Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.96 KB, 72 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

ĐẶNG THỊ HIỀN

Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đồn kết tồn
dân tộc thời kỳ đổi mới

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


2

Lời cảm ơn
Trước hết tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Thạc sỹ
Nguyễn Tiến Lương. Thầy đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tơi
trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy cơ trong khoa Giáo dục Chính
trị - Đại học sư phạm, q thầy cơ trong khoa Lý luận Chính trị – Đại học
kinh tế cùng tất cả các bạn sinh viên đã giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện
khóa luận.
Trong một thời gian ngắn, lại lần đầu làm nghiên cứu, do đó khơng thể
tránh khỏi những khiếm khuyết. Bởi vậy, tơi rất mong được sự đóng góp ý
kiến của quý thầy cô và các bạn để đề tài của tơi được hồn thiện hơn.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2012


Sinh viên
Đặng Thị Hiền


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc; là một trong những
bài học lớn của cách mạng nước ta; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và
là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Truyền thống ấy được hình thành qua hàng ngàn năm dựng nước của dân
tộc. Ngay từ thuở khai thiên lập quốc, đất nước ta đã phải thường xuyên
chống chọi với thiên tai, địch họa. Để vượt qua mn vàn khó khăn đó, nhân
dân ta đã biết đồn kết, trên dưới một lòng đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Đoàn kết trở thành truyền thống quí báu của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và phát
huy truyền thống đoàn kết dân tộc trong lịch sử dựng nước; đồng thời vận
dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về đoàn kết vào điều kiện cụ
thể của nước ta, nâng truyền thống đoàn kết dân tộc lên một tầm cao mới.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ
trương đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất để cùng nhau đánh
giặc. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn chủ trương thành lập mặt
trận dân tộc nhằm củng cố, tăng cường một cách vững chắc và sâu rộng tinh
thần đoàn kết dân tộc. Bằng chính sự lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đoàn kết được toàn thể nhân dân Việt Nam để làm nên những thắng
lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong qúa trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh rút ra kết

luận:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”


4

Mười bốn chữ vàng trên được ghi trong sổ vàng của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trở thành mục tiêu và phương châm hành động cho toàn Đảng, toàn
dân ta. Đó là tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Trong thời đại
ngày nay tư tưởng đại đoàn kết của Người vẫn tỏa sáng. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết. Đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang
của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước diễn ra
trong tình hình mới địi hỏi sự nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết dân tộc.
Bởi sự nghiệp đổi mới hiện nay cùng với sự tác động của xu thế tồn cầu hóa
đã đặt ra nhiều vấn đề về tập hợp lực lượng, về đoàn kết mà chúng ta cần
nghiên cứu, giải đáp một cách nghiêm túc. Với mong muốn nhận thức sâu sắc
hơn về đường lối xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng trong thời kì
đổi mới, chúng tơi chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc thời kỳ đổi mới” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thời kì đổi mới là một vấn đề lớn
mang tính thời sự, tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Các văn kiện, Nghị quyết
của Đảng qua các kì Đại hội từ Đại hội VI đến nay đã cho thấy sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước ta, và chứng tỏ tầm quan trọng của đại đoàn kết dân
tộc trong thời kì đổi mới.

Đã có nhiều tác giả với các cơng trình của họ nghiên cứu về cơng cuộc
đổi mới ở Việt Nam nói chung và vấn đề xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
ở nước ta nói riêng. Tiêu biểu có những cơng trình như: Phùng Hữu Phú,
Chiến lược đại đồn kết dân tộc Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1995.
Cao Huy Dạ, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, Nxb. Chính trị


5

Quốc gia, Hà Nội, 2004. Lê Văn Tích, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức
mạnh đại đồn kết dân tộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003. Lý luận chính trị
(số 5). Các cơng trình, bài viết trên đã đề cập đến nội dung tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Đó là một trong những cơ sở lý luận để Đảng
lãnh đạo chủ trương xây dựng đại đồn kết dân tộc. Bên cạnh đó cịn có các
tác phẩm, bài viết như: Đinh Xuân Lý, Một số chuyên đề lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2007. Trần Hậu, Góp phần
nghiên cứu khối đại đồn kết dân tộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2008.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập khá sâu về vấn đề đại đoàn
kết dân tộc. Đó là nguồn tư liệu hết sức q giá giúp tơi hồn thành đề tài tốt
nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Đề tài làm rõ sự hình thành, sự phát triển đường lối, chủ trương về xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kì đổi mới.
Qua việc nghiên cứu, rút ra bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hình thành và phát triển
đường lối đại đồn kết của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Làm rõ nội dung đường lối xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của

Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Nêu lên những bài học kinh nghiệm về xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc trong thời kì đổi mới và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu


6

Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc.
* Phạm vi nghiên cứu
Đường lối xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng thời kì đổi mới
từ Đại hội VI đến Đại hội XI.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về đồn kết dân tộc; và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp: Phương pháp lịch sử, phương
pháp lơgic, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để làm sáng
tỏ nội dung nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài trình bày một cách có hệ thống về đường lối xây dựng khối đại
đồn kết dân tộc của Đảng trong thời kì đổi mới. Qua đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm xây dựng khối đại đồn kết dân tộc ở nước ta.
Góp thêm nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu, học tập môn Đường lối
cách mạng của Đảng và môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài gồm có 2 chương, 8

tiết và cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Chương 2: Đường lối của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc thời kỳ đổi mới (1986- 2011)


7

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
Bất cứ một chủ trương, đường lối nào của Đảng đều được xây dựng dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định. Điều này đã được các nhà lý
luận Mác- Lênin chỉ rõ “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào
cách mạng vận động”, hay “thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã căn cứ vào những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống đại đoàn kết của dân tộc và
căn cứ vào thực tiễn thế giới, thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường
lối. Đường lối đoàn kết dân tộc của Đảng được hình thành cũng dựa trên
những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đó.
1.1. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về đoàn kết là cơ
sở lý luận hết sức quan trọng hình thành đường lối đoàn kết của Đảng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, cách mạng không phải là kết quả
của những hoạt động có tính chất âm mưu mà là sự vận động của đơng đảo
quần chúng có giác ngộ về một mục tiêu chung nhằm đánh đổ chế độ thống trị
của nước ngoài. Như vậy, cách mạng là sự nghiệp của cả dân tộc chứ không
phải của riêng giai cấp nào, cách mạng chỉ dành được thắng lợi khi có sự
đồng tâm nhất trí của tồn thể nhân dân.

Chủ nghĩa Mác cũng cho rằng, giai cấp vô sản là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử, sáng tạo ra một thế giới mới thực sự tốt đẹp hơn. “Trong cuộc đấu tranh
lật đổ chế độ tư bản, giai cấp vô sản chẳng mất gì hết ngồi những xiềng xích
trói buộc. Họ sẽ giành được cả thế giới” [16, 646]. Để làm được điều đó, cần
phải có sự đồn kết với những người bị áp bức, bóc lột cả trong nước và nước
ngồi. Trong tun ngơn Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã đưa ra khẩu
hiệu chiến lược “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.


8

Vai trị sứ mệnh của giai cấp vơ sản được chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ: ở
trong mỗi nước, giai cấp vơ sản là giai cấp cách mạng nhất. Ngồi ra cịn có
những tầng lớp bị giai cấp tư sản bóc lột cũng làm cách mạng như tiểu nơng,
tiểu tư sản thành thị. Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đồn kết với
những người bị áp bức bóc lột, coi liên minh công nông là cơ sở để xây dựng
lực lượng to lớn của cách mạng. Cách mạng cần phải có Đảng để đưa đến
thắng lợi. Đảng cách mạng phải tổ chức, tập hợp lực lượng quần chúng vào
phong trào đấu tranh. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi, sứ mệnh lịch sử, giai
cấp vơ sản phải có bộ tham mưu ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới để lãnh
đạo. Chính C. Mác và Ăngghen đã thành lập những người đồng minh, những
người cộng sản và soạn thảo “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nổi tiếng.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trở thành cương lĩnh đồn kết, đấu tranh
của giai cấp vơ sản tồn thế giới. Lênin đã nhận định: Tồn thể giai cấp vơ
sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh, cho đến nay, sống và
hoạt động nhờ có tinh thần của cương lĩnh đó.
Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng
quốc tế của Mác - Ăngghen trong thời kì lịch sử mới. Ơng đã nêu lên vấn đề
đồn kết những người vơ sản với nhân dân các nước bị bóc lột nhằm chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc thành khẩu hiệu chiến lược “giai cấp vô sản

và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”. Trong Cách mạng tháng
Mười Nga, Lênin chỉ rõ: “Trong cuộc nội chiến của chúng ta, chống giai cấp
tư sản, chúng ta sẽ tập hợp được lực lượng nhân dân hợp nhất lại, không phải
bằng sức mạnh của đồng rúp, không phải bằng sức mạnh của dùi cui, không
bạo lực cách mạng, mà bằng sự thỏa thuận tự nguyện và bằng sự đồn kết
những người lao động chống bóc lột” [16, 37].
Bằng thực tiễn của các cuộc chiến tranh cách mạng, Lênin đã nghiên cứu
và nhận định rằng: Toàn bộ lịch sử của cơng cuộc giải phóng đều chỉ cho
chúng ta thấy rằng khi các cuộc chiến tranh được đông đảo quần chúng nhân


9

dân tham gia một cách chủ động thì cơng cuộc giải phóng được thực hiện
nhanh chóng.
Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh tiếp
thu và truyền bá về nước xây dựng nên đường lối cách mạng, trong đó có
đường lối xây dựng khối đại đồn kết dân tộc. Trong q trình đó, Hồ Chí
Minh đã phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin cho phù hợp
với hồn cảnh Việt Nam, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết
dân tộc. Đây cũng là cơ sở lý luận hết sức quan trọng cho việc hình thành
đường lối đồn kết dân tộc của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1.2.1. Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, đảm bảo thành cơng của cách
mạng
Với Hồ Chí Minh “Đồn kết, đồn kết, đại đoàn kết" là một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Đoàn kết”, trước hết
là đoàn kết trong nội bộ Đảng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, đoàn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế. “Đoàn kết” tiếp theo là đoàn kết dân tộc. Đoàn kết dân
tộc là nhân tố tạo nên sức mạnh dân tộc, là cơ sở vững chắc để thực hiện đại

