Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 173 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN VĂN KIỀU

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ
SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60.22.85

Hướng dẫn khoa học: TS. LÊ QUANG QUÝ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của chính tác giả dưới
sự hướng dẫn của TS. Lê Quang Quý. Những kết quả nghiên cứu là trung
thực, không trùng lặp và chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình
nghiên cứu khoa học nào. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận văn có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Người cam đoan

Nguyễn Văn Kiều


CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN



CNH, HĐH

: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

ESCAP

: Ủy ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái Bình Dương

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

KH&CN

: Khoa học và công nghệ

Nxb

: Nhà xuất bản

OECD

: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

TP.HCM


: Thành phố Hồ Chí Minh

UNESCO

: Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc

UBND

: Ủy ban nhân dân

UNIDO

: Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN
LỰC, NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, CƠNG NGHIỆP HĨA,
HIỆN ĐẠI HĨA .............................................................................................. 13
1.1. KHÁI NIỆM NGUỒN NHÂN LỰC; PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA

HỌC VÀ CƠNG NGHỆ; CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA .................................... 13

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực ...................................................................... 13
1.1.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực khoa học và cơng nghệ ................. 18
1.1.3. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ............................................... 27
1.2. VAI TRỊ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC VÀ NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ ..................................................................................................................... 34

1.2.1. Vai trò của nguồn nhân lực ..................................................................... 34
1.2.2. Vai trò của nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ................................ 51
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ NGHIỆP
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY ...................................................................................................... 64
2.1. CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ YÊU CẦU CỦA NÓ ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................................................................ 64

2.1.1. Khái quát những điều kiện kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh ..... 64
2.1.2. Đặc điểm chủ yếu của quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành
phố Hồ Chí Minh ............................................................................................. 68
2.1.3. u cầu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với phát triển nguồn
nhân lực khoa học và cơng nghệ ở thành phố Hồ Chí Minh.............................. 75
2.2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................. 85


2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay .................................................................................................. 85
2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong phát triển nguồn nhân lực khoa học và công

nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay ................................................................................................... .114
2.3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI
HĨA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ............................................................ 120

2.3.1. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở
một số nước ......................................................................................... .120
2.3.2. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực KH&CN phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ................... .126
2.3.3. Một số nhóm giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực KH&CN phục
vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay .......................... .138
KẾT LUẬN

.......................................................... .156

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 160


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước tiến nhanh chóng và mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN hiện
đại từng được ví “một ngày bằng hai mươi năm” đang tác động toàn diện đến
mọi nền kinh tế, mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Cuộc chạy đua,
cạnh tranh giữa các quốc gia trên mặt trận kinh tế đang diễn ra rất sôi động,
quyết liệt và càng gay gắt, quyết liệt hơn trong lĩnh vực KH&CN. Bởi lẽ, sức
mạnh của mỗi quốc gia trong thế kỷ này tùy thuộc phần lớn vào sự phát triển,
ứng dụng thành tựu của KH&CN. Do đó, một quốc gia, dân tộc lạc hậu về

KH&CN không phải là quốc gia, dân tộc phát triển về kinh tế và trong hành
trình tiến lên phía trước, quốc gia, dân tộc nào lạc hậu về KH&CN sẽ có nguy
cơ bị đẩy ra bên lề sự phát triển chung của nhân loại. Một xã hội thơng tin,
một nền kinh tế tri thức đã hình thành và hiện diện ở nhiều quốc gia trên thế
giới, tình hình này càng làm tăng thêm vai trị quan trọng của KH&CN. Thế
kỷ XXI, KH&CN vẫn tiếp tục phát triển và đạt tầm cao mới, vẫn là lực lượng
sản xuất trực tiếp giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế
toàn cầu, là vấn đề cốt tử cho sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Chính sự bùng nổ, phát triển nhanh chóng và lan rộng của các cuộc cách
mạng KH&CN đòi hỏi các nước, các chính phủ phải có biện pháp thích ứng
và đáp ứng một cách linh hoạt thông qua những cơ chế, chính sách phù hợp
nhằm phát huy, ứng dụng có hiệu các thành tựu KH&CN, nếu không dễ dẫn
đến nguy cơ khủng hoảng, lạc hậu về kinh tế nói chung và lạc hậu về
KH&CN nói riêng.
Muốn kinh tế phát triển thì phải tiến hành sản xuất, để sản xuất phải có lực
lượng sản xuất, khi đề cập đến lực lượng sản xuất thì người lao động bao giờ
cũng là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Người lao động có thể khai
thác, sử dụng các nguồn lực hiện có, đồng thời qua đó góp phần tạo ra các


