Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Những điểm tương đồng và khác biệt của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm 1929 – 1933 với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 68 trang )

2

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SỬ
----------

NGUYỄN THỊ NGA

Những điểm tương đồng và khác biệt của
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong
những năm 1929 – 1933 với cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 2
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 0
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................. 1
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................. 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................................. 2
3.2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 2
3.3. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................... 2
4. Nguồn tư liệu ................................................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên c ứu ................................................................................................ 2
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................................ 3
7. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................................... 3


NỘI DUNG .......................................................................................................................... 4
Chương 1: Khái quát chung về khủng hoảng và khủng hoảng kinh tế thế giới........... 4
1.1. Quan niệm về khủng hoảng và khủng hoảng kinh tế .............................................. 4
1.1.1. Khái niệm về khủng hoảng và khủng hoảng kinh tế ........................................... 4
1.1.2. Khủng hoảng kinh tế dưới góc nhìn của giới nghiên cứu.................................... 4
1.1.2.1. Quan niệm về khủng hoảng trong hệ thống lý luận Mácxít ............................. 4
1.1.2.2. Quan niệm về khủng hoảng kinh tế của các học giả phương Tây ................... 2
1.2. Hình thức biểu hiện và đặc trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới................ 4
1.2.1. Dấu hiệu và biểu hiện chủ yếu khủng hoảng kinh tế thế giới ............................. 4
1.2.2. Một số đặc trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới ................................ 4
1.3. Một số loại hình khủng hoảng kinh tế thế giới phổ biến…………………………….4
1.3.1. Khủng hoảng sản xuất thừa……………………………………………………………..4
1.3.2. Khủng hoảng chu kỳ……………………………………………………………………..5
1.3.3. Khủng hoảng cơ cấu……………………………………………………………………..6
1.3.4. Khủng hoảng tiền tệ - tín dụng………………………………………………………...7
1.3.5. Khủng hoảng tài chính…………………………………………………………………..8


4

1.3.6. Tổng khủng hoảng………………………………………………………………………..8
1.4. Một số cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tiêu biểu từ thế kỉ XX đến nay .......... 9
1.4.1. Đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 ..................................................... 9
1.4.2. Khủng hoảng nợ khu vực Mỹ LaTinh .................................................................. 11
1.4.3. Khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á (1997 – 1998)..................................... 13
1.4.4. Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 .............................................................. 16
Chương 2: Những điểm giống và khác nhau giữa cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1929 – 1933 với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay ............................. 21
2.1. Những điểm giống nhau………………………………………………………………….21
2.1.1. Nguyên nhân khủng hoảng .................................................................................... 21

2.1.2. Tính chất cuộc khủng hoảng ................................................................................. 22
2.1.3. Cả hai cuộc khủng hoảng đều bắt đầu từ Mỹ……………………......................24
2.1.4. Các lĩnh vực ảnh hưởng ......................................................................................... 25
2.1.4.1. Kinh tế ................................................................................................................... 25
2.1.4.2. Chính trị - xã hội .................................................................................................. 28
2.1.5. Tác động của cuộc khủng hoảng ........................................................................... 30
2.1.6. Các giải pháp thoát khỏi cuộc khủng hoảng ........................................................ 32
2.2. Những điểm khác nhau .............................................................................................. 34
2.2.1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng ........................................................................... 34
2.2.2. Hậu quả của cuộc khủng hoảng ............................................................................ 37
2.2.3. Biện pháp thoát khỏi cuộc khủng hoảng .............................................................. 39
2.3. Bài học kinh nghiệm .................................................................................................. 43
2.3.1. Khủng hoảng kinh tế đối với thế giới ................................................................... 44
2.3.1. Khủng hoảng kinh tế thế giới đối với Việt Nam ................................................. 46
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 51


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khủng hoảng kinh tế là vấn đề không mới trong lịch sử phát triển kinh tế của
nhân loại và là quy luật có tính chu kỳ, song mỗi lần khủng hoảng kinh tế, thì
nguyên nhân và giải pháp khắc phục lại trở thành chủ đề gây tranh luận, tốn nhiều
giấy mực, công sức và thời gian các nhà nghiên cứu.
Kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ suy thoái, đặc biệt là đối với nền kinh
tế Mỹ. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua được coi là cuộc khủng hoảng
trầm trọng nhất kể từ cuộc đại khủng hoảng 1929- 1933. Mặc dù tác động của nó
đối với các quốc gia khác nhau nhưng khơng quốc gia nào thốt khỏi khủng hoảng
và nó có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng kéo dài đối với toàn
thế giới. Bong bóng bất động sản Mỹ đã vỡ, và hệ quả là cuộc khủng hoảng tín

