòa nhập cộng
đồng” của tác giả Trần Hòa, in trong Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX do
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội ấn hành năm 2001 đã trình bày khái quát
về các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình và những kết quả bước đầu đạt được trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình. Qua
đó, tác giả cũng đã đề xuất một số giải pháp về thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh
Quảng Bình.
Tác phẩm “Người Rục ở Việt Nam” của Võ Xuân Trang do Nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc, Hà Nội ấn hành năm 1998 đã trình bày khá rõ nét về lịch sử của
người Rục, về đời sống kinh tế, văn hóa của người Rục trước khi được phát hiện

vào năm 1960 và những đổi thay về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người
Rục sau hơn 30 năm kể từ khi được phát hiện. Đồng thời tác giả cũng đã đưa ra một
số vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao đời sống của tộc người này.
Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu, các bài báo, tạp chí và phóng
sự khác đề đến vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước cũng như


5

các vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào các dân tộc
thiểu số cả nước nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng.
Nhìn chung, lịch sử nghiên cứu vấn đề khá phong phú và đa dạng, đề cập đến
những vấn đề lý luận, nhận thức về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước; về những giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đồng bào các dân
tộc thiểu số của cả nước nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu nội dung Đảng bộ tỉnh
Quảng Bình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 1989 - 2010. Dựa trên
việc kế thừa những thành tựu nghiên cứu của thế hệ đi trước, tác giả mong muốn
nghiên cứu một cách cụ thể và sâu sắc hơn nội dung vấn đề đã trình bày ở trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
- Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ hơn những nội dung cơ bản về chính
sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ
đổi mới.
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương
giai đoạn 1989 - 2010.
- Trên cơ sở đó tổng kết những thành tựu, nêu lên những hạn chế, rút ra
những kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc giai đoạn 1989 - 2010, đồng thời đề xuất những giải pháp góp

phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Quảng Bình trong thời
gian tới.
Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm
vụ cụ thể như sau:
- Trình bày có hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi
mới.


6

- Trình bày quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình tiếp thu, vận dụng những chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa
phương.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong q trình thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh Quảng Bình giai đoạn 1989 - 2010.
- Rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình giai đoạn 1989 - 2010; đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Quảng Bình trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản về chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, luận văn đi sâu nghiên cứu sự tiếp thu,vận
dụng của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc ở địa phương.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình
trong việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1989 - 2010.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc; các quan điểm, chủ trương, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên cứu
chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Bên cạnh đó, tác giả cịn sử
dụng các phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học.


7

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần cung cấp và làm rõ hơn những nội dung cơ bản của Đảng
và Nhà nước về chính sách dân tộc, phục vụ cho các cơ quan, đơn vị và cá nhân có
nhu cầu tìm hiểu về các nội dung này.
Trình bày sâu sắc, có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 1989 - 2010, góp phần vào việc nghiên cứu,
tổng kết lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Bình về vấn đề dân tộc trong giai đoạn này.
Đánh giá, tổng kết q trình thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 1989 - 2010, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
Ngồi ra, luận văn cịn có thể là tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về q
trình thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 1989 2010, cũng như lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Bình ở nội dung thực hiện chính sách
dân tộc trong giai đoạn này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
chia làm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1: Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới và
khái quát về các dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Bình
Chương 2: Q trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 1989 - 2010
Chương 3: Nhận xét chung và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.


8

Chương I
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG
BÌNH
1.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc
Đứng trên lập trường duy vật, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; vấn đề dân tộc là một bộ
phận của vấn đề giai cấp của giai cấp vô sản, của cách mạng vô sản, của chun
chính vơ sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin hết sức lên án sự nô dịch, áp bức dân tộc và
khẳng định một dân tộc mà đi áp bức những dân tộc khác thì dân tộc ấy khơng thể
có tự do; xem áp bức giai cấp là nguồn gốc của áp bức dân tộc, áp bức dân tộc nuôi
dưỡng, củng cố áp bức giai cấp. Và vấn đề dân tộc chỉ được giải quyết triệt để khi
xóa bỏ được nạn người bóc lột người: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người,
thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ” [1, tr.624].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân muốn thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của mình thì khơng chỉ giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động khỏi áp bức, bóc lột mà cịn phải đồng thời giải phóng các dân tộc và tồn

nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. C. Mác và Ph. Ăng ghen đã đề ra khẩu hiệu
hành động: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”, đồng thời yêu cầu giai cấp vô
sản phải tự tổ chức trong khuôn khổ dân tộc, có tính dân tộc, khơng thờ ơ với vấn
đề dân tộc, phải đấu tranh giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên địa vị một giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định
rằng: “Khi mà sự đối kháng giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù
địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [1, tr.624]. Bên cạnh đó, chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng đã phê phán chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tự ti, hẹp hòi.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra hai xu hướng phổ biến của quá trình hình
thành và phát triển dân tộc dưới thời kỳ chủ nghĩa tư bản: “Trong quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản, có hai xu hướng lịch sử trong vấn đề dân tộc. Xu hướng


9

thứ nhất là: sự thức tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc
đấu tranh chống mọi áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng
thứ hai: việc phát triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa
bỏ những hàng rào ngăn cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của
tư sản, của đời sống kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học, v.v...Cả hai xu
hướng đó là quy luật phổ biến của chủ nghĩa tư bản” [74, tr.157 -158].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì lập trường đối với vấn đề dân tộc của giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản là khác nhau: “Chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, đó là hai khẩu hiệu đối lập khơng thể điều hịa được, thích ứng với
hai phe giai cấp lớn lao trong toàn thế giới tư bản chủ nghĩa và biểu thị hai chính
sách (hơn thế nữa: hai thế giới quan) trong vấn đề dân tộc” [74, tr.158].
Chủ nghĩa Mác - Lênin xác định các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vấn
đề dân tộc của các đảng cộng sản, được thể hiện trong tác phẩm “Về quyền dân tộc
tự quyết” của Lênin, với nội dung cơ bản là: Các dân tộc hồn tồn bình đẳng, các
dân tộc có quyền tự quyết, liên hiệp công nhân các dân tộc.

Nguyên tắc các dân tộc hồn tồn bình đẳng: Bình đẳng là quyền thiêng
liêng của tất cả các dân tộc. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc có nghĩa là các dân
tộc dù lớn hay nhỏ, đơng người hay ít người, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao
hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, khơng một dân tộc nào được giữ
đặc quyền đặc lợi và áp bức, bóc lột dân tộc khác. Quyền bình đẳng giữa các dân
tộc phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực, trước hết là
quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc
hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc..., quyền bình đẳng về kinh tế, đảm bảo sự
bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Để góp phần thực hiện quyền bình
đẳng giữa các dân tộc thì việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Cần phải tạo điều kiện cho
các dân tộc lạc hậu nỗ lực phấn đấu, cùng với sự giúp đỡ của các dân tộc khác để
phát triển nhanh trên con đường tiến bộ, văn minh. Tích cực đấu tranh chống lại các
hành vi phân biệt dân tộc, chủng tộc và chống sự áp bức của các nước tư bản đối
với các nước chậm phát triển, xóa bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc
khác.


10

Tóm lại, để thực hiện ngun tắc bình đẳng giữa các dân tộc cần thủ tiêu sự
áp bức, bóc lột giai cấp, dân tộc, kết hợp sự phát triển tự thân của mỗi dân tộc với
sự giúp đỡ của các dân tộc khác để mỗi dân tộc phát triển bền vững, đi lên con
đường văn minh, tiến bộ, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Nguyên tắc các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là
quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự quyết
định lựa chọn chế độ chính trị - xã hội, con đường phát triển của của dân tộc mình
và khơng một dân tộc nào được quyền can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc
khác. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự quyết định tách ra thành lập một
quốc gia dân tộc vì lợi ích của dân tộc và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc

khác trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ bị xâm
lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển quốc gia dân tộc.
Khi xem xét và giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc phải đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, đảm bảo lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công
nhân; ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ; đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ
đoạn lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của
các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng cái gọi là “quyền tự
quyết dân tộc” để kích động ly khai, chia rẽ dân tộc, chống phá sự nghiệp cách
mạng của các dân tộc.
Nguyên tắc liên hiệp công nhân các dân tộc: Đây là tư tưởng cơ bản trong
Cương lĩnh dân tộc của Lênin, phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
đồng thời phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp
giải phóng giai cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho các phong trào đó giành thắng lợi.
Liên hiệp cơng nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động
các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội; là sức mạnh để phong trào dân tộc và giai cấp cơng nhân hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc là chia thế giới
thành một số lớn các dân tộc bị áp bức và một số rất ít các dân tộc đi áp bức, là
những dân tộc có tài sản lớn, lực lượng quân sự hùng mạnh. Trong giai đoạn đế


11

quốc chủ nghĩa, do nhu cầu về mở rộng thị trường, tìm nguồn ngun liệu và nhân
cơng rẻ mạt để tối đa hóa lợi nhuận, chủ nghĩa đế quốc ln tìm cách mở rộng phạm
vi áp bức, bóc lột của mình đối với các dân tộc chậm phát triển, biến các dân tộc
này thành những thuộc địa và nửa thuộc địa của chúng. Đây là vấn đề có tính quy
luật của chủ nghĩa đế quốc: “Bất cứ một nước nào có một nền cơng nghiệp tư bản

chủ nghĩa phát triển mạnh đều tiến nhanh đến chỗ phải đi tìm thuộc địa” [73,
tr.479]. Và chính sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đã đẩy các dân tộc thuộc
địa, nửa thuộc địa vào tình cảnh nghèo nàn, lạc hậu, phụ thuộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định rằng có áp bức dân tộc thì tất yếu có
đấu tranh dân tộc: “Ngày mai đây của lịch sử toàn thế giới sẽ chính là ngày mai mà
các dân tộc bị bọn đế quốc áp bức được thức tỉnh, sẽ dứt khoát vùng dậy, và bắt đầu
cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài và gian khổ, để tự giải phóng mình” [75, tr.414].
Để phát triển lực lượng cách mạng cần phải kết hợp chặt chẽ, thống nhất phong trào
cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển với phong trào giải phóng dân tộc ở
các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của dân tộc.
Đồng thời xác định dân tộc và vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài. Nó vừa là mục tiêu
trước mắt nhằm giải quyết vấn đề lực lượng cách mạng, vừa gắn liền với cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân nhằm xóa bỏ mọi áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, xây
dựng mối quan hệ dân tộc mới bình đẳng, tự quyết, liên hiệp giai cấp công nhân các
dân tộc để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chỉ dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa thì các dân tộc, các quan hệ dân tộc mới hồn tồn bình
đẳng, các dân tộc hồn tồn có được quyền tự quyết của mình, tơn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển trong hịa bình.
Ngày nay, vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc là một vấn đề
trọng đại, mang tính tồn cầu và tính thời sự nóng bỏng. Chủ nghĩa Mác - Lênin là
cơ sở lý luận khoa học và cách mạng để Đảng ta có thể tiếp thu, vận dụng giải quyết
tốt vấn đề dân tộc trong quá trình lãnh đạo thực hiện sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa.


12

b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Nhận thức rõ vai trò, vị trí của vấn đề dân tộc, trong đó có vai trị, vị trí quan

trọng của các dân tộc thiểu số đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt về vấn đề này. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc là một trong những nội dung cơ bản trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam. Quan điểm của Hồ
Chí Minh về các dân tộc thiểu số gồm những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc.
Xuất phát từ lịch sử và thực tiễn của đất nước, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc” [56, tr.596]. Dân tộc Việt
Nam là một khối thống nhất của các dân tộc anh em, được hình thành trong quá
trình dựng nước và giữ nước; các dân tộc thiểu số là một bộ phận hợp thành của dân
tộc Việt Nam. Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây Cu,
ngày 19/4/1946, Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai
hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no
đói giúp nhau... nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ
đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ” để săn sóc
cho tất cả các đồng bào. Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung
của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đồn kết chặt chẽ để giữ gìn
nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta...Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng
đồn kết của chúng ta khơng bao giờ giảm bớt” [54, tr.218].
Tư tưởng về một quốc gia đa dân tộc với truyền thống đoàn kết trong một
cộng đồng thống nhất tạo nên một sức mạnh vô song để vượt qua các cơn phong ba,
những lúc nguy nan của đất nước. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh thể hiện nhận thức
phù hợp với thực tiễn khách quan của lịch sử dân tộc. Đó là tài sản vô giá để phát
huy trong thời đại của cách mạng vô sản, Người viết: “Đồng bào các dân tộc không
phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như
anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội
làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no” [57, tr.282].