2

nguồn lực mới để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Sức mạnh của
nguồn lực con người biểu hiện qua sức mạnh của thể lực, trí lực, đạo đức, niềm
tin… Do đó, bất kỳ một quốc gia nào muốn vươn lên phải nắm bắt những thành
tựu của KH&CN tiên tiến; muốn đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
nhất thiết phải quan tâm đến việc phát huy nguồn lực con người mà đặc biệt là
nguồn nhân lực KH&CN.
Đối với Việt Nam, sự phát triển của KH&CN có vai trị hết sức to lớn, nó
khơng chỉ là động lực phát triển kinh tế - xã hội mà cịn là động lực quan

trọng trong cơng cuộc đối mới toàn diện đất nước. Sự phát triển của cuộc cách
mạng KH&CN trên thế giới đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cần phải tranh thủ
mọi nguồn lực trong đó nguồn lực con người là nhân tố rất quan trọng, quyết
định mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Con người được trang bị trình
độ KH&CN tiên tiến sẽ là lực lượng đi đầu đảm bảo cho thắng lợi của cơng
cuộc đổi mới nói chung, sự thành cơng của CNH, HĐH đất nước nói riêng.
Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020,
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Phát triển KH&CN thực sự là động lực then
chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Hướng trọng tâm hoạt động
khoa học, công nghệ vào phục vụ công nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển theo
chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng
lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, tăng
cường hội nhập quốc tế khoa học, công nghệ” [20, tr.50].
Với một nước có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, từ vị trí địa lý,
tài nguyên thiên nhiên cho đến dân số, con người nhưng vẫn cịn trong tình
trạng kém phát triển như Việt Nam thì mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại là một tất yếu. Để làm
được điều đó thì vấn đề phát triển KH&CN phải là một trong những vấn đề


3

được quan tâm hàng đầu nhằm tạo động lực, nền tảng cho CNH, HĐH, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Và thực tế KH&CN đã được Đảng và Nhà nước Việt
Nam xác định là “quốc sách hàng đầu”, xem nó là khâu đột phá trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong phát
triển KH&CN, góp phần khơng nhỏ vào thành công của công cuộc đổi mới đất
nước, trong đó khơng thể khơng kể đến vai trị đầu tàu kinh tế, trung tâm
KH&CN lớn của cả nước là TP.HCM.

TP.HCM có vai trị rất quan trọng trong phát triển kinh tế, góp phần khơng
nhỏ vào thành cơng CNH, HĐH đất nước trong những năm qua. Trong sự thành
công ấy không thể không kể đến việc coi trọng phát triển nguồn nhân lực
KH&CN. Tuy nhiên, vấn đề nguồn nhân lực KH&CN ở TP.HCM đang phải đối
diện với nhiều vấn đề cần xem xét giải quyết trước mắt và lâu dài như: vấn đề
nguồn nhân lực có tăng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu; vấn đề lạc hậu
về KH&CN trong phát triển kinh tế; vấn đề thu hút, sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực khoa học và cơng nghệ… Vì vậy, việc tìm hiểu một cách tổng quát về
nguồn nhân lực KH&CN ở TP.HCM nhằm đánh giá đúng thực trạng để từ đó
đề ra những giải pháp phát triển nguồn nhân lực KH&CN ở TP.HCM nói riêng
và cả nước nói chung nhằm thực hiện thành cơng CNH, HĐH đất nước vào năm
2020 là rất cần thiết.
Từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở TP.HCM hiện
nay” làm đề tài luận văn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề phát triển nguồn nhân lực, nhân lực
KH&CN, CNH, HĐH nói chung và vấn đề phát triển nguồn nhân lực
KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng đã được Đảng, Nhà nước,
các tổ chức khoa học, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều


4

cơng trình, bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu ở những góc độ khác nhau
nhằm phát triển, bổ sung lý luận và vận dụng có hiệu quả vào thực tiễn đời
sống xã hội trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, có thể kể một
số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Sách Văn kiện về Khoa học – công nghệ, giáo dục và đào tạo Đại hội
lần thứ VI, VII, VIII, IX, của NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2006 đã

