Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Văn hoá đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.18 KB, 103 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────






NGUYỄN THANH THUỶ



VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
TRONG LỊCH SỬ





LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM












Thái Nguyên - năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên



























ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────





NGUYỄN THANH THUỶ



VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
TRONG LỊCH SỬ



Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN







Thái Nguyên - năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN
TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 8
1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên ...................................................... 8
1.2. Quan Lạn trong lịch sử ................................................................... 10
1.3. Thành phần dân cư, dân tộc ........................................................... 13
Chương 2: VĂN HOÁ VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ................................................. 15
2.1. Ăn- ở- mặc- đi lại ........................................................................... 15
2.2. Hoạt động kinh tế ........................................................................... 20
2.2.1. Kinh tế ngư nghiệp ................................................................... 20
2.2.2. Kinh tế thương nghiệp .............................................................. 24
2.2.3. Kinh tế nông nghiệp ................................................................. 29
2.2.4. Kinh tế lâm nghiệp ................................................................... 30
2.2.5. Nghề vận tải biển ...................................................................... 31
Chương 3: VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN ... 34

HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ................................................. 34
3.1 Các tục lệ chủ yếu trong đời sống ................................................... 34
3.1.1. Sinh đẻ ..................................................................................... 34
3.1.2. Cưới xin ................................................................................... 37
3.1.3. Tang ma ................................................................................... 45
3.1.4. Một số lễ tết và lễ hội trong năm ............................................. 48
3.1.5. Những biến đổi ngày nay.......................................................... 54
3.2. Tín ngưỡng- tôn giáo ..................................................................... 56
3.2.1 Tín ngưỡng dân gian ................................................................. 57
3.2.2. Những ảnh hưởng của tam giáo trong đời sống ngư dân Quan
Lạn ....................................................................................................... 69
3.3. Văn học dân gian ........................................................................... 72
3.4. Mối quan hệ và ảnh hưởng giữa văn hoá tinh thần của ngư dân Quan
Lạn với ngư dân và cư dân Quảng Ninh. .................................................. 85
KẾT LUẬN ................................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nếu văn hoá vật chất cung cấp
cho con người mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên
và xã hội thì văn hoá tinh thần lại thực hiện chức năng gắn kết cộng đồng, điều
chỉnh xã hội, định hướng các chuẩn mực làm động lực cho sự phát triển.
Văn hoá Việt Nam là thành quả kết tinh những tinh hoa có phong cách

riêng biệt của nhiều cộng đồng dân cư. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước,
trong lao động sản xuất, mỗi cộng đồng dân cư trên các vùng lãnh thổ khác
nhau vừa sáng tạo ra truyền thống văn hoá riêng cho mình, vừa giao lưu tác
động lẫn nhau làm cho nền văn hoá vật chất, tinh thần Việt Nam phong phú
đa dạng. Bản sắc văn hoá Việt Nam có ý nghĩa thiêng liêng cao quý là linh
hồn của núi sông là biểu hiện sự trường tồn của giống nòi, là sợi dây kết nối
giữa các thế hệ.
Mỗi giá trị văn hóa đều được biểu hiện trong cuộc sống thường nhật,
được lưu giữ trong trí nhớ, chữ viết, tồn tại trong lối sống, kí ức, tâm thức của
mỗi con người. Những giá trị văn hoá đặc biệt là văn hoá tinh thần với những
sinh hoạt cộng đồng có tính bền vững lâu dài song đang đứng trước nguy cơ
thất truyền mai một rất cao, nhất là khi các điều kiện của đời sống đang từng
bước được cải thiện cùng với sự hấp dẫn của những loại hình giải trí hiện đại.
Do đó cần hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn
hoá truyền thống không chỉ là bảo tồn mô hình mà phải làm cho những giá trị
văn hoá đó đi vào đời sống cộng đồng một cách tự nhiên, trở thành lối sinh
hoạt có văn hóa của mỗi người dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2
Vị trí cách biệt với đất liền, sự giao lưu với các khu vực xung quanh
cũng như trình độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội còn nhiều hạn chế đã
làm cho những giá trị văn hoá truyền thống của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống của cư
dân nơi đây. Những giá trị văn hoá được vun đắp trong hàng ngàn năm lịch sử
vừa là kết quả của sự giao lưu tình cảm văn hoá giữa các cộng đồng ngư dân,
vừa là sản phẩm của sự hòa nhập trong truyền thống của ngư dân Quan Lạn-
hoà nhập để cùng nhau kiên cường đứng trước biển nơi đầu sóng ngọn gió,
hoà nhập để tạo nên sức mạnh đập tan âm mưu xâm lược của các thế lực
ngoại xâm, gìn gữi từng tấc đất biên cương của tổ quốc, hoà nhập để cùng

“chung lưng đấu cật” cần cù làm ăn và phát triển. Hơn nữa được quy định bởi
tính chất ngư nghiệp, quan niệm tâm linh cũng như những tục lệ trong đời
sống văn hoá tinh thần của ngư dân nơi đây có nhiều nét đặc trưng riêng và
tiến bộ đơn giản mà ý nghĩa, đa dạng mà thống nhất. Đặc biệt hơn, những
hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội ở Quan Lạn đã và đang trở thành một
trong những tiềm năng quan trọng để phát triển loại hình kinh tế du lịch văn
hoá - lịch sử - sinh thái trên đảo.
Dựa trên nghị quyết hội nghị lần thứ X Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá 9 đã xác định “tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng
đạo đức lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội ", với mục đích
bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc trong văn hoá của ngư dân đảo Quan
Lạn, được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của PGS TS. Đàm Thị Uyên, cùng các
thầy cô giáo trong tổ bộ môn lịch sử Việt Nam và Ban chủ nhiệm khoa lịch sử
ĐHSP - ĐHTN, nên em chọn “Văn hoá đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh
Quảng Ninh trong lịch sử” làm đề tài luận văn. Đề tài góp phần làm rõ một
số nội dung và hình thức biểu hiện, chỉ ra những nét đặc sắc mang tính truyền
thống trong văn hoá của ngư dân đảo Quan Lạn. Qua đó góp phần giáo dục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3
thế hệ trẻ trên đảo có ý thức trách nhiệm giữ gìn bảo vệ những giá trị văn hoá
truyền thống. Từ việc phát huy bảo tồn các yếu tố văn hoá sẽ thúc đẩy hơn
nữa sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hoá với hai bộ phận là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần đã
được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau trong các tác phẩm mang tính
lý luận như:
- Cuốn “Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo” của FREUD do Lương Văn
Kế dịch (NXB Đại học Quốc gia năm 2000).
- Cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả

Nguyễn Đăng Duy do NXB Văn hoá thông tin xuất bản năm 2001 đã trình
bày khá đầy đủ về khái luận về tín ngưỡng tôn giáo, nguồn gốc, nội dung của
các hình thái tín ngưỡng dân gian, đặc trưng riêng ở một số vùng miền, một
số dân tộc ít người, trình bày nguồn gốc và những giáo lý cơ bản của các loại
hình tôn giáo trong đời sống hiện nay.
- Cuốn “Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của Đặng
Nghiêm Vạn do NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001 đã nêu lên những
khái niệm chung về tôn giáo, xu thế của tôn giáo, đời sống tôn giáo trong
nhân dân.
- Cuốn “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” (cách nhìn hệ thống và loại
hình) của Trần Ngọc Thêm do NXB thành phố Hồ Chí Minh xuất bản (1997)
đã tiến hành phân loại các hình thái tín ngưỡng, những nét đặc trưng trong
phong tục được quy định bởi văn hoá truyền thống, phân tích sự giao lưu
ảnh hưởng giữa các nền văn hoá Đông- Tây được biểu hiện trong văn hoá
Việt Nam.
- Cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm do NXB Giáo
dục xuất bản năm 2000 đã trình bày khái niệm văn hoá, tiến trình văn hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4
Việt Nam và những nét nổi bật trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội, sự giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với các khu vực văn
hoá khác.
Vân Đồn với hoạt động kinh tế thương nghiệp đã được phản ánh trong
nhiều tác phẩm nghiên cứu lịch sử. Nhiều tác phẩm như “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi, “Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên, “Lịch triều hiến
chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Đại Nam thực lực” của Quốc sử quán
triều Nguyễn... đã ghi chép tóm tắt về thời gian thành lập và vị trí thuận lợi
của thương cảng Vân Đồn. Cuốn “Thương cảng Vân Đồn” của Đỗ Văn Ninh
với nguồn tư liệu khảo cổ phong phú đã cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ về đô

thị cổ Vân Đồn với một hệ thống các bến thuyền cổ, hoạt động buôn bán và
phương thức buôn bán tại thương cảng xưa.
Bên cạnh đó, các tài liệu chuyên khảo về hoạt động kinh tế và phong tục,
tín ngưỡng tôn giáo của cư dân ở Quảng Ninh nói chung trong cuốn “Địa chí
Quảng Ninh” đề cập đến một số phong tục tiêu biểu như cưới xin, ma chay, lễ
tết trong năm, đặc trưng tín ngưỡng dân gian và tình hình sinh hoạt tôn giáo
của cư dân trên địa bàn tỉnh. Trong đó có đề cập đến một số đặc trưng của cư
dân biển song rất sơ lược.
Hiện nay chưa có tài liệu nào đi sâu nghiên cứu tổng thể văn hoá của cư
dân đảo Quan Lạn dưới sự tác động của hoạt động ngư nghiệp.
Song qua những tài liệu trên, chúng tôi có cái nhìn khái quát về văn hoá
với những nội dung của nó, hình dung được vị trí của Quan Lạn trong thương
cảng Vân Đồn xưa cũng như hoạt động kinh tế thương nghiệp của cư dân nơi
đây, đồng thời cung cấp những tư liệu chính xác, đáng tin cậy gợi mở những
nội dung cụ thể giúp chúng tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Mục đích đề tài: Nghiên cứu văn hoá của cư dân đảo Quan Lạn, đề tài
nhằm hệ thống hoá những phương thức ứng xử với tự nhiên và xã hội của cư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5
dân trên đảo Quan Lạn, từ đó góp phần nhận thức rõ hơn về văn hoá ngư dân
ở Quảng Ninh nói chung và Quan Lạn nói riêng.
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là những thành tố trong
văn hoá vật chất và tinh thần như cách thức sinh hoạt, hoạt động kinh tế, một
số tục lệ, tín ngưỡng tôn giáo và văn học dân gian của cư dân đảo Quan Lạn,
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất
nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh
thần của con người. Song do khả năng và thời gian có hạn, đề tài luận văn chỉ

đi sâu nghiên cứu ở góc độ hẹp bao gồm các nét nổi bật trong ăn, ở, mặc, đi
lại, hoạt động kinh tế cũng như tục lệ và tín ngưỡng tôn giáo, văn học dân
gian của cư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nhằm làm
rõ những đặc trưng trong văn hoá truyền thống mang tính địa phương.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Luận văn của chúng tôi dựa trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu sau:
+ Nguồn tài liệu thành văn
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Các tác phẩm mang tính lí luận chung và chuyên khảo về văn hoá
như “Văn hoá một số vấn đề lý luận” của Trương Lưu, “Tín ngưỡng
Việt Nam” của Toan Ánh, “Cơ sở văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc
Thêm, và một số bản dịch sắc phong còn lưu trong đình Quan Lạn.
+ Nguồn tư liệu khảo sát, điền dã
Thông qua việc tiếp xúc với các nhân chứng của lịch sử, quan sát đời sống
sinh hoạt cũng như của các hoạt động văn hoá tinh thần của ngư dân địa
phương, chúng tôi được nghe những điệu hò biển khỏe khoắn, chứng kiến lễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6
hội Vân Đồn, lễ cầu bình, lễ tháp ấn, các phong tục và kinh nghiệm trong lao
động sản xuất của ngư dân. Qua đó chúng tôi có được những tư liệu cần thiết
mang tính thực tiễn về văn hoá đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh để hoàn thành tốt đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic

Phương pháp điền dã
Phương pháp miêu thuật
Phương pháp hồi cố
Phương pháp văn hoá học
Phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu các nguồn tài liệu.
Bên cạnh đó, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu của đề tài trong mối quan
hệ chung với sinh hoạt văn hoá của cộng đồng dân cư tỉnh Quảng Ninh để
thấy nét tương đồng giao thoa và những nét đặc trưng riêng có do hoạt động
ngư nghiệp quy định trong văn hoá truyền thống của ngư dân Quan Lạn.
5. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện về
những đặc trưng trong văn hoá vật chất cũng như văn hoá tinh thần của ngư
dân đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử chỉ ra và đề
cao những nét đặc thù, những tinh hoa dưới góc độ di sản văn hoá. Từ đó giúp
cơ quan chức năng đánh giá toàn diện có kế hoạch trong công tác bảo tồn và
phát triển những giá trị trong văn hoá truyền thống của ngư dân Quan Lạn.
- Từ nội dung đó, luận văn góp phần vào việc hình thành ý thức tôn trọng
phát huy và xây dựng “một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”
không chỉ cho ngư dân trên đảo nói riêng mà còn cho cả thế hệ trẻ nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7

6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 94 trang, ngoài phần mở đầu phần kết luận, tài liệu tham
khảo, phụ lục. Nội dung chính chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát về đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng
Ninh.
Chương II: Văn hoá vật chất của cư dân đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn
tỉnh Quảng Ninh.