13

Thứ hai, đề cao vai trò của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng
của dân tộc.
Do đặc điểm lịch sử để lại, các dân tộc thiểu số ở nước ta chủ yếu cư trú ở
vùng sâu, vùng xa, biên giới, ở vị trí “phên dậu”, có vị trí hết sức quan trọng về
chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh của Tổ quốc.
Ngay khi cách mạng Việt Nam cịn trong trứng nước, Hồ Chí Minh đã kêu
gọi tồn dân, trong đó có các dân tộc thiểu số, tham gia cách mạng:“Hỡi đồng bào
yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh
vác một phần trách nhiệm...” [53, tr.198]. Trong thời gian này, đồng bào các dân tộc
thiểu số đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng căn cứ địa, nuôi giấu cán bộ,
giao thông liên lạc, tổ chức các lực lượng cách mạng... Mặt trận Việt Minh, Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân v.v... đều đã ra đời ở căn cứ Việt Bắc - địa
bàn cư trú của các dân tộc thiểu số. Năm 1945, trong Thư kêu gọi Tổng khởi
nghĩa, Hồ Chí Minh một lần nữa nhấn mạnh: “Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh) có hàng chục triệu đội viên, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương binh,
gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán... Việt Minh là cơ sở cho sự
đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này... Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ
Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!” [53, tr.553 - 554]. Và “Nhờ sức đoàn
kết đấu tranh chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập,
các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị
em trong một nhà, khơng cịn sự phân chia nịi giống, tiếng nói gì nữa” [54, tr.117].
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thực dân Pháp quay trở lại xâm
lược nước ta. Ngày 19/12/1946, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi:“Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc... Ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nước...” [55, tr.480]. Đáp lại lời kêu gọi đó, nhân dân
các dân tộc thiểu số đã cùng nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến, kiến quốc,
góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược.
Trong cuộc khánh chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần vào thắng lợi chung
của cả dân tộc có cơng sức khơng nhỏ của đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là


14

đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên và miền Tây
Nam Bộ.
Trải qua quá trình lịch sử của dân tộc, qua hai cuộc chiến tranh thần thánh và
trong công cuộc đổi mới đất nước ngày hôm nay càng khẳng định rõ hơn vai trò hết
sức quan trọng của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng của cả nước,
như lời Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Miền núi nước ta chiếm một vị trí rất quan
trọng đối với quốc phịng, đối với kinh tế. Vì vậy, Trung ương Đảng và Chính phủ,
mà trực tiếp là các cấp ủy đảng, các ủy ban địa phương, các cô, các chú, phải làm
sao nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc” [58, tr.135].
Thứ ba, các dân tộc đồn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
Ba nguyên tắc này có quan hệ hữu cơ, hợp thành một thể thống nhất, tác
động qua lại lẫn nhau. Đồn kết, bình đẳng, tương trợ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển. Bình đẳng là cơ sở của đoàn kết. Tương trợ là điều kiện của
đồn kết và bình đẳng.
Hồ Chí Minh là người nhận thức được toàn diện và sâu sắc ý nghĩa sống cịn
của khối đại đồn kết tồn dân đối với sự tồn vong của đất nước. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người thường xuyên nhắc nhở: “Phải tăng cường
đồn kết dân tộc. Đây là một cơng tác rất quan trọng, có nội dung mới và rộng hơn.
Các dân tộc miền núi đoàn kết chặt chẽ, các dân tộc thiểu số đoàn kết với dân tộc đa
số” [57, tr.418]. “Đồng bào tất cả các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong một nhà” [57, tr.323].
Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc dựa trên quan điểm cơ bản của chủ

nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ quyền cơ bản của con người. Quan điểm bình
đẳng giữa các dân tộc đã từng được Hồ Chí Minh đề cập đến trong bản Tuyên ngôn
độc lập năm 1945: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [53, tr.555]. Người
nhấn mạnh: “Các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một
lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử rất lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh
để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp...Đảng và Chính phủ ta ln luôn kêu gọi các dân tộc