đoàn kết - đoàn kết quốc tế. “Đại đoàn kết” là đoàn kết quốc tế. Đoàn kết dân
tộc là yếu tố làm nên sức mạnh dân tộc, thì đại đoàn kết, tức đoàn kết quốc tế
là nhân tố hết sức quan trọng tăng thêm sức mạnh đó.
Đồn kết phải được dựa trên mục tiêu chung, dựa trên những điểm tương
đồng để tạo nên sự thống nhất, sự đồng thuận là cơ sở vững chắc cho xây
dựng và thực hiện đoàn kết. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược, mục tiêu chung và điểm tương đồng đó là độc lập
dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, mục tiêu
chung, điểm tương đồng đó là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cồng bằng, văn
minh. Vì vậy, trong từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng có thể phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với từng đối


10

tượng khác nhau. Đồn kết dân tộc ln được thừa nhận là vấn đề sống cịn
của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công…Từ thực tiễn
cách mạng, Người rút ra chân lý “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Hồ Chí Minh đã đi sâu lý giải hàng loạt
các vấn đề như: vì sao phải đoàn kết, làm thế nào để đoàn kết, điều kiện để
đồn kết.
Trước hết, phải đồn kết là vì muốn cách mạng thành cơng phải có lực
lượng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội thì phải đồn kết.
Bên cạnh đó, đồn kết dân tộc là đồn kết rộng rãi khơng phân biệt bất
cứ ai, miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Hồ Chí Minh chỉ rõ nền tảng của đại đồn kết
dân tộc là cơng – nơng – tri thức để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân

dân.
Nhân dịp 30 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã
nói: Đảng ta khéo léo tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong mặt
trận dân tộc thống nhất, thực hiện đại đoàn kết để đấu tranh chống đế quốc và
phong kiến. Lực lượng chủ yếu trong khối đại đồn kết là cơng nơng, cho liên
minh công nông làm nền tảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng ta luôn
đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cơ độc, hẹp hịi, coi nhẹ việc
tranh thủ tất cả các lực lượng có thể tranh thủ được, đồng thời đấu tranh
chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đồn kết khơng có đấu tranh đúng
mức trong một mặt trận. Trong thư gửi đại hội các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Giarai hay Êđê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng


11

khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước đây chúng ta xa cách nhau, một là
thiếu đường dây liên lạc, hai là vì kẻ thù xúi dục để chia rẽ chúng ta. Ngày
nay…chúng ta phải yêu thương nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau
để mưu cầu hạnh phúc chung của ta và con cháu của chúng ta. Sông có thể
cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết của chúng ta khơng bao giờ giảm
sút”[5, 127].
Hồ Chí Minh cũng cho rằng, điều kiện để đoàn kết là phải phân biệt rõ
bạn, thù. Người thường nhắc nhở chúng ta: Chủ nghĩa Mác- Lênin đã dạy
chúng ta rằng muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai
là thù, phải làm tăng thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Thực tiễn cách mạng đã cho ta
thấy Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết rất tốt vấn đề này. Do vậy trong mọi
cuộc đấu tranh ta đều tranh thủ được những đồng minh quân cần tranh thủ,
xác định đúng kẻ thù để đánh đổ chúng.

1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Hồ Chí Minh khơng chỉ nhấn mạnh vai trị to lớn của nhân dân mà cịn
coi đại đồn kết dân tộc là mục tiêu của cách mạng. Người cho rằng: “mục
đích của Đảng Lao Động Việt Nam có thể bao gồm trong tám chữ “đoàn kết
toàn dân, phụng sự tổ quốc” [20,183].
Người chỉ rõ: “Trước cách mạng và trong kháng chiến thì nhiệm vụ của
tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy cơng việc.
Một là đồn kết, Hai là làm cách mạng hay kháng chiến địi độc lập. Chỉ đơn
giản thế thơi. Bây giờ trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, mục đích của tun
huấn là “Một là đồn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh
thống nhất nước nhà” [22,130].
Người cũng khẳng định: Đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc.
Bởi vì, đại đồn kết chính là sự nghiệp của quần chúng, vì quần chúng.