Chương III: Văn hoá tinh thần của cư dân đảo Quan Lạn huyện Vân
Đồn tỉnh Quảng Ninh.








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN
TỈNH QUẢNG NINH

1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên
Vân Đồn là một huyện đảo có toạ độ từ 20
0
40‟ đến 21
0
12‟ vĩ độ bắc và
từ 107
0
19‟ đến 107
0
42‟ kinh độ đông. Huyện lỵ là thị trấn Cái Rồng trên đảo
Cái Bầu cách thành phố Hạ Long gần 50 km, cách Cửa Ông 7 km. Phía bắc

giáp vùng biển huyện Tiên Yên và huyện Đầm Hà. Phía tây giáp thị xã Cẩm
Phả, ranh giới là lạch biển Cửa Ông và sông Voi Lớn. Phía đông giáp vùng
biển huyện Cô Tô. Phía nam giáp vịnh Hạ Long và vùng biển Cát Bà thuộc
Hải Phòng.
Huyện Vân Đồn có diện tích đất tự nhiên là 59.676 ha, gồm 600 hòn đảo
lớn nhỏ trong đó có hơn 20 hòn đảo có người ở lớn nhất là đảo Cái Bầu. Đảo
Vân Đồn xưa thuộc huyện Nghiêu Phong cách trung tâm huyện 125 dặm về
phía đông, “ở giữa biển cả đứng sững ở không trung hai ngọn đối nhau, một
dòng nước thông ở giữa, dựng sách gỗ, đặt cửa quan, nhân dân ở dăng hai bên
bờ đời Lý, đời Trần, thuyền buôn các nước phần nhiều đậu ở đây”.[ 12; 11].
Đảo Quan Lạn (đúng là Quang Lạn có nghĩa là quang đãng, sáng đẹp)
ngày nay nằm trong quần đảo Vân Hải thuộc huyện Vân Đồn cách trung tâm
huyện 40 km. Đảo có diện tích là 11 km
2
gồm dân cư của 2 xã Quan Lạn và
Minh Châu cư trú trong 8 xóm (5 xóm chính và 3 xóm lẻ).
Đảo Quan Lạn thuộc vùng vịnh Bái Tử Long, đây là tuyến đảo phía
ngoài cùng của vịnh Bắc Bộ. Đảo Quan Lạn tương đối cách biệt với đất liền,
nằm ở vị trí tiền tiêu đối mặt với biển Đông, trở thành bức bình phong vững
vàng ngăn sóng biển che chắn cho Vân Đồn biến Vân Đồn thành nơi neo đậu
thuận tiện an toàn. Kể từ đại dương đi vào bến đầu tiên của thương cảng Vân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9
Đồn là Cái Làng nằm sát dưới chân núi Man thuộc đảo Quan Lạn. Quan Lạn
nằm trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng nối liền từ Trung Quốc,
Nhât Bản, Thái Lan, Philipin... với Việt Nam, do vậy nó đã từng là trung tâm
thương cảng Vân Đồn sầm uất và thịnh vượng.
Quan Lạn là một dải đất đẹp, trải dài theo hướng Đông Bắc- Tây Nam,
từ chân dãy núi Vân Đồn tới núi Gót, với những dãy núi cao ở phía Đông,

phía trước có 3 đỉnh núi, phía sau có 5 đỉnh núi tạo ra sự yên bình cho mảnh
đất này trước bão tố đại dương. Đảo Quan Lạn có hình củ lạc cùng với đảo
Ngọc Vừng có hình lưỡi kiếm, đảo Thừa Cống có hình ngôi sao bao quanh
đảo Cái Bàn trung tâm của thương cảng Vân Đồn xưa có hình chiếc thuyền
rộng lòng. Do địa hình đảo, nên đất có thể canh tác được rất ít (khoảng 43
mẫu) chủ yếu là đất cát thiếu nước. Tuy nhiên, Quan Lạn có nguồn tài
nguyên khá phong phú:
Trước hết là một ngư trường kín gió, nước sâu, ít lắng đọng. Trong “Đại
Nam nhất thống chí” về vùng đất Quảng Yên mục thổ sản có ghi lại những tư
liệu cho biết vùng Vân Đồn có nhiều hải sản phong phú về loài, số lượng [18,
tr47 - 49] như: Tôm he, mực, sá sùng, bào ngư, tôm rồng, hải sâm. Quan Lạn
nói riêng và Vân Đồn còn nổi tiếng với nguồn ngọc trai phong phú “ Trong
biển Vân Đồn, châu Tĩnh Yên có hạt châu... năm nào đêm trung thu có trăng
thì năm ấy có hạt châu”. [18, tr.20]
Bên cạnh đó đảo có nguồn tài nguyên rừng và đất rất lớn: rừng có nhiều
loại gỗ quý như lim, táu, nghiến đặc biệt là gỗ mần lái làm đình Quan Lạn là
thứ lâm sản đặc hữu ở đây mà không nơi nào khác có được và nhiều loại thú
quý như khỉ lông vàng, tắc kè, công…
Ngoài ra đảo Quan Lạn còn có nhiều bãi sú vẹt, có mỏ cát Vân Hải với
hàm lượng silíc cao 95%. Mỏ cát Vân Hải nằm ở đảo Cái Bàn giữa hai xã
Minh Châu và Quan Lạn trên diện tích 28 km2, có trữ lượng lớn trên 13 triệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10
tấn, sản lượng khai thác hàng năm khoảng 20 ngàn tấn/ năm. “Cát Quan Lạn
có nhiều tầng trong đó có 2 tầng có giá trị công nghiệp lớn là tầng cát trắng và
tầng cát trắng sữa. Hai tầng này nằm lộ ngay trên mặt đất và phân bố khá
rộng. Cát Quan Lạn phần lớn là tinh thể thạch anh, có độ cứng vạch được
thép...”. [21, tr46]
Quan Lạn có hai bãi tắm thiên nhiên rất đẹp: bãi Sơn Hào dài 3km được