15

xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ
trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ...Chính sách dân tộc của chúng ta là
nhằm thực hiện sự bình đẳng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên
chủ nghĩa xã hội [56, tr.596 - 597].
Trên cơ sở bình đẳng, các dân tộc cần đồn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau,
cùng chung tay xây dựng và phát triển đất nước. Trong Bài nói tại Hội nghị tuyên
giáo miền núi, ngày 31/8/1963, Người căn dặn: “Hiện nay có hàng chục vạn đồng
bào miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế miền núi. Đồng bào miền núi phải
đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền xuôi. Và đồng bào miền xi phải đồn kết giúp đỡ
đồng bào miền núi. Đó là hai phía, đó là chính sách dân tộc của Đảng...Phải đoàn
kết các dân tộc, phải đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt” [58, tr.135
- 136].
Thứ tư, quan tâm phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số.
Sự khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được Hồ Chí Minh dành
sự quan tâm đặc biệt và sự cảm thông sâu sắc: “Dưới chế độ thực dân và phong
kiến, đồng bào rẻo cao sống rất cực khổ. Ngày nay, đồng bào rẻo cao được tự do
bình đẳng, khơng bị áp bức bóc lột như trước kia. Nhưng đời sống vật chất và văn
hóa chưa được nâng cao mấy. Đó là vì cán bộ lãnh đạo khơng chú ý đầy đủ đến

đồng bào rẻo cao. Bác thay mặt Trung ương và chính phủ giao cho cán bộ từ tỉnh
đến xã phải ra sức giúp đỡ hơn nữa đồng bảo rẻo cao về mọi mặt” [57, tr.323].
Với điều kiện khó khăn của đồng bào dân tộc - miền núi như vậy, Hồ Chí
Minh chủ trương phải làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, làm cho đồng bào các
dân tộc thiểu số ngày càng được hưởng thủ đầy đủ hơn những quyền lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa. “Chính phủ cũng sẽ giúp cho đồng bào Thổ, Mán như sẽ giúp
cho các dân tộc nhỏ khác được có đủ ruộng làm, đủ trâu bị cày...” [54, tr.110].
“Chính phủ sẽ gắng sức giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt: Về kinh tế, sẽ mở
mang nông nghiệp cho các dân tộc được hưởng. Về văn hóa, Chính phủ sẽ chú ý
trình độ học thức cho dân tộc. Các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải
cố gắng để cùng giành cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do và thái bình” [54,
tr.117 - 118]. Vấn đề giao thơng, thủy lợi vùng dân tộc miền núi cịn nhiều yếu kém.
Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ rõ những việc cần phải làm là: “Đoàn kết dân tộc, củng cố


16

hợp tác xã, phát triển thủy lợi, mở mang đường sá, đẩy mạnh sản xuất” [58, tr.134].
Việc phá rừng ảnh hưởng rất lớn đến khí hậu, đến sản xuất và đời sống, đặc biệt là
đối với đồng bào dân tộc - miền núi, Người căn dặn: “Cần phải hết sức chú ý vấn đề
bảo vệ rừng. Nếu cứ để tình trạng đồng bào phá một ít, nơng trường phá một ít,
cơng trường phá một ít, thậm chí đồn thăm dị địa chất cũng phá một ít, thì rất tai
hại. Phá rừng thì dễ nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm...Rừng là vàng
nếu mình biết bảo vệ, xây dựng thì rừng rất q” [58, tr.134]. Để góp phần phát
triển kinh tế vùng dân tộc - miền núi, Người chỉ rõ cần phải: “Tăng gia sản xuất
thực hành tiết kiệm, làm cho đời sống đồng bào địa phương ngày càng khá
hơn...Sản xuất phải toàn diện, trồng cây lương thực và cây công nghiệp, phát triển
chăn nuôi, phát triển nghề rừng, chú trọng đẩy mạnh chăn ni, vì miền núi có
nhiều khả năng chăn ni” [57, tr.418].
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý tới tâm lý, phong tục tập quán, tiếng nói của