12

1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết tồn dân
Ngun tắc tối cao xun suốt của Hồ Chí Minh là tin dân, dựa vào dân,
sống và đấu tranh vì dân. Hồ Chí Minh đã từng nói “trong bầu trời khơng có
gì q bằng nhân dân”. Tin vào dân, dựa vào dân trong chiến lược đại đoàn
kết của Hồ Chí Minh là sự kế thừa, vận dụng và nâng cao tư duy chính trị
truyền thống: “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền
cũng là dân”. Quan điểm này còn là sự quán triệt sâu sắc trong nhận thức, tình
cảm, hành động ngun lý mác xít “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết nghĩa là phải tập hợp mọi người dân vào
một khối trong cuộc đấu tranh chung. Nền tảng của khối đại đoàn kết là “phải
dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc

để đoàn kết các tầng lớp khác”. Đảng là bộ phận hữu cơ của khối đại đoàn kết
dân tộc và là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân.
Người cũng cho rằng, muốn thực hiện được đồn kết tồn dân thì phải kế thừa
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc…
Sở dĩ, Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm đồn kết rộng rãi như vậy chính là
vì niềm tin của Người vào mỗi người dân Việt Nam. Hồ Chí Minh tin rằng ai
cũng có ít nhiều lịng u nước tiềm ẩn bên trong. Và theo Hồ Chí Minh, đại
đồn kết khơng đơn thuần là vấn đề tình cảm “Người trong một nước phải
thương nhau cùng” mà tư tưởng đại đoàn kết của Người có lập trường giai
cấp rõ ràng, với nịng cốt là khối liên minh cơng – nơng – tri thức do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo.
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ
chức là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng,
để làm cách mạng, xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đồn
kết khơng chỉ dừng lại ở quan niệm tư tưởng mà phải biến thành sức mạnh vật
chất, lực lượng vật chất quy tụ trong mặt trận dân tộc thống nhất. Người vạch


13

rõ: Đảng ta có chính sách đồn kết dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy
được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta.
Để phát huy sức mạnh vơ địch của tồn dân thì phải làm cho họ giác ngộ
về mục tiêu chiến đấu cũng như tổ chức họ lại thành một khối vững chắc và
hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn, nếu khơng quần chúng nhân
dân có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là số đông, không có sức
mạnh.
Trước Hồ Chí Minh đã có nhiều người ra đi tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho nhân dân như Phan Bội Châu, Phan

Chu Trinh. Cả hai cụ đều có tấm lịng u nước, thương dân sâu sắc nhưng
đáng tiếc là họ đều mắc sai lầm trong đường lối và phương pháp xác định lực
lượng để tham gia. Hồ Chí Minh rất khâm phục các cụ Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của họ. Do vậy, Người
đã ra đi tìm đường cứu nước theo cách của riêng mình. Tự nguyện dấn thân
vào con đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm ra ngun nhân thất
bại của các phong trào dưới sự lãnh đạo của các bậc tiền bối. Các phong trào
lúc bấy giờ không đề cao vai trị của cơng – nơng, những lực lượng đông đảo
và quan trọng trong xã hội, là do hạn chế tầm nhìn, do khơng tính đến xu thế
thời đại, khơng có sự đồn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, xét trên khía cạnh nào đó là
đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động và sức
mạnh mà người tìm thấy đó là sức mạnh đại đồn kết, sức mạnh dân tộc kết
hợp với sức mạnh của thời đại. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí
Minh được hình thành trong q trình tìm đường cứu nước. Từ rất sớm, Hồ
Chí Minh đã trăn trở, suy nghĩ con đường, bước đi để giác ngộ quần chúng,
đặt cơ sở cho việc xây dựng và phát huy sức mạnh đồn kết dân tộc. Khi tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân
vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng giới, từng ngành


14

nghề, từng lứa tuổi, từng tơn giáo. Do đó, trong khi những người bạn cùng
hoạt động ở Châu Á và Châu Phi còn đang say sưa với những việc làm ở Hội
Liên Hiệp thuộc địa và báo Leparia thì Hồ Chí Minh đã chủ động tìm về nước
để xây dựng phong trào cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết trong nước.
Trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp năm 1923, Người viết rõ: “Đối
với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đoàn kết họ, thức tỉnh họ, đưa họ ra
đấu tranh giành tự do, độc lập” [17, 171]. Và tổ chức bao trùm nhất mà Hồ

Chí Minh quan tâm xây dựng để đồn kết quần chúng đó là mặt trận thống
nhất. Đây là nơi quy tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân
Việt Nam không chỉ ở trong nước mà cịn ở nước ngồi.
Hồ Chí Minh khẳng định: trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, mặt trận dân tộc thống nhất vẫn
là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng của mình, Người khơng ngừng đấu tranh, vun đắp
cho sự lớn mạnh, phát triển, tăng cường ảnh hưởng của mặt trận đối với cách
mạng Việt Nam.
Ở mỗi thời kỳ, Người đều chỉ đạo cụ thể việc xây dựng mặt trận với
cương lĩnh và tổ chức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kì, như
Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (1936); Mặt trận dân chủ Đông
Dương (1938); Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (1939); Mặt
trận Việt Minh (1941)… và hiện nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy có
nhiều tên gọi khác nhau như vậy, song về thực chất, các tổ chức đó chỉ là một.
Đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp các giai cấp, các tầng lớp, dân tộc,
tơn giáo, đảng phái… phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận có cương lĩnh phù
hợp với từng thời kì và được tổ chức theo nguyên tắc chặt chẽ. Được xây
dựng trên nền tảng liên minh cơng – nơng – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi


15

ích tối cao của dân tộc với lợi ích của nhân dân để làm cơ sở củng cố và
không ngừng mở rộng; chủ trương đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thực sự chân
thành và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Bên cạnh những điểm tương đồng giữa các thành viên khơng tránh khỏi
có những điểm khác nhau và cần phải bàn bạc đi đến nhất trí. Muốn giải

quyết vấn đề ấy, Người nhấn mạnh phương châm “Đoàn kết thực sự nghĩa là
mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đồn kết thực sự
nghĩa là vừa đồn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường nhân ái, vì nước, vì dân”
[20, 137]. Các tổ chức mặt trận thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản đều có chung một mục tiêu đó là đánh đuổi đế quốc, giành độc lập dân
tộc. Sự thay đổi tên gọi của các mặt trận một mặt phản ánh sự phát triển
nhanh chóng của phong trào cách mạng Việt Nam, mặt khác phản ánh những
hoạt động thiếu sót của những hình thức mặt trận trên nên phải có một mặt
trận thống nhất tồn dân tộc để tập hợp mọi thành phần dân tộc, mọi đảng
phái, huy động triệt để mọi lực lượng, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc. Sáng
kiến này đã dẫn đến việc thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (1941).
Như vậy, với sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc được quy tụ trong mặt
trận dân tộc thống nhất thì dân ta đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
1.2.5. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất,
lại vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
ngày càng vững chắc.
Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng: Chủ nghĩa Mác- Lênin là
cái “cẩm nang thần kỳ”, là “kim chỉ nam”, là cơ sở để vạch ra cơ sở để vạch
ra đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng ở nước ta nói riêng và ở các
dân tộc thuộc địa nói chung.


16

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bão táp đấu tranh cách
mạng. Đảng ra đời, từ đó lịch sử Việt Nam bước sang một trang mới. Hồ Chí
Minh đã nói: “Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như
khơng có đường ra. Từ ngày mới ra đời, Đảng ta liền dương cao ngọn cờ cách

mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên giải phóng dân tộc, xé tan
màn đêm, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường
thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong” [21, 3]. Đảng vừa là
Đảng của giai cấp công nhân vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả
dân tộc. Vì Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân và “lấy chủ nghĩa
Mác- Lênin làm nịng cốt” và vì Đảng ra đời trong lịng giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Đảng đại biểu cho trí
tuệ, danh dự, lương tâm của cả dân tộc và của cả thời đại. Đảng đã được nhân
dân ủng hộ và trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc. Theo Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết
toàn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng Cộng sản chính là
tuyên truyền, giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại,
là tìm chọn những hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp với lợi ích
thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động.
Và trong mọi thời kì, mọi giai đoạn thì đại đồn kết dân tộc đã trở thành vấn
đề máu thịt của Đảng. Đảng ta coi sự đoàn kết thống nhất là vinh dự của
Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là
điều kiện để đoàn kết toàn dân và đưa cách mạng đến thắng lợi. Trong Di
chúc, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: các cấp bộ Đảng, toàn thể đảng viên phải hết
sức quan tâm xây dựng sự thống nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi trong
mắt mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo
của mặt trận dân tộc thống nhất, là linh hồn của khối đại đồn kết tồn dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam khơng có lợi ích riêng mà gắn với lợi ích tồn xã


17

hội, toàn dân tộc. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng Cộng sản
chính là tuyên truyền, giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn

kết.
Đảng lãnh đạo mặt trận trước hết bằng việc xác định đường lối, chính
sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng.
Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương,
lấy chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện của
nhân dân, tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh. Muốn lãnh đạo mặt trận, Đảng
phải thực sự đồn kết. Sự đồn kết nhất trí của Đảng là cơ sở vững chắc để
xây dựng sự đoàn kết toàn dân.
1.2.6. Đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln có một
mong muốn, mong muốn tột bậc, “làm sao cho mọi người dân ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Cái mong muốn đó đã thơi thúc Người ra
đi tìm đường cứu nước. Người đã bôn ba khắp năm châu, bốn bể để tìm con
đường cứu nước, cứu dân, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Và từ khi tìm
ra con đường cứu nước, Hồ Chí Minh sớm xác định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam chỉ giành được
thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt
động của mình, Hồ Chí Minh khơng ngừng kêu gọi sự đồn kết giữa các dân
tộc bị áp bức, giữa nhân dân thuộc địa với thuộc địa với phong trào cơng nhân
thế giới.
Người tìm thấy con đường cứu nước và sức mạnh quốc tế để giải phóng
cho dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức. Và trong suốt cuộc đời hoạt động
của mình, Hồ Chí Minh đã khơng ngừng kêu gọi sự đồn kết giữa các dân tộc
bị áp bức, giữa nhân dân thuộc địa với phong trào cơng nhân thế giới. Qúa
trình tìm đường cứu nước đã giúp Người nhận thấy một điều: thế giới dù hết
sức đa dạng, nhân loại vô cùng đơng đảo, song suy cho cùng chỉ có hai loại