tập hợp tất cả các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển KH&CN, giáo dục, đào tạo từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến lần
thứ IX. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ là sự tổng hợp những chủ trương, chính sách
phát triển KH&CN, giáo dục, đào tạo ở tầm vĩ mơ mang tính định hướng cho
sự phát triển, chưa làm nổi bật vai trò, thực trạng nguồn nhân lực KH&CN ở
Việt Nam hiện nay.
Sách “Phát triển nguồn nhân lực – kinh nghiệm thế giới và thực tiễn Việt
Nam” của PGS, TS Trần Văn Tùng, Lê Ái Luân (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
nội, 1996) chủ yếu giới thiệu một cách khái quát về vai trò của nguồn nhân
lực ở một số nước trên thế giới dưới tác động của giáo dục và đào tạo, qua đó
làm nổi bật vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân
lực ở Việt Nam.
Sách “Đổi mới cách sử dụng nhân lực KH&CN trong cơ quan nghiên
cứu phát triển” của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư (Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2000) đã nghiên cứu các chính sách sử dụng nguồn nhân lực KH&CN
trong những cơ quan đặc thù về KH&CN. Do đó, vấn đề được nêu ra và kiến
giải chỉ dừng lại ở một phạm vi nhất định mang tính chun ngành.
Sách “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”
của GS,TS Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS,TS Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) đã tập hợp các cơng trình nghiên cứu
của các tác giả về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở hai phương diện lý luận và


5

thực tiễn. Tuy nhiên, sách chỉ tập trung nghiên cứu q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói chung chứ chưa đề cập nhiều đến giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa từ sau Đại hội IX của Đảng.
Sách “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở nước Việt Nam” của
TS. Bùi Thị Ngọc Lan (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) đã phân tích

vai trị của nguồn nhân lực trí tuệ trong sự phát triển của xã hội, những đặc
điểm chủ yếu của nguồn lực trí tuệ, thực trạng và xu hướng phát triển nguồn
lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở những phân tích đó, tác giả đưa ra những
phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát huy nguồn nhân lực trí tuệ trong
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sách “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS.
Nguyễn Hữu Dũng (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003) đã phân tích một
số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bổ, sử dụng
nguồn lực con người, đồng thời tác giả để xuất các chính sách và giải pháp
nhằm phát triển, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực con người
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sách “Nguồn lực con người trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam” của TS. Đồn Văn Khái (Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005) đã phân tích vai trị của nguồn lực con người trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả đã chỉ ra thực trạng của nguồn lực
con người ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở phân tích đó, tác giả đưa ra những nhóm
giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn lực con
người đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Luận án Tiến sĩ kinh tế “Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực
vùng đồng bằng sông Cửu long theo định hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đến năm 2010” của Nguyễn Đình Luận, Đại học kinh tế TP.HCM đã phân


6

tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực của đồng bằng sông Cửu long và
đưa ra một số giải pháp chung nhằm phát triển nguồn nhân lực KH&CN trong
giai đoạn đến 2020 trên phạm vi cả nước.
Ngồi ra cịn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học

chuyên ngành, tiêu biểu như bài “Gắn khoa học và công nghệ với sản xuất
kinh doanh thành động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
của TS. Hồ Ngọc Luật đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 11 – 2005, bài viết này
tác giả phân tích hoạt động, cơ chế, trách nhiệm và lựa chọn phương pháp tổ
chức hoạt động KH&CN ở cơ sở. Đặc biệt là bài nghiên cứu của TS. Nguyễn
Thanh Long “Phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ đáp ứng u
cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đăng trên Tạp chí lý luận chính
trị số 03 – 2003, đã đánh giá khái quát vai trò của nguồn nhân lực KH&CN
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả cũng chỉ ra
thực trạng nguồn nhân lực KH&CN ở Việt Nam từ đó đề xuất những phương
hướng, biện pháp phát triển nguồn nhân lực KH&CN đáp ứng u cầu của
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Dù đã có nhiều sách, cơng trình nghiên cứu, bài viết cơng phu, tâm
huyết, khoa học của nhiều tác giả, song thực tiễn ln vận động, biến đổi và
phát triển, do đó, vấn đề phát triển nguồn nhân lực KH&CN phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển thêm cho phù hợp với điều kiện
mới, hồn cảnh mới.
Riêng TP.HCM chỉ có một số bài viết trên các tạp chí KH&CN, trên các
diễn đàn kinh tế - xã hội… đề cập đến nguồn nhân lực nói chung nhưng chưa
có đề tài nào nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Những
cơng trình nghiên cứu vừa kể trên và nhiều cơng trình khác là những đóng


7

góp lớn nhưng chưa đầy đủ, vì vậy, tác giả chọn đề tài “Phát triển nguồn
nhân lực khoa học và cơng nghệ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” để tiếp tục góp một phần nhỏ
vào những chỗ chưa đầy đủ đó.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Tác giả luận văn thơng qua nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ vấn
đề phát triển nguồn nhân lực KH&CN ở TP.HCM trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân
lực KH&CN ở TP.HCM hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận chung về nguồn nhân
lực, nhân lực KH&CN; về CNH, HĐH ở Việt Nam nói chung và TP.HCM
nói riêng.
Thứ hai, phân tích thực trạng và nguyên nhân chủ yếu về tình hình phát
triển nguồn nhân lực KH&CN ở TP.HCM.
Thứ ba, đề xuất một số nhóm giải pháp có tính định hướng nhằm phát
triển nguồn nhân lực KH&CN ở TP.HCM.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tác giả luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu như: Vai
trò, thực trạng, phương hướng, giải pháp phát triển nguồn nhân lực KH&CN
ở TP.HCM trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.