đồng bào các dân tộc. Trong bài nói tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi, ngày
31/8/1963, Người căn dặn: “Nước ta có nhiều dân tộc, đấy là điểm tốt. Mỗi dân tộc
có một tiếng nói riêng, có hai dân tộc một tiếng nói. Cán bộ đi làm việc ở chỗ nào,
phải học tiếng nói ở đấy” [58, tr.137]. Theo Hồ Chí Minh, cơng tác xây dựng đời
sống mới ở vùng các dân tộc thiểu số được đặt ra một cách cấp bách, nhưng là một
q trình mang tính liên tục, lâu dài và cán bộ cơ sở phải có tinh thần trách nhiệm
cao: “Muốn cải tạo phong tục tập quán được tốt, thì tuyên huấn phải làm, mà phải
làm bền bỉ liên tục, làm dần dần, chứ không thể chủ quan nóng vội, muốn làm hết
ngay một lúc” [58, tr.134]. Người cũng chỉ rõ: “Cái gì cần phải xóa? - Mê tín hủ tục.
Cái gì cần phát triển? - Văn hóa giáo dục, vệ sinh phịng bệnh” [58, tr.135]. “Tóm
tắt lại là: Ra sức giúp đỡ đồng bào phát triển những việc có lợi ích cho đời sống vật
chất và văn hóa của các dân tộc. Ra sức làm cho tốt, cho khéo để xóa bỏ những cái
có hại như hủ tục, mê tín dị đoan, thiếu vệ sinh, tảo hôn v.v...” [58, tr.138].
Thứ năm, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ và hệ thống chính trị cơ sở
vùng dân tộc thiểu số.
Hồ Chí Minh ln quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số để phục vụ sự nghiệp cách mạng của cả nước nói chung và
vùng dân tộc thiểu số nói riêng. “Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ


17

miền núi. Cố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa phương,
nhưng phải làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự quản lý lấy công
việc ở địa phương, chứ không phải là bao biện làm thay” [57, tr.418].
Người căn dặn và động viên đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số: “Cán bộ
địa phương thường có tâm lý tự ti, cho mình là văn hóa kém, khơng muốn làm cán
bộ, như thế là không đúng. Nếu như thế không ai làm việc cho đồng bào cả, việc
làm đây là do cán bộ địa phương phải làm lấy. Vì vậy cho nên cịn kém thì phải học,
phải tích cực học cách làm việc, tích cực học chun mơn cho biết. Nếu vì kém mà

khơng làm là khơng được. Nhiều cái mình chưa biết, nhưng có quyết tâm học thì
phải biết, nhất định biết. Biết là tiến bộ” [56, tr.451 - 452]. Đối với đội ngũ cán bộ
miền xuôi lên công tác ở vùng dân tộc miền núi, Người căn dặn: “Cán bộ dưới xuôi
lên không yên tâm công tác...như thế là khơng đúng. Bác đã nói cán bộ là đày tớ của
nhân dân, chỗ nào nhân dân cần đến mình là mình phải đến, bất kỳ chỗ nào cũng là
Tổ quốc, là đất nước, cũng là cương vị công tác của cán bộ. Phải nhớ rằng Đảng,
Chính phủ tin cậy vào cán bộ, nơi nào khó có cán bộ. Việc gì khó có cán bộ” [56,
tr.452]. Cán bộ miền xi cũng như cán bộ miền ngược phải đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ lẫn nhau: “Cán bộ các nơi đến phải n tâm, tích cực cơng tác, phải gương
mẫu, phải đồn kết chặt chẽ, phải giúp đỡ cán bộ địa phương được tốt...Cán bộ địa
phương cùng cán bộ nơi khác đến phải đoàn kết yêu thương nhau, làm gương cho
nhân dân địa phương” [57, tr.452]. Đồng thời “phải chú ý hơn nữa, giúp đỡ nhiều
hơn” [57, tr.452] đối với đồng bào rẻo cao.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc
miền núi, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dân
tộc...cần thật sự chú ý vận động, giúp đỡ đồng bào về các công tác sản xuất, văn
hóa, vệ sinh, phịng bệnh để đồng bào vùng cao cải thiện dần đời sống của mình. Để
đẩy mạnh công tác trên, cần phải củng cố và phát triển Đảng, cần phải có quyết tâm
củng cố Đảng, củng cố chi bộ, tăng cường đoàn kết nội bộ, nâng cao trình độ chính
trị, tư tưởng, văn hóa, nghiệp vụ cho các đảng viên, cán bộ. Cần chú ý kết nạp đảng
viên các dân tộc và nữ đảng viên để mở rộng hàng ngũ Đảng, đồng thời chú ý củng
cố và phát triển Đoàn Thanh niên Lao động. Đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu
trong việc đồn kết, học tập, cơng tác...Muốn làm được sự nghiệp ấy, các cán bộ,