18


người là bóc lột và bị bóc lột. Những người bị bóc lột dù màu da khác nhau
nhưng đều có chung cảnh ngộ đói khổ, lầm than. Do đó, người đã tổ chức hội
liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng khổ” và tham gia Quốc tế
Cộng sản. Hồ Chí Minh đã tìm thấy nét chung của các dân tộc thuộc địa và
lên tiếng kêu gọi “chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ; sự bạo ngược
của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung là giải phóng
đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta”. “Trong cuộc đấu
tranh của chúng ta, chúng ta khơng đơn độc vì chúng ta có tất cả dân tộc của
chúng ta” [17, 191]. Chính chủ nghĩa Mác- Lênin đã giúp Người nhận thức về
đại đoàn kết quốc tế một cách tự nhiên. Người nhấn mạnh rằng, trong thời đại
cách mạng thế giới, muốn cứu nước giải phóng dân tộc khơng có con đường
nào khác là con đường cách mạng vô sản. Đối với Người khơng có sự đối lập
giữa dân tộc và quốc tế mà là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mục tiêu, nhiệm
vụ cách mạng thế giới với mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng dân tộc, gắn
cách mạng giải phóng dân tộc thành một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới. Cơng lao vĩ đại nhất của Hồ Chí Minh là đi tìm con đường cứu nước
và đã tìm thấy sức mạnh quốc tế để giải phóng cho dân tộc mình và giải
phóng các dân tộc bị áp bức. Trong những năm chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ rằng “trước hết phải có Đảng cách mệnh, trong thì vận
động và tổ chức quần chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và cộng
sản mọi nơi” [16, 267 – 268]. Từ đó về sau, tư tưởng trên của Người ngày
càng được phát triển đầy đủ hơn. Trên thực tế, Hồ Chí Minh ln chăm lo,
xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng giải
phóng dân tộc của giai cấp công nhân quốc tế, với cách mạng vô sản nước
Nga Xô Viết và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng như giải phóng dân tộc
vì hịa bình. Hồ Chí Minh cũng đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối đại đoàn
kết Việt – Miên - Lào, định hướng cho việc hình thành mối đồn kết quốc tế
của ba nước Đông Dương, xây dựng phong trào nhân dân thế giới đoàn kết



19

với nhân dân Việt Nam chống lại bọn thực dân xâm lược. Trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân, Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở và thúc đẩy việc hình
thành các tổ chức mặt trận: 1. Mặt trận đồn kết dân tộc; 2. Mặt trận đoàn kết
Việt – Miên – Lào; 3. Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam
chống đế quốc xâm lược, nhằm thúc đẩy cách mạng Việt Nam đi lên, đồng
thời cũng là sự thể hiện việc kết hợp hài hịa giữa đồn kết với quyền tự quyết
của mỗi dân tộc. Giữa các dân tộc bị áp bức, Người yêu cầu phải có tinh thần
đoàn kết, chiến đấu giữa các dân tộc bị áp bức, tinh thần bình đẳng và hợp tác
hữu nghị giữa các dân tộc “ở Người lòng yêu nước và tinh thần quốc tế dân
chủ kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế là tinh
thần hữu ái, bốn phương vô sản đều là anh em”.
Từ đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đại đoàn kết
quốc tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì đoàn kết quốc tế cũng là nhân tố quan
trọng giúp cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nói chung, trên cơ sở tiếp thu lý luận Mác- Lênin cũng như xuất phát từ
thực tiễn lịch sử nhân loại, đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam nói chung và vấn đề đại đồn kết nói riêng, là cơ sở việc
hoạch định đường lối phát triển đất nước và xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc trong thời kỳ đổi mới.
1.3. Cơ sở thực tiễn là truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam
Nước ta với điều kiện địa lý, tự nhiên đã sớm hình thành ý thức cộng
đồng, hợp tác để chống chọi với sự hoành hành của thiên tai, dịch họa. Và
lịch sử nước ta là sự nối tiếp hàng ngàn năm những cuộc đấu tranh khơng mệt
mỏi chống lại các thế lực hịng thơn tính nước ta. Đồn kết dân tộc đã được
hình thành và củng cố trong hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và