8

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
Tác giả luận văn được thực hiện đề tài trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước
và của TP.HCM về nhân lực, nhân lực KH&CN.
Phương pháp nghiên cứu

Tác giả luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp việc sử dụng một
số phương pháp khác nhau như: lịch sử - lơgíc, phân tích- tổng hợp, diễn dịch
– quy nạp, so sánh…trên cơ sở tài liệu tham khảo và các kết quả thống kê đã
được công bố nhằm làm rõ những vấn đề được đặt ra trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học
Tác giả luận văn góp phần bổ sung và làm sáng tỏ thêm lý luận khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
cũng như của Đảng bộ TP.HCM về phát triển nguồn nhân lực KH&CN trong quá
trình thực hiện CNH, HĐH ở một địa phương cụ thể là TP.HCM.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của nghiên cứu trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các cấp ủy đảng, chính quyền, ban ngành ở địa phương trong việc
hoạch định các chủ trương, chính sách và qua đó đề ra các giải pháp thích hợp
nhằm phát triển nguồn lực khoa học và công nghệ của địa phương, đơn vị. Đề
tài cũng có thể làm tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm hai chương, năm tiết.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC,
NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. KHÁI NIỆM NGUỒN NHÂN LỰC; PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ; CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA


1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Cho đến nay, xoay quanh khái niệm “nguồn lực” đã có nhiều ý kiến
khác nhau, chưa đi đến thống nhất. Tuy nhiên, dưới dạng khái quát nhất,
nhiều nhà khoa học đồng ý rằng, “nguồn lực là toàn bộ các yếu tố cả vật chất
lẫn tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những
điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia,
dân tộc” [41, tr.59]. Theo cách hiểu này, khái niệm “nguồn lực” là khái niệm
rộng, bao quát tất cả các nguồn lực như: tài nguyên thiên nhiên, vốn,
KH&CN, con người… Nó khơng chỉ bao gồm những nguồn lực đã và đang
tạo nên sức mạnh trong quá trình khai thác và sử dụng mà còn bao gồm cả
những nguồn lực chưa được khai thác, sử dụng hoặc những nguồn lực sẽ được
khai thác và sử dụng. Bản thân cụm từ “nguồn lực” đã hàm chứa khả năng
khai thác và sử dụng. Do đó, có những nguồn lực trong quá trình khai thác và
sử dụng sẽ được tái tạo, bổ sung mới (nguồn lực con người), ngược lại, có
những nguồn lực nếu khai thác và sử dụng không hợp lý sẽ dẫn đến cạn kiệt
và có thể mất đi (tài nguyên thiên nhiên). Trong một quốc gia, các nguồn lực
phân bố khơng đồng đều. Có nguồn lực chiếm số lượng hoặc trữ lượng nhiều,
có nguồn lực ít hoặc khan hiếm. Đối với các nguồn lực tự nhiên (tài nguyên
thiên nhiên) số lượng càng nhiều, trữ lượng càng lớn là một lợi thế cho sự
phát triển. Đối với nguồn lực xã hội (nguồn lực con người) thì chất lượng mới
là yếu tố quyết định sự phát triển.


10

Việc phân loại nguồn lực cũng khác nhau tùy theo cách tiếp cận vấn đề
nghiên cứu. Chẳng hạn, dưới góc độ khái quát, nguồn lực được phân thành
nguồn lực vật chất, nguồn lực tinh thần; nguồn lực tự nhiên, nguồn lực xã hội;
nguồn lực bên trong, nguồn lực bên ngoài; nguồn lực chủ quan, nguồn lực