coi là đệ nhất bãi tắm và bãi Sau Làng (hay còn gọi là bãi Đầu Núi) dài 2km.
Những bãi tắm đẹp với cát trắng trải dài còn giữ nguyên được vẻ hoang sơ,
môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm là những địa điểm lý tưởng cho hoạt
động du lịch và nghỉ dưỡng.
Với những tiềm năng trên Quan Lạn có thể trở thành hòn đảo kết hợp
các loại hình kinh tế với du lịch văn hoá - lịch sử, sinh thái với quần thể vịnh
Hạ Long - Bái Tử Long.
1.2. Quan Lạn trong lịch sử
Theo kết quả nghiên cứu khảo cổ học - lịch sử thì đảo Quan Lạn nói trên
và quần đảo Vân Hải nói chung đã có con người cư trú từ rất sớm. Di tích
Hang Soi Nhụ với bộ xương hoá thạch của người Việt cổ cách đây 2.500 năm
đến 3000 năm đã chứng minh điều này.
Dưới sự thống trị của phong kiến phương Bắc, vùng đất Yên Quảng có
nhiều tên gọi khác nhau mà Quan Lạn là một bộ phận của vùng đất này. Dưới
thời Hán, Yên Quảng là huyện Yên Định. Đến thời Lương (552-557) là quận
Ninh Hải, Hoàng Châu. Đời Tuỳ (581-618) gọi là quận Ninh Việt. Đời Đường
(618-907) gọi là quận Ngọc Sơn, Lục Châu.
Bước vào thời kì tự chủ, thời Đinh, Tiền Lê, Yên Quảng được gọi là trấn
Triều Dương. Năm 980, ở đây có đồn Vân trấn giữ vùng biển Đông Bắc của
nhà Lê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11
Quan Lạn xưa vào đời nhà Lý được gọi là đảo Cảnh Cước với hai xã
Minh Châu và Quan Lạn. Trong quần đảo Cảnh Cước- Cái Bầu- Vân Hải có
tới 300 hòn đảo, đảo Bản Sen là đảo lớn nhất sau đó đến đảo Quan Lạn. Đảo
Quan Lạn rộng 115 km2 với chiều dài 25 km. Năm Thuận Thiên thứ 4 (1023),
nhà Lý đổi trấn Triều Dương thành châu Vĩnh An. Năm 1149, Lý Anh Tông -
đời vua thứ 6 của vương triều Lý, sau nhiều lần cho người khảo sát vùng biển
Đông Bắc đã quyết định thành lập trang Vân Đồn - thương cảng đầu tiên của

nước Việt. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có chép “Kỷ tỵ (Đại Định) năm thứ
10 mùa xuân tháng 2 thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào
cảng Hải Đông xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là
Vân Đồn để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”.
Sở dĩ, vua Lý Anh Tông chọn Vân Đồn là nơi xây dựng cảng vì Vân Đồn
là vùng có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc chia cắt biển thành nhiều vũng,
luồng lạch sâu kín gió, thuyền bè neo đậu an toàn. Vân Đồn là của ngõ vào
vùng đồng bằng Bắc Bộ thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hóa từ đất liền
ra. Vân Đồn cách đất liền 40km do đó tầu ngoại quốc chỉ được phép đỗ ở Vân
Đồn không thể vào đất liền dò xét tình hình quốc gia Đại Việt.
Năm 1226, nhà Trần đổi châu Vĩnh An thành lộ Hải Đông gồm 8 huyện
trong đó có Vân Đồn. Năm Thiệu Phong thứ 9 (1349), đổi trang Vân Đồn
thành trấn Vân Đồn, đặt các chức quan trấn, quan lộ và Sát hải sứ (quan kiểm
soát trên mặt biển) để quản lý trấn Vân Đồn và thương cảng Vân Đồn. Đồng
thời tổ chức bố phòng chặt chẽ hơn với nhiều đồn bốt như đồn thuyền Giấy,
đồn cụ Phó Nhòm, đồn Con Quy... Ngoài ra còn đặt một đội quân đóng giữ ở
Vân Đồn gọi là Bình Hải quân. Cũng từ đây việc buôn bán và giao lưu văn
hoá trở nên sầm uất hơn trước rất nhiều. Trong thời kỳ này người dân người
dân nơi đây đã anh dũng tham gia cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên - Mông làm nên chiến thắng Vân Đồn lẫy lừng trên dòng sông Mang
- dòng nước chảy giữa 2 đảo Vân Hải và Cái Bàn năm 1288.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12
Từ 1407- 1427, dưới thời thuộc Minh, Quan Lạn là đất thuộc huyện Vân
Đồn, châu Tĩnh Yên, phủ Tân An.
Dưới thời Lê, Quan Lạn thuộc châu Vân Đồn, Thừa tuyên AnnBang.
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi: Vân Đồn có 10 trang, 1 phường. Lê Thánh
Tông cho rằng, Vân Đồn là vùng đất xa xăm, mỗi khi biên cảnh có động,
quan quản tiếp ứng không kịp, cần đặt vệ quân riêng. Triều đình lập ra An