dụng dẫn tới sự suy thối kinh tế. Đã có nhiều kế hoạch giải cứu cũng như biện
pháp hỗ trợ được đưa ra, nhưng nó vẫn chưa đủ sức để ngăn cản bước tiến của cuộc
suy thối này. Thực tế cho thấy xu hướng tồn cầu hóa là động lực tăng trưởng của
nhiều nước đang phát triển thì đây cũng chính là kênh truyền dẫn khiến cho cuộc
khủng hoảng này lan sang các nước đang phát triển. Nhìn lại lịch sử, nền kinh tế
của chúng ta cũng từng trải qua nhiều cuộc suy thoái và khủng hoảng kinh tế trầm
trọng. Vậy chúng ta có thể học hỏi và nhìn nhận được những gì từ các cuộc khủng
hoảng này để giải cứu nền kinh tế thế giới hiện nay?
Là nước đang phát triển, kinh tế Việt Nam đang hội nhập kinh tế thế giới,
chúng ta không thể khơng tính đến những tác động của cuộc khủng hoảng tồn cầu
đối với việt Nam, khơng thể khơng nghĩ tới một số vấn đề nảy sinh ta. Những tác
động của cuộc khủng hoảng hinh tế hiện nay đối với nước ta đang đặt ra rất nhiều
vấn đề cần phải giải quyết trong q trình thực thi các chính sách kinh tế vĩ mơ của
Chính phủ, như vấn đề chống suy giảm kinh tế, phát triển sản xuất, lạm phát, việc
làm…
Nhằm góp phần hiểu rõ và sâu sắc hơn về các cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới đặc biệt là hai cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 và cuộc khủng hoảng từ năm
2008 đến nay (2008 – 2011), những điểm giống và khác nhau giữa các cuộc khủng
hoảng, để có được cái nhìn vừa cụ thể, vừa tổng qt, từ đó đưa ra được các kinh


1

nghiệm trong thực tiễn ứng phó với khủng hoảng kinh tế hiện nay và trong cả tương
lai về sau. Vì những lý do trên nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Những điểm
tương đồng và khác biệt của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm
1929 – 1933 với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay” làm khóa luận
tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới là một sự kiện mang tính thời sự. Do đó

cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu mang tính hệ thống và tổng thể
về cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên trong khuôn khổ các bài nghiên cứu theo từng
vấn đề, từng khía cạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã được công bố trên
một số tác phẩm như:
- Khủng hoảng kinh tế thế giới những vấn đề lý luận và kinh nghiệm,
PGS.TS Phạm Quốc Trung, TS. Phạm Thị Túy (2011), Nxb Chính trị quốc gia.
Cuốn sách đã cung cấp những quan điểm lý luận về khủng hoảng kinh tế, phân tích
và nhận định cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay trên cả góc độ lý luận và thực tế,
giúp chúng ta có cái nhìn sáng rõ hơn về khủng hoảng kinh tế thế giới.
Bên cạnh đó cịn có các bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành như:
Võ Đại Lược với bài “Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay và những tác động”, tạp
chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 10, năm 2008; Nguyễn Huy
Hoàng với “Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và tác động của nó tới các nền kinh tế
Đơng Nam Á”, Tạp chí

Nghiên cứu Đơng Nam Á, số 7, (2009); 25. Bài viết

“Khủng hoảng tài chính – tín dụng ở Mỹ và một số vấn đề với Việt Nam”, của hai
nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tuấn, Vũ Đăng Linh in trên Tạp chí Châu Mỹ ngày
nay, số 2 năm 2009…
Vì là một sự kiện đã, đang và có khả năng diễn ra trong tương lai do đó cách
đánh giá và nhìn nhận vấn đề chưa có sự thống nhất. Đây chính là điều kiện thuận
lợi và cũng hết sức khó khăn cho tác giả khi làm đề tài này. Xuất phát từ thực tế đã
trình bày, tơi cũng cố gắng trình bày có hệ thống khi so sánh hai cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 1929 - 1933 với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay,
tác động của nó đối với sự phát triển của thế giới trong tương lai, cũng như các giải
pháp, bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng.