khách quan… Trong phạm vi hẹp, đó là nguồn lực đầu vào (vốn, con người),
đầu ra (sản phẩm); nguồn lực hiện có, nguồn lực tiềm năng…Dù theo cách
phân loại nào, trong tất cả các nguồn lực thì nguồn lực quan trọng hàng đầu là
nguồn lực con người, nó quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của
mọi quốc gia, bởi lẽ, con người là chủ thể và là trung tâm của mọi hoạt động
lao động sản xuất. Tất cả các giá trị vật chất và tinh thần đều do con người
của bao thế hệ nối tiếp nhau xây dựng, bảo tồn và phát triển. Nếu khơng có
con người thì mọi nguồn lực khác đều trở nên vô nghĩa. Điều này đã được
thực tế đã chứng minh, một đất nước cho dù tài nguyên thiên nhiên khan hiếm
nhưng có nguồn nhân lực chất lượng cao cũng có thể thành quốc gia có nền
kinh tế phát triển và ngược lại một quốc gia dù có tài ngun thiên nhiên
phong phú nhưng khơng có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai
thác thì cũng khó có thể trở thành quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Nguồn lực con người, xét ở khía cạnh nào đó là vơ tận nhưng cho đến
nay vẫn chưa có một định nghĩa nguồn nhân lực mang tính thống nhất. Khi
nói đến nguồn nhân lực, người ta dùng khái niệm tương ứng như nguồn lực
con người, “tài nguyên con người”,… mặc dù cũng đều được dịch từ cụm từ
“human resources”.
Theo Liên Hợp quốc, “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [2, p.9]. Ngân hàng thế giới cho
rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ
năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Cũng có cách định nghĩa quy nguồn


11

nhân lực vào một tổ chức như: “Nguồn ngân lực là nguồn lực con người của
những tổ chức (với quy mơ, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và
tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển

kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực, thế giới” [3, p.256].
Trong lý thuyết kinh tế phát triển, nguồn nhân lực là một bộ phận dân
số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Theo đó, nguồn
nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, đó là tổng số những người
trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao
động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ
chun mơn, kiến thức, trình độ lành nghề của người lao động...
Ở Việt Nam khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi kể từ đầu
thập niên 90 (ở các nước phương Tây sử dụng từ những năm 60) của thế kỷ
XX đến nay. Theo nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, “nguồn lực con người
bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc
ta” [40]. Với GS, TSKH. Phạm Minh Hạc, “nguồn lực con người được hiểu là
số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và
trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [34, tr.328].
Với cách hiểu như trên, có thể nói, nguồn nhân lực khơng chỉ là lực
lượng lao động hay nguồn lao động mà còn là một tập hợp các yếu tố mà con
người có được để tiến hành lao động sản xuất tạo ra sản phẩm hoặc tạo ra
những giá trị cho cuộc sống. Do đó, nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân,
cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm về sức
mạnh của nó trong sự phát triển xã hội.
Từ những quan niệm trên, nguồn nhân lực được hiểu là tổng hoà thể
lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong tồn bộ lực lượng lao động xã hội của một
quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo


12

của một dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Dù theo cách hiểu nào thì nguồn nhân lực bao gồm những nội dung cơ

bản sau đây:
Thứ nhất, lịch sử loài người là lịch sử lao động sản xuất cho nên nguồn
lực con người trước hết cũng được biểu hiện ra là nguồn lao động, lực lượng
lao động.
Thứ hai, nó phản ánh quy mơ dân số, cơ cấu dân số và cơ cấu lao động
trong các ngành, các vùng, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ tuổi trong lực
lượng lao động. Trong đó, cơ cấu dân số và lao động ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng và sức mạnh của nguồn nhân lực.
Thứ ba, nó phản ánh phương diện chất lượng dân số qua các yếu tố
như: sức khỏe, tinh thần, trình độ. Trong đó, trí lực và đạo đức là những yếu
tố quan trọng nhất.
Thứ tư, sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa nguồn lực con người với
môi trường tự nhiên – xã hội và mối quan hệ bên trong nguồn lực con người.
Trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất trong hệ thống các nguồn lực.
Mỗi quốc gia đều có nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển, nhưng vấn
đề khai thác, sử dụng và phát triển như thế nào thì mỗi quốc gia, dân tộc có
cách khai thác riêng tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia,
dân tộc và không phải quốc gia, dân tộc nào cũng khai thác hiệu quả nguồn
nhân lực của mình. Do đó, vấn đề phát triển nguồn nhân lực không chỉ là vấn
đề cần quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học mà nó trở thành vấn đề cốt
lõi trong chính sách phát triển của mỗi quốc gia. Đã có nhiều quan điểm khác
nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên
Hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng


13

tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực. Có quan điểm cho rằng:
Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất

và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho
con người trở thành người lao động có năng lực và phẩm chất mới, cao hơn,
đáp ứng được những địi hỏi ngày càng cao của các q trình kinh tế - xã hội.
Một số tác giả quan niệm: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao
năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân
bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ
thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia
chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt
thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra
những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói cách khác, phát triển
nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực; đồng thời, nâng cao hiệu suất sử dụng chúng để đáp ứng
ngày càng tốt hơn sự phát triển bền vững của đất nước.
Như vậy, nội dung phát triển nguồn nhân lực bao gồm: phát triển nguồn
nhân lực về mặt số lượng, phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng và
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời với công cuộc
CNH, HĐH đất nước nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam ln xác định Việt Nam
có nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thơng u nước,
cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hố, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh
KH&CN. Đó là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.