18

đảng viên, đồn viên cần có ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao, một lòng một dạ
phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội” [56, tr.465].
Tổng kết chính sách dân tộc của Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính

sách dân tộc của Đảng và Chính phủ ta đối với miền núi là rất đúng đắn. Trong
chính sách đó có hai điều quan trọng nhất là: Đoàn kết dân tộc và nâng cao đời
sống của đồng bào” [57, tr.608].
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là cơ sở lý luận quan trọng, trực tiếp để
Đảng và Nhà nước ta hoạch định và thực thi chính sách dân tộc.
1.1.2. Quan điểm, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
trong thời kỳ đổi mới
Có thể hiểu chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là hệ thống chủ
trương, giải pháp tác động vào tất cả các lĩnh vực đời sống của đồng bào các dân
tộc, các vùng dân tộc và đối với từng dân tộc cụ thể, nhằm thay đổi tình trạng lạc
hậu, biệt lập, phân biệt, bất bình đẳng giữa các dân tộc, thực hiện sự bình đẳng,
đồn kết, tôn trọng, tương trợ và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc để cùng nhau phát
triển, cùng nhau đi lên con đường ấm no, tự do, hạnh phúc.
Công tác dân tộc là một bộ phận quan trọng của đường lối cách mạng Việt
Nam, là một bộ phận hữu cơ trong chính sách quốc gia của Đảng và Nhà nước ta
nhằm phát huy, phát triển các truyền thống, khai thác các tiềm năng, thế mạnh của
từng dân tộc nói riêng và các dân tộc nói chung, hướng tới phát triển đất nước trong
tổng thể. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hướng vào giải quyết vấn đề
dân tộc với nội dung toàn diện, đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống đồng bào các
dân tộc từ kinh tế đến chính trị, giáo dục, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống của mỗi địa phương, mỗi dân tộc
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, Đảng và Nhà nước ta ln
xác định vấn đề dân tộc, đại đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong
sự nghiệp cách mạng.


19


Sau ngày miền Nam được hồn tồn giải phóng (1975), đất nước thống nhất,
cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về vấn đề dân tộc và miền núi được tổ chức thực hiện thống nhất trong cả
nước.
Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân
tộc, đoàn kết các dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước, khắc phục
những sai lầm, hạn chế của chính sách dân tộc các giai đoạn trước, bước vào thời kỳ
đổi mới toàn diện đất nước (1986), Đảng và Nhà nước ta đã có những định hướng
chính sách hết sức quan trọng đối với vấn đề này.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986), cùng với chủ trương
phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chính sách dân tộc cũng đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức lại
một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn và yêu cầu tổ chức thực hiện đúng chính sách
dân tộc. Đảng ta đã chỉ rõ trong công tác dân tộc cần phải chú ý: “Sự nghiệp đẩy
mạnh ba cuộc cách mạng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số địi hỏi tăng cường
cơng tác nghiên cứu về dân tộc học và công tác điều tra xã hội học, hiểu biết đầy đủ
về những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc. Trên cơ sở đó, bổ sung, cụ
thể hóa và thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc, tránh những sai lầm rập khuôn hoặc
chủ quan áp đặt những hình thức tổ chức khơng phù hợp trong q trình xây dựng
và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng dân tộc” [37, tr.102].
Nghị quyết Đại hội VI xác định cần phải: “Đầu tư thêm và tập trung sự cố
gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động viên tinh thần tự lực, tự cường của
nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và phát triển thế mạnh về kinh tế ở các
vùng có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy mạnh công tác định canh, định cư, ổn
định sản xuất và đời sống của đồng bào trước hết ở các vùng cao, biên giới, các
vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến.
Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đồng bào các dân tộc
thiểu số cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn
bó giữa các dân tộc trên tinh thần đồn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau, cùng làm chủ