phủ ty khám xét nguời, Sát hải sứ kiểm soát thuyền bè và Đề Bạc ty kiểm soát
sụ buôn bán đi lại ở Vân Đồn. Cùng với chính sách ức thương của nhà Lê sơ,
hoạt động buôn bán ở Quan Lạn không còn nhộn nhịp như trước nữa.
Đến thời nhà Nguyễn, do biển lùi cát bồi không còn phù hợp cho tàu biển
ra vào nữa nên thương cảng được chuyển vào trong nội địa với phố Hiến và
Hội An thì vai trò của Vân Đồn sa sút hẳn.
Đầu thời Tự Đức (1848-1883) Quan Lạn thuộc huyện Nghiêu Phong,
tỉnh Quảng Yên. Đời Duy Tân (1907- 1916) thuộc tổng Vân Hải huyện
Hoành Bồ.
Đến gần cách mạng tháng Tám, Quan Lạn thuộc tổng Vân Hải, châu
Cẩm Phả, tỉnh Quảng Yên, phạm vi của xã xưa kia rất rộng, ngoài Quan Lạn
còn có các đảo Ngọc Vừng, Vạn Cảnh, Phượng Mao, Phượng Hoàng - trong
đó Quan Lạn được coi là trung tâm.
Năm 1948, huyện Cẩm Phả được thành lập tách khỏi thị xã Cẩm Phả,
trực thuộc đặc khu Hòn Gai. Năm 1994 đến nay, huyện Vân Đồn được thành
lập. Quan Lạn là một xã thuộc tuyến đảo của huyện Vân Đồn.
Cư dân đảo Quan Lạn hay còn gọi là Làng Cả hay Cái Làng trước đây
sống tại 5 xóm chính: Đông, Nam, Đoài, Bắc và xóm Ruộng. 1940 một bộ
phận xóm Đoài tách ra lập xóm mới gọi là xóm ngoài (xóm Đầu Mái). Ngoài
ra còn 3 xóm lẻ là Hải Yến, Sơn Hào, Tân Lập.
Hiện nay đảo Quan Lạn có hơn 650 hộ dân cư trú trên diện tích rộng 11
km
2
trong 8 thôn làng. Trong đó người Kinh chiếm 99,5%, người Hoa chiếm
0,5% dân số trên đảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13
1.3. Thành phần dân cư, dân tộc
Con người có mặt ở vùng biển Vân Đồn hơn một vạn năm trước. Vào

thời đại đá mới, đầu thời đại kim khí, Vân Đồn nằm trong khu vực phân bố
của văn hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ Long. Chủ nhân của những nền văn hoá
này là những bộ lạc trồng trọt, săn bắn, đánh cá, sống ở vùng ven biển và hải
đảo. Bước vào thời kì lịch sử, Quan Lạn tiếp tục là địa bàn cư trú của con
người. Ngoài cư dân bản địa sinh sống ở đây từ trước, người dân ở nhiều nơi
cũng tìm đến vùng đảo này để sinh cơ lập nghiệp.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của đảo, thành phần các dân tộc cùng sinh sống
không có nhiều. Trong đó người Kinh chiếm số lượng đông nhất, người Hoa
chỉ chiếm 0,5% dân số trên đảo.
Người Kinh cư trú trên đảo Quan Lạn từ rất sớm. Họ thành lập các làng
sơ khai. Làng là đơn vị tụ cư đồng thời cũng là đơn vị tổ chức xã hội cơ sở
của người Việt. Mỗi làng có kiểu kiến trúc riêng, hầu hết dựa theo nguyên tắc
chung là có các thiết chế tập hợp người theo quan hệ huyết thống và quan hệ
láng giềng. Cùng với việc cư trú ổn định thành làng mạc, người Kinh cũng
xây dựng những mối quan hệ gia đình, dòng họ. Gia đình người Kinh là đơn
vị tụ cư nhỏ nhất và chặt chẽ nhất, là đơn vị sản xuất và tái sản xuất sức lao
động, duy trì giống nòi. Gia đình người Việt là gia đình nhỏ phụ quyền mà
biểu hiện chính là uy quyền của người cha với con cái, của người chồng đối
với vợ, đối với quyền thừa kế của con trai, nhất là con trai trưởng; là đơn vị di
truyền văn hoá, giáo dục đạo đức, đề cao chữ hiếu. Dòng họ là sự mở rộng
của gia đình, là hình thức tập hợp người theo quan hệ huyết thống, trong đó
trưởng họ có vai trò to lớn đối với dòng họ của mình.
Người Hoa vào Quan Lạn sinh sống một số ít là những quan lại cai trị
giàu sang từ thời nhà Hán, còn đa phần là khách buôn đến đây sinh cơ lập
nghiệp. Người Hoa sống trong những thôn xóm riêng. Trong thôn xóm đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14
có đền, chùa, đình, miếu thờ thành hoàng, miếu thờ thần đá núi.... Hình thức
gia đình phổ biến của người Hoa là gia đình phụ hệ, có nhiều thế hệ cùng

chung sống. Chủ hộ là đàn ông giữ vai trò gần như độc tôn trong các hoạt
động của gia đình. Bên cạnh những bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, trong
quá trình sinh sống người Hoa đã tiếp nhận nhiều nét văn hoá của cư dân
bản địa và hoà nhập vào những sinh hoạt văn hoá cộng động trên đảo Quan
Lạn, hướng về những thế lực tự nhiên che chở và những nguời có công đối
với mảnh đất này.









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15

Chương 2
VĂN HOÁ VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH

Thập niên bốn mươi của thế kỉ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một
khái niệm về văn hoá “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá”. [13; ]. Con người sống trong mối quan hệ chặt
chẽ với tự nhiên. Cách thức ứng xử với môi trường tự nhiên là một thành tố

quan trọng hệ thống văn hoá. Việc con người tận dụng và ứng phó với môi
trường tự nhiên đã tạo nên những giá trị văn hoá vật chất và biến nó trở thành
phương tiện để thể hiện những giá trị tinh thần trong đời sống.
2.1. Ăn- ở- mặc- đi lại
Ăn uống là văn hoá, chính xác hơn đó là văn hoá tận dụng môi trường tự
nhiên. Nếu như cơ cấu bữa ăn của người dân trong nội đồng thể hiện dấu ấn
của truyền thống nông nghiệp lúa nước. Thì ở Quan Lạn cơ cấu bữa ăn có
nhiều khác biệt do điều kiện tự nhiên và đặc trưng nghề nghiệp quy định.
Cơm là món ăn phổ biến thường nhật của nguời dân Quan Lạn. Cư dân ở đây
thường ăn ba bữa chính trong ngày: sáng, trưa và tối. Các bữa ăn thường ngày
trong mỗi nhà xoay quanh các món ăn cơ bản là cá, thịt, trứng, rau... Trong
điều kiện kinh tế khó khăn, nếu người dân ở các vùng nông thôn thường nấu
cơm khoai, cơm sắn thì người dân ở đây lại thường ăn cháo, gần như thành
một tập quán. Các món cháo trong đời sống của người dân nơi đây phổ biến là
các loại cháo nấu từ đặc sản biển như cháo cá, cháo ngán, cháo hà... Các loại
cháo nấu từ hải sản không cầu kì lắm. Cần nhất là nguyên liệu phải tươi, đảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16
bảo độ ngọt mát của cháo. Cách nấu cháo ở vùng hải đảo cũng rất riêng biệt.
Thường bữa tối, người ta cho gạo vào nước, đun sôi kĩ. Khi hạt gạo chín tới
thì vớt ra ủ vào lò, thành cơm, chủ yếu dành cho người già, trẻ nhỏ, người ốm
đau và trẻ mới sinh còn nhỏ. Số còn lại nấu thành cháo bình thường. Cháo
được ăn như cơm, nghĩa là có thức ăn kèm theo có thể là thịt, cá hoặc chỉ là
rau, dưa muối. Ngoài gạo tẻ dùng làm nguyên liệu nấu ăn hàng ngày còn có
gạo nếp. Gạo nếp dùng để đồ xôi như xôi trắng, xôi gấc, xôi đậu xanh... Xôi
còn là món không thể thiếu khi sắp lễ cúng và trong mâm cỗ ngày giỗ, ngày
tết và tiệc cưới.
Phổ biến trong bữa ăn của người dân Quan Lạn là các món ăn chế biến
từ hải sản. Hình thức phơi khô được áp dụng rộng rãi cho nhiều loại hải sản.