14

1.1.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực khoa học và cơng nghệ
Khái niệm khoa học
Xã hội lồi người gồm hai lĩnh vực cơ bản: vật chất (tồn tại xã hội) và

tinh thần (ý thức xã hội). Hai lĩnh vực này có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó lĩnh vực tinh thần làm cho con người khác hẳn với các lồi
động vật khác. Con người có ý thức, biết tiếp thu, chọn lọc, phát triển, sáng
tạo trong hoạt động thực tiễn để hình thành tri thức. Tuy nhiên, do điều kiện,
hoàn cảnh, khả năng của từng người khác nhau, cùng với sự tác động của điều
kiện khách quan không giống nhau nên nhận thức của con người được thực
hiện ở nhiều trình độ, cách thức khác nhau, tạo nên hệ thống các tri thức về tự
nhiên, xã hội và tư duy ở những mức độ khác nhau. Tri thức mà con người
tích lũy liên tục được bổ sung, phát triển qua nhiều thế hệ. Trong đó, có hai
dạng tri thức chủ yếu là tri thức thơng thường và tri thức khoa học.
Tri thức thông thường (tri thức kinh nghiệm) là những hiểu biết được
tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với
con người và giữa con người với thiên nhiên. Dạng tri thức nầy giúp con
người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan
hệ giữa những con người trong xã hội ở mức độ nhất định. Tri thức kinh
nghiệm không ngừng được sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy
nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện
tượng, chưa thấy hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa
sự vật và con người. Do vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát huy hiệu quả trong
một giới hạn nhất định nào đó, thường thiếu tính khoa học và bất lực trước
thực tiễn sinh động, nhưng ở mức độ nào đó, tri thức kinh nghiệm lại là cơ sở
cho sự hình thành tri thức khoa học.
Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ
thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học có mục tiêu xác định và sử dụng


15

phương pháp khoa học thích hợp. Khơng giống như tri thức kinh nghiệm, tri
thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thực nghiệm, qua các sự kiện xảy ra

ngẫu nhiên trong các hoạt động tự nhiên, xã hội, để từ đó tìm ra bản chất, quy
luật của sự vật, hiện tượng, phát triển thành tri thức, thành lý luận. Tri thức
khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học như:
triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…Tri thức khoa học là kết
quả của q trình nhận thức có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và
phương tiện thích hợp, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện. Nhưng thế nào
là khoa học, nhiều nhà khoa học vẫn chưa thống nhất với nhau.
Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp, đa dạng tùy theo
mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận mà biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm khoa học, chẳng hạn,
Đại từ Điển Bách khoa tồn thư Liên Xơ định nghĩa “khoa học là hệ thống
tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy, về những quy luật phát triển khách
quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức này được hình thành
trong lịch sử và khơng ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội”.
Theo từ điển bách khoa Wikipedia tiếng Anh định nghĩa: “Khoa học,
theo nghĩa rộng, là bất kỳ hệ thống kiến thức với cố gắng mơ hình hóa thực tế
khách quan bằng cách sử dụng phương pháp luận, thủ thuật để đưa ra dự báo
chắc chắn và định lượng được các sự vật, hiện tượng tương lai. Với nghĩa hẹp
hơn, khoa học cung cấp một hệ thống kiến thức dựa vào phương pháp khoa
học cũng như tổ chức sắp xếp toàn bộ hệ thống kiến thức thu được từ nghiên
cứu”. Theo từ điển Wikipedia tiếng Việt “Khoa học là hệ thống kiến thức
kinh nghiệm của loài người do cộng đồng các nhà khoa học tìm ra. Khoa học
bao gồm khoa học thuần túy và khoa học ứng dụng. Theo định nghĩa chung,
khoa học là cơ sở, là phương pháp có lý luận, tư duy và chứng minh”.