2


3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- So sánh hai cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 với cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này tơi mong muốn góp phần làm rõ nét hơn về cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các quốc gia nói
riêng và thế giới nói chung. Kết quả đề tài này tơi mong muốn nó sẽ trở thành tài
liệu tham khảo có ích đối với những người yêu thích lịch sử, quan tâm đến các vấn
đề sự phát triển kinh tế trên thế giới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Khủng hoảng kinh tế thế giới là một vấn đề lớn, để nghiên cứu vấn đề này
cần phải có cái nhìn tổng thể, bao qt tất cả các sự kiện đã và đang diễn ra trên thế
giới từ năm 1929 đến nay (2011). Do đây là vấn đề mang tính quốc tế và diễn ra
trong các thời điểm khác nhau, xuất phát từ khả năng còn nhiều hạn chế, cùng với
nguồn tư liệu ít, thời gian nghiên cứu hạn hẹp nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu vấn
đề so sánh hai cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 với cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 2008 đến nay.
4. Nguồn tư liệu
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu tơi sử dụng nguồn tư liệu thành văn
như sách, báo, tạp chí, các website có nội dung liên quan đến hai cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 1929 - 1933 và 2008 đến nay. Các tài liệu này được cung cấp tại
Thư viện Tổng hợp Đà Nẵng, Thư viện Tổng hợp Huế, Thư viện Trường đại học sư
phạm Đà Nẵng, Thư viện Trường đại học sư phạm Huế, Thư viện Trường đại học
Khoa học Huế và các nhà sách trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các tài liệu thành văn đã được thu thập từ nhiều thể loại khác
nhau, sau khi tiến hành chọn lọc phân loại và sử lý tư liệu, sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp như: Phương pháp luận sử học, phương pháp lịch sử, phương pháp

logic, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê phân loại, phương pháp lựa


3

chọn, phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu. Từ đó, rút ra những luận điểm
chính xác, những kết luận khách quan và khoa học.
6. Đóng góp của đề tài
Nhằm góp phần hiểu rõ và sâu sắc hơn về các cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới đặc biệt là hai cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 và cuộc khủng hoảng từ năm
2008 đến nay (2008 – 2011), những điểm giống và khác nhau giữa các cuộc khủng
hoảng, để có được cái nhìn vừa cụ thể, vừa tổng quát, từ đó đưa ra được các kinh
nghiệm trong thực tiễn ứng phó với khủng hoảng kinh tế hiện nay và trong cả tương
lai về sau.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế góp phần nâng cao vốn
kiến thức lịch sử nhất là lịch sử thế giới hiện đại, phục vụ cho việc học tập lịch sử
và cho công tác dạy học lịch sử.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì phần nội dung đề tài gồm có hai chương:
Chương 1: Khái quát chung về khủng hoảng và khủng hoảng kinh tế thế
giới
Chương 2: Những điểm giống và khác nhau giữa cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 1929 – 1933 với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến
nay


4

NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát chung về khủng hoảng và khủng hoảng kinh tế thế giới

1.1. Quan niệm về khủng hoảng và khủng hoảng kinh tế
1.1.1. Khái niệm về khủng hoảng và khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng theo Bách khoa tồn thư là một thời điểm quan trọng trong tiến
trình phát triển, là điểm nút bộc lộ những mâu thuẫn hoặc mất cân bằng của một hệ
thống nhất định do sự tác động của các yếu tố nội tại cũng như bên ngoài quy định
sự phát triển của hệ thống đó.
Bên cạnh đó cịn có một số khái niệm về khủng hoảng như:
Trong tiếng Anh Oxford rút gọn, khủng hoảng được định nghĩa là: “điểm
ngoặt đặc biệt của bệnh tật, thời điểm nguy hiểm hoặc mong ngóng về chính trị, nội
các, tài chính”…
Trong tiếng Hy Lạp từ Crisis (khủng hoảng), được xác định là giai đoạn mà
trong đó một định chế xã hội, kinh tế và tài chính khơng thể tiếp tục vận động như
trước được nữa và do vậy phải chịu đau đớn và phải trải qua các biến chuyển nhờ
đó mà tình hình được cải thiện.
Khủng hoảng kinh tế là tình hình rối loạn và suy sụp rất nghiêm trọng về
kinh tế, biểu hiện rõ ràng nhất là sản suất đình trệ, cơng nhân thất nghiệp, đời sống
người lao động thấp kém.
1.1.2. Một số quan niệm về khủng hoảng kinh tế
1.1.2.1. Quan niệm về khủng hoảng trong hệ thống lý luận Mácxít
Mặc dù khủng hoảng kinh tế nói chung đã có lịch sử gần 400 năm, song cho
đến nay, qua các kết quả đã nghiên cứu về khủng hoảng đã cơng bố cho thấy vẫn
chưa có sự thống nhất trong nhận thức về khủng hoảng kinh tế. Hoặc xem xét
khủng hoảng kinh tế theo một quan điểm cứng nhắc, đồng nhất khủng hoảng kinh tế
với tất yếu kinh tế của chủ nghĩa tư bản, với sự diệt vong hoặc đi liền với cơ hội
phát triển mới. Hoặc chỉ nhìn nhận với các khía cạnh riêng biệt của từng cuộc
khủng hoảng cụ thể, hoặc chỉ thấy khủng hoảng khi đã có những dấu hiệu rõ ràng
thể hiện qua những biến động của các chỉ số kinh tế có thể đo lường được. Hệ thống
lý luận mácxít cũng có đề cập về khủng hoảng kinh tế tuy chưa có một chuyên khảo