Chế biến cá khô: người dân thường mổ phanh lưng, đem phơi khô để
dành ăn dần. Cá khô cũng như các loại hải sản khô khác có thể bảo quản dài
ngày, vận chuyển được đi xa phục vụ trao đổi, buôn bán. Gặp nắng to, ngư
dân thường phơi cá ngay trên mui thuyền. Cá tươi được nắng không cần ướp
muối nhiều là một mặt hàng đắt giá.
Mực khô: Các loại mực nang, mực ống muốn chế biến thành các loại
mực khô phải chế biến ngay khi mực còn tươi nguyên. Mực được mổ phanh,
phơi trên mui thuyền. Cứ 5 kg mực tươi chế biến được 1 kg mực khô. Người
dân thường đem mực thị trường bán hoặc cất giữ trong chum, ang để ăn dần
hoặc bán dần cho tới mùa mực năm sau. Mực Quan Lạn được coi là một loại
đặc sản có giá trị, tuy con mực không to nhưng hàm lượng đạm cao, có vị
ngọt không đâu bằng.
Sá sùng khô: Sá sùng bắt về có thể xào ăn tươi, khi đem phơi khô sẽ trở
thành một loại đặc sản. Người dân dùng một đầu đũa vót nhọn xiên từ đầu lộn
ngược lại, rửa sạch ruột, chỉ lấy mình rồi đem phơi khô. Được nắng sá sùng
trắng bóng, hơi ngả vàng. Sá sùng khô có độ đạm cao. Khi ăn, rang khô, xoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17
cho bụng sạch cát. Cũng có thể rán giòn trong dầu mỡ. Không phải chỉ ở
Quan Lạn mới có nghề khai thác sá sùng và sử dụng nó trong đời sống song
sá sùng được coi như một sản phẩm đặc hữu của Quan Lạn.
Cà ghim (cầu gai) là một đặc sản có nhiều ở vùng đảo Vân Hải. Người
dân trong quần đảo Vân Hải nói chung và Quan Lạn nói riêng thường chế
biến thành các món ăn như mắn cà ghim và chả cà ghim. Việc chế biến mắm
cà ghim rất công phu. Ngư dân thường dùng hai que cứng cùng xâu vào một
chỗ trên thân cà ghim, tách que về hai phía làm cho hai mảnh vỏ cà ghim rời
ra. Thịt cà ghim cho vào nước ngọt từ 30- 40 phút để ruột cà ghim tách khỏi
thân. Vớt cà ghim sang một chậu nước sạch, dùng que nứa nạo sạch màng
ruột còn bẩn, đồng thời tách riêng từng mảng thân cà ghim, vớt ra rổ để thật

ráo nước, cho muối vào. Muối từ 3- 5 tháng là ăn được. Nếu ăn ngay thì giảm
nửa lượng muối, trộn thật đều cho muối tan. Để sau 3-4 ngày đem ăn. Mắm cà
ghim thường sệt, quánh. Màu vàng nâu nhạt. Mùi vị chua, ngậy béo.
Người dân tuyến đảo Vân Đồn trong đó có Quan Lạn sử dụng nhiều
món ăn chế biến từ ốc. Ốc luộc lá bưởi, ốc xào.. là những món ăn dân dã
được ưa dùng.
Do có nhiều rạn đá, bãi cát nên các loài nhuyễn thể rất phong phú. Loài
trai ngọc là loại thực phẩm quý để nấu cháo. Ngoài ra trong bữa cơm thường
ngày của ngư dân rất phổ biến món canh nấu từ những loài nhuyễn thể đánh
bắt được từ biển như con điệp, móng tay, méo mồm, phi phi, mỏ quạ, con
quéo... có thể nấu với một loại rau củ nào đó hoặc nấu riêu chua.
Trong ngày tết, đám cưới, đám giỗ, khi ma chay các gia đình ở Quan Lạn
đều sắp cỗ. Mâm cỗ to hay nhỏ, nhiều hay ít món, món đơn giản hay cầu kì,
không chỉ phụ thuộc vào khả năng của thân chủ hay vị thế của thực khách mà
còn phụ thuộc tính chất của lễ tiết. Mâm cỗ Tết thường có rất nhiều món,
mâm cỗ đám cưới cần thể hiện đầy đủ sự sang trọng, mâm cỗ đám ma thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