16

Theo Luật Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam năm 2000 thì “Khoa
học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã

hội và tư duy”.
Từ những quan niệm trên có thể rút ra khái niệm khoa học như sau:
Khoa học là một hệ thống tri thức được tích lũy trong quá trình lịch sử, được
thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy luật của thế giới khách quan
cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có năng lực cải
tạo thế giới. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng
phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Khoa học bao gồm những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, để tồn tại và phát triển phải tiến hành nhiều hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục…trong đó có hoạt động khoa học. Hoạt
động khoa học gắn với nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những người có
chun mơn, am hiểu về một hoặc vài lĩnh vực nào đó.
Hai là, đối tượng nghiên cứu của khoa học là các sự vật, hiện tượng,
các quá trình của tự nhiên, xã hội, tư duy.
Ba là, mục đích của hoạt động khoa học là tìm ra các thuộc tính, tính
chất, quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng giúp con người cải tạo thực
tiễn hiệu quả hơn, qua đó nâng cao đời sống con người về mọi mặt.
Bốn là, sự phát triển của khoa học dẫn đến sự phân ngành ngày càng
sâu, tri thức tích lũy ngày càng lớn, phạm vi ứng dụng ngày càng rộng.
Năm là, khoa học được phân chia thành nhiều lĩnh vực cơ như: khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học dự báo... Với sự phát triển khoa học,
ranh giới giữa các lĩnh vực khoa học ngày càng hẹp. Chẳng hạn khoa học tự
nhiên cần đến luận cứ của khoa học xã hội và ngược lại khoa học xã hội cần
kết quả của khoa học tự nhiên kiểm chứng…


17

Khái niệm công nghệ
Sinh thời, Karl Marx (C.Mác, 1818 – 1883) dự báo rằng, đến một lúc nào

đó sẽ diễn ra cuộc gặp gỡ của mọi ngành khoa học trong một khoa học phức
hợp. Có lẽ lời dự báo của C.Mác dần dần trở thành hiện thực với sự phát triển
của cơng nghệ. Hầu hết các lĩnh vực đều có sự hiện diện trực tiếp hoặc gián tiếp
của công nghệ. Công nghệ đã nâng cao sức mạnh con người lên hàng ngàn lần.
Càng ngày công nghệ càng thâm nhập sâu vào đời sống con người.
Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, người ta sử dụng phổ biến
thuật ngữ kỹ thuật (technique) với ý nghĩa là các giải pháp để thực hiện một loại
công việc. Khái niệm kỹ thuật trong nhiều trường hợp thiên về chế tạo máy móc,
chế tạo các cơng cụ lao động phục vụ cho q trình lao động sản xuất. Nó chỉ
dừng lại ở giải pháp tiến hành do con người tác động một cách trực tiếp mà
khơng bao hàm quy trình, hệ thống mang tính khép kín và tự động.
Từ nửa sau thế kỷ XX, đặc biệt từ những năm 70, thế giới bước vào
thời kỳ phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của những tiến bộ KH&CN. Cũng
từ đây khái niệm công nghệ (technology) đã thay thế và bao hàm khái niệm
kỹ thuật. Đây không phải là sự thay thế, bao hàm giản đơn về hình thức mà
thực sự là sự biến đổi lớn về nội dung khoa học và tính chất cơng nghệ.
Khái niệm “cơng nghệ” được hiểu rất rộng, khơng chỉ có nghĩa trong công
nghệ sản xuất (gần với nghĩa thông thường của “kỹ thuật”), mà có nghĩa trong mọi
dạng hoạt động của con người. Theo đó, cơng nghệ là nơi gặp gỡ, là tiêu điểm hội
tụ của phát minh khoa học, thành quả ứng dụng, sản xuất đại trà và thâm nhập vào
xã hội. Ngày nay, số lượng các loại công nghệ nhiều đến mức khó mà thống kê
hết, ngay một sản phẩm lại có nhiều cơng nghệ khác nhau tạo thành, đến mức
người sử dụng cũng khó nhận biết được sản phẩm đó thuộc cơng nghệ gì và có
bao nhiều cơng nghệ đã tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm.


18

Theo OECD, “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp,
bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống

và có phương pháp”.
Tổ chức ESCAP đưa ra định nghĩa: “Cơng nghệ là hệ thống kiến thức
về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin”.
Theo định nghĩa của Trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái Bình
Dương đề xướng, "Cơng nghệ sản xuất là tất cả những gì liên quan đến việc biến
đổi tài nguyên ở đầu vào thành hàng hoá ở đầu ra của quá trình sản xuất".
Theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam của GS. Nguyễn Lân thì “cơng nghệ
là kỹ thuật sử dụng cơng cụ, máy móc, trang bị để sản xuất những sản phẩm
công nghiệp”.
Cả bốn định trên đều chưa nêu được nội hàm của khái niệm công nghệ,
hoặc là giới hạn trong một lĩnh vực sản xuất, hoặc là quy về khái niệm kỹ
thuật. Khái niệm công nghệ không đơn thuần giới hạn trong lĩnh vực công
nghiệp, trong công nghệ sản xuất và càng không phải chỉ là quy trình kỹ thuật.
Khái niệm cơng nghệ cịn bao hàm bí quyết, phương tiện để làm ra sản phẩm.
Theo Luật khoa học và cơng nghệ năm 2000 thì cơng nghệ được hiểu là
“tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, cơng cụ, phương tiện
dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. Định nghĩa này khắc phục
những hạn chế trên.
Đặc trưng của công nghệ là ứng dụng tri thức khoa học nhằm giải quyết
các vấn đề của thực tiễn cuộc sống, làm cho hoạt động thực tiễn của con
người hiệu quả hơn. Nó là tổng thể kỹ năng, kỹ xảo, phương pháp, phương
tiện được con người sử dụng để tạo ra sản phẩm đáp ứng yều của con người.
Giữa khoa học và cơng nghệ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khoa
học và công nghệ đều có chung mục đích hướng đến phục vụ cho con người,