tập thể; kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm


20

lo đời sống con người, kể cả những người khác đến và dân tại chỗ” [37, tr.102 103].
Đảng ta đã xác định : “Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự
củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính
cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng,
tính thống nhất khơng mâu thuẫn, khơng bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong
bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và
là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc phải có thái độ
thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc
của mỗi người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng dân tộc lớn và
những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hịi” [37, tr.103].
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết của Đại hội VI về đổi mới và thực hiện chính
sách dân tộc, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW (ngày
27/11/1989) “Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền
núi”. Nghị quyết đã xem xét, đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội miền núi ở nước
ta, kiểm điểm lại những thiếu sót, yếu kém trong q trình tổ chức, thực hiện chính
sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước, từ đó đưa ra một số chủ trương,
chính sách lớn phát nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền
núi. Các chính sách, chủ trương lớn đó bao gồm: Thứ nhất, xây dựng cơ cấu kinh tế
miền núi theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa, liên kết chặt chẽ với các tỉnh đồng
bằng, ra sức phát huy thế mạnh của từng vùng; Thứ hai, thực hiện tốt chính sách
kinh tế nhiều thành phần, điều chỉnh quan hệ sản xuất và đổi mới quản lý, giải
phóng triệt để năng lực sản xuất ở miền núi; Thứ ba, đổi mới các chính sách kinh tế
- xã hội đối với miền núi.
Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao đời
sống đồng bào các dân tộc miền núi, góp phần phát triển kinh tế - xã hội cả nước

nói chung, ngày 13/3/1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra Quyết
định số 72-HĐBT “Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã
hội miền núi”. Quyết định đã chủ trương đổi mới cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất
ở miền núi trên các lĩnh vực: nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp và kết cấu hạ
tầng, phân phối lưu thông và dịch vụ kỹ thuật, khoa học và kỹ thuật. Điều chỉnh hợp


21

lý quan hệ sản xuất và đổi mới quản lý để giải phóng sức sản xuất, phát huy sức
mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế ở miền núi. Đối với lĩnh vực văn hóa - xã
hội, Quyết định chủ trương Nhà nước dành ưu tiên về vốn đầu tư cho việc xây dựng
trường lớp, cung cấp thiết bị trường học, đào tạo giáo viên, bảo đảm yêu cầu phát
triển giáo dục con em đồng bào dân tộc…Tăng mức đầu tư để nâng cao một bước
công tác y tế ở các tỉnh miền núi; giúp đỡ các tỉnh, các huyện miền núi kinh phí xây
dựng các trạm tiếp sóng Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam…Về
cơng tác cán bộ, Quyết định chủ trương tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ tại chỗ (gồm cả cán bộ người dân tộc và người Kinh), có các chính sách khuyến
khích cán bộ miền xi (kể cả cán bộ các ngành Trung ương và địa phương) lên
công tác lâu dài ở miền núi.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục khẳng định: “Đồn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc,
cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc
tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta” [37,
tr.283 - 284].
Đảng ta đã chỉ rõ cần phải “có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các
vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc,
bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm
giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tơn trọng
tiếng nói và có chính sách đúng đắn về chữ viết đối với các dân tộc. Đặc biệt có

chính sách khắc phục tình trạng suy giảm dân số đối với một số dân tộc ít người”
[37, tr.284].
Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước tiếp tục được phát
triển và hoàn thiện hơn trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội” được thơng qua tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII của
Đảng. Cương lĩnh nêu rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn
minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn hố, ngơn ngữ, tập qn, tín ngưỡng
của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ


×