18
ít món, các món ăn không cầu kỳ... Các món ăn trong mâm cỗ ở Quan Lạn
cũng mang đầy đủ đặc trưng vùng biển đảo. Hầu hết các món ăn đều chế biến
từ hải sản như mực, tôm, ngán, cua, ốc... Song do điều kiện sống còn thấp,
phần lớn người dân lại lựa chọn cách chế biến đơn giản là luộc và nướng. Các
loại hải sâm, bào ngư của đảo cũng được sử dụng trong chế biến các món ăn
cao cấp như gà tần hải sâm, gà nấu bào ngư. Đặc biệt người dân Quan Lạn có
món chả sam, sam xào chua ngọt hoặc nấu với lá lốt.
Về đồ uống: Rượu là thức uống khá phổ biến trong cộng đồng cư dân
biển đảo. Rượu có thể tự chế biến hoặc mua bán, trao đổi với các vùng khác.
Rượu làm từ gạo nếp. Gạo nếp được đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất ra. Phổ
biến là rượu trắng hoặc rượu trắng ngâm các loại thuốc như ba kích, tắc kè,

thảo dược.. khai thác từ rừng Quan Lạn. Rượu ngán đặc biệt hơn cả. Rượu
ngán là rượu trắng khi uống pha với tiết con ngán. Ngán sau khi rửa sạch,
chần qua nước sôi. Ruột ngán cho vào cốc nghiền nhuyễn, cho rượu mạnh vào
khuấy nhẹ. Tiết ngán hoà tan với rượu chuyển màu hồng tươi. Rượu ngán
uống khi nóng có mùi thơm rất đặc trưng.
Cây chè và tục uống chè cũng là một thói quen lâu đời của người dân
Quan Lạn. Họ uống chè tươi, chè khô, chè ướp hoa... Đặc biệt ở vùng đất này
nổi tiếng với đặc sản chè làng Vân.
Mặc dù làm nghề chài dưới, song do điều kiện cư trú trên đảo, nên nhà ở
vẫn là hình thức cư trú chủ yếu. Nhà ở của người dân Quan Lạn mang đặc
điểm riêng của vùng miền và quan niệm chung về mái nhà của dân tộc. Để
ứng phó với môi trường vùng biển đảo khắc nghiệt, ngôi nhà được dựng kiên
cố, cao và thoáng mát. Hướng của ngôi nhà nhất thiết phải là hướng nam để
tránh cái nóng từ phía tây, bão từ phía đông, gió lạnh thổi về vào mùa rét, lại
tận dụng được gió mát thổi về từ phía nam vào mùa nóng. Cũng do địa hình
trên đảo, nên hầu hết ngôi nhà ở Quan Lạn đều có được thế phong thuỷ đẹp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19
“tựa sơn, đạp thuỷ”. Nhà không chia thành nhiều phòng nhỏ riêng biệt. Nhà
bao giờ cũng gắn liền với đời sống tâm linh của mỗi người. Bàn thờ tổ tiên
bao giờ cũng đặt ở nơi trang trọng nhất, chính diện của ngôi nhà. Trước bàn
thờ tổ tiên, người dân thường dành làm nơi tiếp khách. Phổ biến hơn cả là nhà
3 gian đứng (không có chái) và lợp ngói âm dương. Vật liệu xây dựng chủ
yếu là tre, gỗ. Trừ hiên rộng ở mặt nhà, bên trong nhà chia thành hai phần
theo chiều dọc, trước và sau.
Bên cạnh nhà ở trên đất đảo, ngư dân cũng xem con thuyền là phương
tiện cư trú tạm thời trong những ngày đi biển. Con thuyền tuy nhỏ hẹp nhưng
cũng được bố trí chỗ ăn, chỗ ngủ khá ngăn nắp. Khoang ở đuôi thuyền là nơi
đặt bếp để nấu ăn khi đi biển. Tiếp theo là khoang dành cho ăn uống và ngủ.

Đầu mũi thuyền để ngư cụ (công cụ đánh bắt) và đặt mâm cúng khi cúng Hà
Bá và cúng gia tiên vào chiều 30 Tết.
Không chỉ là ngôi nhà tạm trên biển, con thuyền với người dân Quan
Lạn được xem là phương tiện đi lại chủ yếu là một tài sản lớn-kế sinh nhai
của mỗi gia đình. Con thuyền của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng
là đan bằng tre già ngoài có trát vôi, hắc ín nhựa cây. Cư dân Quan Lạn do
ngày đêm trực tiếp với sóng gió biển khơi nên dùng chủ yếu là thuyền cóc đáy
bằng, có buồm cánh dơi để đánh giã lưới. Cánh buồm là những tấm phên đan
bằng tre hoặc nứa, vừa làm mui che nắng mưa vừa làm buồm khi gặp gió thuận
nước xuôi.
Hầu hết dân số trên đảo Quan Lạn đều là người Kinh. Trang phục của họ
về cơ bản giống với nhân dân ở trong nội đồng. Do không thể tự cung cấp
nguyên liệu may mặc, cũng như không có nghề dệt nên hầu hết trang phục
của người dân đều do trao đổi mua bán, trao đổi với các khu vực khác. Phụ nữ
để tóc dài, đội nón lá già, mặc áo cánh màu nâu, xẻ tà, cổ tròn, mở ngực. Dưới
vạt của hai thân có hai túi nhỏ. Yếm là đồ mặc đặc thù của người phụ nữ với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20
nhiều màu sắc dùng riêng cho từng dịp khác nhau: mặc màu nâu khi đi làm
vào ngày thường, yếm hồng cho dịp lễ hội. Quần có ống rộng và thẳng, đũng
sâu, cạp quần to bản. Khi mặc người ta buộc dây thắt lưng nên gọi là quần lá
toạ. Bên ngoài cạp quần có bao tượng và thắt lưng bằng vải. Chỉ trong những
ngày hội hè, lễ tết.. phụ nữ mới mặc thêm áo dài với 2 kiểu là áo 4 thân và áo
5 thân. Đàn ông cắt tóc ngắn, mặc áo cánh nhuộm nâu. Áo cánh của nam giới
chỉ khác áo của nữ giới ở độ dài, rộng. Vào ngày lễ, nhiều người mặc áo dài
đen, quần trắng hoặc nhuộm nâu. Cả nam và nữ đều đi chân đất, ít người
mang guốc dép.
2.2. Hoạt động kinh tế
2.2.1. Kinh tế ngư nghiệp