19

phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, thể hiện năng lực sáng tạo của con
người trong quá trình chinh phục tự nhiên, cải biến xã hội. Khoa học là nguồn

cung cấp tri thức, là cơ sở, là tiền đề cho công nghệ ứng dụng và phát triển.
Công nghệ là khả năng ứng dụng, phát triển và sáng tạo từ hoạt động khoa
học. Mặt khác, từ hiệu quả của cơng nghệ kích thích khoa học tiếp tục đào sâu
nghiên cứu và ứng dụng làm phong phú thêm cơ sở khoa học, giúp cơng nghệ
khơng ngừng cải tiến và hồn thiện.
Khái niệm nhân lực khoa học và công nghệ
Thuật ngữ “nhân lực KH&CN” hàm chỉ đội ngũ lao động có trình độ
tay nghề cao. Theo UNESCO, nhân lực KH&CN là “những người trực tiếp
tham gia vào hoạt động KH&CN trong một cơ quan, tổ chức và được trả
lương hay thù lao cho lao động của họ, bao gồm các nhà khoa học và kỹ sư,
kỹ thuật viên và nhân lực phù trợ….”. Hoạt động KH&CN, theo UNESCO, là
những hoạt động có tính chất hệ thống và liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra,
phát triển và phổ biến, áp dụng kiến thức KH&CN trong mọi lĩnh vực
KH&CN. Hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động nghiên cứu triển khai, giáo
dục và đào tạo KH&CN và các dịch vụ KH&CN.
Khái niệm nhân lực KH&CN của UNESCO không bao hàm đội ngũ
KH&CN dạng tiềm năng. Vì vậy, ngồi nhân lực KH&CN theo định nghĩa
trên, UNESCO cịn thu thập hai nhóm số liệu khác, đó là các kỹ sư và nhà
khoa học tiềm năng và các kỹ thuật viên tiềm năng là những người nằm trong
tổng vốn nhân lực hay những người thuộc lực lượng hoạt động kinh tế có
bằng cấp của nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên.
Nhân lực KH&CN có thể được hiểu theo những cách khác nhau. Theo
nghĩa rộng thì Nhân lực KH&CN bao gồm những nhóm sau:


20

- Nhân lực khoa học và công nghệ làm công tác nghiên cứu sáng tạo: Bao
gồm nhân lực tham gia nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng (thường có
trình độ đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, đại học); người làm các công việc phục vụ và hỗ

trợ nghiên cứu (chuẩn bị thí nghiệm, đo đạc và lấy số liệu,…).
- Nhân lực khoa học và công nghệ làm công tác giảng dạy: Bao gồm cán
bộ giảng dạy các bộ môn khoa học và công nghệ, đào tạo nghề (công nhân kỹ
thuật, trung cấp), thường có trình độ đào tạo từ đại học trở lên; người làm các
công việc phục vụ và hỗ trợ giảng dạy.
- Nhân lực khoa học và công nghệ làm công tác quản lý: Bao gồm những cán
bộ quản lý khoa học và cơng nghệ, thường có trình độ đào tạo từ đại học trở lên.
- Nhân lực khoa học và công nghệ làm công tác sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ: Bao gồm các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, nghệ nhân, công nhân lành nghề. Lực
lượng khoa học và công nghệ này trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất,
dịch vụ, kinh doanh,…
Quan hệ giữa nhân lực KH&CN và nguồn nhân lực nói chung có thể
được thể hiện như sau:
Nhân lực
có trình
độ

Nhân lực
KH&CN

Tổng số
nhân lực

Như vậy, theo cách định nghĩa này, tất cả những ai có bằng cấp nghề
nghiệp trở lên bất kể việc họ có sử dụng kiến thức đã học vào nghề của mình
hay khơng đều được coi là nguồn nhân lực KH&CN. Nhân lực KH&CN ở


×