20

giữ nước của cả dân tộc, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm tâm hồn mỗi con người Việt Nam, tạo nên sức mạnh vô
địch của cả dân tộc để thắng mọi thiên tai, địch họa làm cho đất nước trường
tồn. Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống tạo thành
quan hệ ba tầng chặt chẽ là gia đình – làng xã – quốc gia và thành một sợi dây
liên kết các dân tộc, giai tầng trong xã hội. Truyền thống ấy đã thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm, tâm hồn con người Việt Nam.
Đối với người Việt Nam u nước thì đồn kết, nhân nghĩa đã trở thành
một tình cảm tự nhiên:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Thành triết lý nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Đã trở thành phép ứng xử và tư duy chính trị:
Nước mất nhà tan;
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh
Các giá trị nhân văn, tính cố kết cộng đồng trong truyền thống yêu nước
của dân tộc Việt Nam được ông cha ta coi như hành trang ban đầu của mình.
Cố kết thì sống, chia rẽ thì chết, truyền thống này được thể hiện rất đậm nét
trong kho tàng văn học dân gian và đặc biệt được cha ông ta quan tâm giáo
dục các thế hệ sau này. Truyền thống đó cũng được các anh hùng dân tộc như:
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết thành phép đánh
giặc giữ nước “Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “chở thuyền cũng
là dân, lật thuyền cũng là dân”.
Từ thuở các vua Hùng dựng nước đến nay, mỗi khi đất nước trải qua

những cơn kịch liệt lâm nguy cũng là lúc lòng yêu nước và tinh thần đại đoàn
kết dân tộc được thử thách và tỏa sáng. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc


21

bắt nguồn từ lòng yêu nước, tự cường, tự chủ đã tạo nên giá trị tinh thần tinh
túy mang đậm bản sắc Việt Nam, hình thành nên truyền thống cực kỳ q báu
của dân tộc. Hồn thủy sơng núi, khí phách cha ông đã thấm sâu vào đường
gân, sớ thịt và tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, bồi đắp và tạo sức mạnh
quật cường, ý chí sắt đá đạp bằng mọi gian khổ, khó khăn. Lịch sử mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước oai hùng đã khẳng định chân lý sáng ngời và sức
mạnh khơng gì sánh nổi của truyền thống đoàn kết dân tộc. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân ta có một lịng nồng nàn u nước, đó
là truyền thống q báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và cướp nước.
Phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã đánh thắng hai kẻ thù hùng mạnh, giành lại độc lập, tự do cho đất
nước. Truyền thống ấy được những anh hùng dân tộc đúc kết thành phép đánh
giặc giữ nước “Trên dưới đồng lịng cả nước chung sức”. Và truyền thống
đồn kết của dân tộc ta được nối tiếp trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc
của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân pháp và các thế
lực phong kiến tay sai vào thế kỷ XIX. Phát huy truyền thống dân tộc, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đánh thắng hai kẻ thù hùng mạnh là thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong 10 năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, do cơ sở vật
chất kỹ thuật ban đầu còn nhỏ bé, đất nước lại vừa trải qua chiến tranh, trong
khi đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây, cấm vận gây cho

cách mạng nước ta nhiều khó khăn. Bên cạnh đó do Đảng và Nhà nước ta đã
phạm phải những sai lầm như duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung
làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, Đảng
đề ra đường lối đổi mới trên một số lĩnh vực như: khốn sản phẩm đến nhóm


22

và người lao động trong nông nghiệp; bù giá vào lương ở Long An… Thực
hiện chủ trương đó, dồn dân đã đoàn kết xung quanh Đảng phấn đấu vượt
qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ mà làm nên những thắng lợi bước đầu.
Đây là cơ sở thực tiễn hết sức quan trong để Đảng đề ra đường lối đổi mới
tồn diện.
*
*

*

Trong q trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã vận dụng những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống đồn kết
của dân tộc vào thực tiễn để đề ra chủ trương đường lối. Đường lối đoàn kết
dân tộc của Đảng cũng được hình thành trên những ngun lý đó. Từ thực
tiễn đấu tranh giành chính quyền, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho đến sự
nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống đoàn kết
của dân tộc vào thực tiễn đất nước để đề ra đường lối. Đường lối đó đã giải
quyết được những vấn đề mà thực tiễn cách mạng đặt ra, nhờ đó đưa cách
mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đồn kết là một truyền thống vơ cùng quý báu, là tài sản vô giá của dân
tộc. Truyền thống ấy được hình thành qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ

nước của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế
thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc trong lịch sử dựng nước,
đồng thời vận dụng sáng tạo lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin coi “cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng” vào điều kiện cụ thể của nước ta, nâng truyền
thống dân tộc lên một tầm cao mới trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng.
Đây là cơ sở thực tiễn hết sức quan trọng cho việc đề ra đường lối xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới.