Đảo Quan Lạn có hơn 4000 dân, sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau
như nông nghiệp, nghề vận tải biển, khai thác lâm thuỷ sản. Trong đó có 70 %
dân số làm nghề chài lưới, đánh bắt hải sản.
Nghề đánh bắt cá biển có truyền thống từ lâu đời cách đây hàng vạn
năm kể từ khi con người sinh sống trên đảo nhưng chủ yếu là đánh bắt trong
lộng và ven biển. Tại làng Quan Lạn xưa chỉ có 10 thuyền chuyên đi đánh cá
và các chủ thuyền cũng sử dụng nhân công đi đánh bắt. Quan hệ hợp tác
giữa chủ thuyền với bạn thuyền, giữa bạn thuyền với nhau là những quan hệ
chủ yếu.
Con thuyền là phương tiện đi lại, đánh bắt cá. Nó gắn liền với cuộc sống
nghề nghiệp của mỗi người dân nơi đây. Thuyền không chỉ là thứ tài sản lớn
nhất, là kế sinh nhai mà còn là ngôi nhà thứ hai trên biển của họ. Con thuyền
của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng là đan bằng tre già ngoài có trát
vôi, hắc ín nhựa cây. Có được thuyền gỗ là một sự thay đổi lớn vì thuyền nan
dễ bục, rất chóng hỏng, không thể đan to. Cư dân Quan Lạn do ngày đêm trực
tiếp với sóng gió biển khơi nên dùng chủ yếu là thuyền cóc đáy bằng, có buồm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21
cánh dơi để đánh giã lưới. Cánh buồm trước đây đối với bè mảng thuyền nan
chỉ là những tấm phên đan bằng tre hoặc nứa, vừa làm mui che nắng mưa vừa
làm buồm khi gặp gió thuận nước xuôi. Đối với thuyền gỗ do điều kiện kinh tế
quá nghèo, ngư dân phải dùng các bao tải bằng cói, bao tải đay làm buồm.
Người dân Vân Hải đã sáng tạo ra nhiều hình thức khai thác thuỷ sản với
những công cụ và phương tiện đánh bắt riêng, thúc đẩy kinh tế ngư nghiệp
phát triển:
Nghề chắn đăng đặc biệt là đăng mực, người dân lấy tre nuột để ken
đăng, lấy cây làm cọc để cắm đăng. Một thuyền thường có 45 - 50 cuộn đăng
dài 800 - 1000 m hoặc có thể dài hơn, thường đăng vào ban đêm khi nước rút.
Ngư dân đã tổng kết “đăng dài, chài rộng” mới mong được nhiều cá. Nghề

chắn đăng hoạt động từ tháng 2 đến tháng 9 hàng năm.
Quan Lạn có nghề đào sá sùng từ lâu đời. Sá sùng (gọi nôm là con mồi,
chữ Hán là sâu cát) chỉ sống trong môi trường bãi cát pha có nước triều lên
xuống. Với 400 hecta bãi lầy, nghề khai thác sá sùng là nghề chính đem lại
nguồn thu lớn cho người dân Quan Lạn hiện nay. Người dân chờ khi nước
thuỷ triều cạn dùng mai đào sá sùng trong cát. Sá sùng bắt về có thể xào ăn
tươi, khi đem phơi khô sẽ trở thành một loại đặc sản có giá trị để trao đổi
mua bán.
Tại Quan Lạn, từ xưa tới nay vẫn tồn tại hình thức người giàu có thuê
người nghèo khó đào sá sùng. Thông thường người chủ đưa 3 đồng vốn để
người nghèo đong gạo hàng ngày đi đào sá sùng, chiều về thu được bao nhiêu
thì nộp cho chủ. Mỗi kg sá sùng tươi, người đào thuê được thanh toán 1 hào 2.
Cứ 15 ngày hết một chu kì con nước thì người đào thuê và chủ thanh toán với
nhau. Nếu số sá sùng đào được quy đổi vượt quá số đã nhận thì người làm
thuê được thanh toán đầy đủ và được vay tiếp số tiền mới nếu có yêu cầu. Nếu
giá trị số sá sùng chưa bằng số tiền đã vay thì chủ nợ vẫn cho người đào sá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

22
sùng vay tiếp. Tất cả các khoản vay đều không tính lãi. Điều đó đã tạo ra mối
quan hệ liên kết phụ thuộc, dựa dẫm vào nhau theo kiểu hai bên cùng có lợi.
Mối quan hệ như vậy là khá bền chặt. Người thuê có cái lợi là có được cái ăn
hàng ngày, không phải lâm vào cảnh vay lãi. Còn chủ cho vay thì có nguồn
thu ổn định lâu dài, càng có nhiều vốn, càng cho được nhiều người vay thì
nguồn thu của chủ càng lớn và càng ổn định. Song đối với người quá nghèo
thì đó chính là một cái bẫy mà họ khó lòng thoát nổi, bởi vì chắc chắn suốt
đời họ sẽ phụ thuộc vào chủ cho vay. Trên thực tế lãi suất của nghề này
không cao, nhưng do mở rộng diện cho thuê để có nguồn thu chắc chắn nên
nhiều người đã trở nên giầu có. Ví dụ như các ông Châu Văn Tất, Nguyễn
Văn Sự, Vũ Văn Dũng, Phạm Văn Khu, Phạm Văn Nhân... Những người này

cho vay tiền để mua sá sùng về làm sá sùng khô bán cho người Trung Quốc.
Theo ngư dân nơi đây, vào những năm 1939-1940, một kg sá sùng tươi giá 1
hào 2 xu, cứ 4 kg tươi được 1kg khô, giá 1kg khô từ 7 đến 8 hào. Trừ các
khoản chi phí, còn lãi được 1 hào 2 xu đến 1 hào 5 xu. Như vậy bình quân
mỗi ngày đào được 2kg sá sùng tươi thì một tháng làm việc trung bình 25
ngày sẽ đào được 50 kg tươi, bằng 12 kg khô. Như vậy với 3 đồng vốn bỏ ra,
sau một tháng người chủ lãi được từ 1 đồng đến 1 đồng rưỡi, cao hơn mức
cho vay nặng lãi.
Nghề rậu cá, rậu sam dựa vào các bãi ven đảo khi nước thuỷ chiều rút trên
các bãi cạn ngư dân dùng các loại cây nhỏ dài, dài ngắn tuỳ thuộc từng nơi nước
nông hay sâu nhưng thông thường dài 1m cắm dậu cố định để bắt cá, sam. Mỗi
khi nước rút ngư dân chỉ việc ra bắt cá, bắt sam trong “chuồng”. Ngư dân
phường Gót, phường Tân Phong xã Quan Lạn là hai phường chuyên làm nghề
rậu cá, rậu sam.
Nghề truyền thống lưới rê, chuyên đánh cá mòi. Nghề rê lưới đòi hỏi có
thuyền trọng tải từ 1 tấn trở lên, 3-4 lao động trên một thuyền. Họ dùng 5 - 6
cheo lưới dài 400- 500m/cheo, cao 3-4,5m, cỡ mắt lưới từng then 2-3cm, có

×