23

Chương 2:
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT TỒN DÂN TỘC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(1986- 2011)
2.1. Hồn cảnh thế giới và trong nước thời kì đổi mới
2.1.1. Hoàn cảnh thế giới
Vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
phát triển nhanh chóng, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất, tác đồng đến tồn cầu hóa. Các nước tư bản chủ nghĩa nhờ điều chỉnh
các chính sách kinh tế, xã hội, nhờ nhanh chóng ứng dụng những thành tựu
khoa học, kỹ thuật nên vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên những điều
chính này khơng khắc phục được những mâu thuẫn vốn có trong long xã hội
tư bản. Trong khi đó các nước xã hội chủ nghĩa do duy trì q lâu cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Để
khắc phục khủng hoảng về kinh tế, xã hội các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành
“cải tổ”, “cải cách”, “đổi mới”. Trong quá trình đổi mới do phạm phải những
sai làm mơ hình xã hội ở một số nước trên thế giới bị suoj đổ. Đến 1991, mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ cũng sụp đổ, chủ nghĩa xã hội từ một hệ
thống trên thế giới, bây giờ chỉ còn một số nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với

sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ, thế giới hình thành nên
quan hệ mới, thế giới đa cực, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau quyết liệt.
Chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc vẫn diễn ra một số nới trên thế giới,
nhưng xu thế chung vẫn là hịa bình, ổn định và phát triển.
Hiện nay, tình hình quốc tế và khu vực đang có những thời cơ, thuận lợi,
khó khăn và thách thức lớn đan xen lẫn nhau; trên thế giới, hồ bình, hợp tác
và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo; tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc
tế đang được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và
vốn ngày càng mở rộng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là


24

công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo
chiều sâu, tác động sâu rộng đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới,
mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân cơng lao động tồn
cầu. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp tác
khu vực ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ngồi những thuận lợi, tình hình thế giới và khu vực
đang chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường; các mâu thuẫn lớn của thời
đại vẫn rất gay gắt; q trình tồn cầu hố kinh tế tiềm ẩn nhiều yếu tố bất
bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước
đang phát triển.
Những xu thế đó đã, đang và sẽ cịn tác động mạnh đến việc hoạch định
chính sách của các nước và xu hướng phát triển của các mối quan hệ trên thế
giới.
2.1.2. Thời cơ và thách thức của nước ta trong thời kì đổi mới
Tuy Việt Nam đã có được những thuận lợi rất cơ bản là những thành tựu
to lớn và những bài học kinh nghiệm quan trọng sau hai mươi năm đổi mới,
nhưng cũng còn nhiều yếu kém, đặc biệt là nền kinh tế đang ở trình độ phát

triển thấp, quy mơ nhỏ, sức cạnh tranh yếu, còn tụt hậu khá xa so với nhiều
nước trong khu vực, chưa vượt ra khỏi nhóm các nước đang phát triển có thu
nhập thấp. Thực tế đó địi hỏi Việt Nam phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách
thức để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, tạo ra sự phát
triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn.
* Về thời cơ
Trước hết là có điều kiện chính trị an ninh bên ngoài và bên trong tương
đối ổn định để tập trung phát triển kinh tế. Trên thế giới, hịa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn. Trong thực tế cho thấy, khơng một nước nào có
thể phát triển được nếu trong hồn cảnh chiến tranh, có hịa bình mới có điều
kiện để phát triển đất nước. Phần lớn các nước trên thế giới đã giành ưu tiên


25

cho sự phát triển kinh tế, thơng qua đó mà phát triển tiềm lực của mình, tạo
điều kiện hịa bình trong nước và trên thế giới. Bên cạnh đó, xu thế hợp tác
song phương, hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế và lĩnh vực hợp tác ngày càng
đa dạng: hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác chinh phục vũ
trụ, hợp tác về chính trị. Chính sự hợp tác đa dạng này, đã tạo điều kiện cho
các quốc gia có điều kiện phát triển, giúp các quốc gia mở rộng giao lưu, học
hỏi, tiếp thu trình độ khoa học – kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của những
quốc gia tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Hơn nữa, cục diện thế giới đa cực giúp các bên kìm chế lẫn nhau, đảm
bảo ổn định tương đối. Hiện nay, không chỉ Mỹ, các nước Tây Âu mà nhờ có
cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, nhiều quốc gia đã vươn lên, phát triển
vượt bậc như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapo… tạo sự phát triển cân bằng
trên thế giới, phá vỡ trật tự thế giới cũ, tạo nên trật tự thế giới mới - thế giới
đa cực. Ngồi ra, tồn cầu hóa tạo ra sự đan xen lợi ích giữa các quốc gia, do
đó đã hạn chế chiến tranh.

Trong những năm tới của thế kỷ XXI trên thế giới xu thế hịa bình tạo
điều kiện cho hợp tác vẫn là một xu thế lớn. Việt Nam chúng ta khơng nằm
ngồi xu thế đó. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi khi đất nước đang bước
vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Còn trong nước: Từ sau khi nước nhà được độc lập, nước ta duy trì được
nền độc lập tự chủ. Bên cạnh đó nước ta cũng chủ trương mở rộng quan hệ
đối ngoại, khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi các nước xã hội chủ nghĩa, các
nước trong khu vực, mà Việt Nam còn mở rộng thiết lập quan hệ với nhiều
nước trên thế giới. Thực hiện quan hệ đối ngoại hịa bình, hợp tác cùng phát
triển trên cơ sở tơn trọng lẫn nhau. Cùng với xu thế tồn cầu hóa của thế giới
đã tạo mơi trường, cơ hội thuận lợi để Việt Nam phát triển, tránh bị tụt hậu so
với các nước.


×