5

hay một chương riêng bàn về khủng hoảng kinh tế. Nhưng rải rác trong các tác
phẩm viết về tư bản có thể tìm thấy nhiều điểm đề cập đến khủng hoảng. V.I. Lênin
cũng bàn về khủng hoảng kinh tế trong nhiều tác phẩm như “ Bàn về đặc điểm của
chủ nghĩa lãng mạng kinh tế”...[28;14]
Có thể tóm lược quan điểm của C. Mác và Lênin về khủng hoảng kinh tế như
sau:
Khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra ở một hay tồn bộ các khâu của q trình
tái sản xuất. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thơng hay phân phối. Có những
cuộc khủng hoảng bộ phận xảy ra do mất cân đối trong sản xuất của một ngành nào
đó, mà một trong những hình thức là sản xuất thừa tư bản cố định hay sản xuất thừa
tư bản lưu động. Do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ nhằm mục đích chiếm đoạt
thật nhiều lao động thặng dư bằng cách sản xuất với quy mô lớn mà khơng tính đến
giới hạn của thị trường.
Khi khủng hoảng bao trùm các vật phẩm bn bán chủ yếu thì sẽ trở một
cuộc tổng khủng hoảng, nghĩa là sản xuất thừa ít nhiều có tính phổ biến trên tồn bộ
thị trường. Một bên hàng hóa khơng bán được, bên kia là những nhà tư bản phá sản
và công nhân thất nghiệp chịu cảnh thiếu thốn.
Khủng hoảng kinh tế trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh dưới chủ
nghĩa tư bản mang tính chu kỳ. Mỗi chu kỳ trải qua một thời kỳ đình đốn (hay tiêu
điều), hoạt động trung bình (hay phục hồi), phồn vinh (hay hưng thịnh) rồi khủng
hoảng. Từ cuộc khủng hoảng năm 1825, sau khi nền đại cơng nghiệp vừa mới thốt
khỏi thời kỳ ấu trĩ thì sự tuần hồn có tính chu kỳ mới bắt đầu. Tính trung bình chu
kỳ lập lại ban đầu là mười năm, vì lúc đầu thời gian khấu hao tư bản cố định cũng
vào khoảng mười năm. Tư bản cố định là cơ sở vật chất cho những cuộc khủng
hoảng chu kỳ, vì khủng hoảng bao giờ cũng cấu thành khối điểm cho những khoản
đầu tư mới và lớn của tư bản. Do đó, đứng trên tổng thể tồn xã hội xem xét thì
khủng hoảng ít nhiều đều tạo ra cơ sở vật chất mới cho chu kỳ chu chuyển sau đó.
Các tiến bộ khoa học, cơng nghệ làm cho vòng đời của tư bản cố định bị rút ngắn

do những biến thiên không ngừng trong các tư liệu sản xuất. Phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì những biến thiên này càng xảy ra thường xuyên
hơn. Gắn với tình hình này là sự thay thế tư bản cố định một cách nhanh chóng do


6

hao mịn vơ hình, trước khi những tư liệu sản xuất ấy bị hao mịn hết. Do đó chu kỳ
khủng hoảng được rút ngắn lại.
Biểu hiện cụ thể của khủng hoảng cũng rất đa dạng, như:
Một là, khó khăn trong việc mua và bán hàng hóa. Doanh nghiệp khơng bán
được hàng hóa hoặc phải bán rẻ, khơng đủ tiền thanh toán nợ hết hạn. “Giá nguyên
liệu tăng lên khiến cho doanh nghiệp không đủ tiền mua, nếu doanh nghiệp không
mượn được vốn thì phải giảm quy mơ sản xuất, sa thải công nhân, không tận dụng
được hết công suất của máy móc, thiết bị”[28;16]. Việc mua và bán tách rời nhau
về khơng gian và thời gian, nhưng lại địi hỏi phải ăn khớp với nhau.
Hai là, mất cân đối trong sản xuất. C. Mác đã phát hiện quan hệ tỉ lệ cân đối
giữa các bộ phận trong tổng sản phẩm hàng năm giành cho tái sản xuất ra tư bản và
cho tiêu dùng cá nhân. “Nếu một nước không tự đảm bảo được những tỷ lệ cân đối
đó thì sẽ lâm vào khủng hoảng. Ngoại thương có thể tạm thời góp phần giải quyết
những mất cân đối đó, nhưng ngoại thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra không gian rộng
lớn hơn, chứ không giải quyết được mâu thuẫn, khiến cho khủng hoảng mang tính
chất tồn thế giới”[28;17].
Ba là, rối loạn hệ thống tín dụng. “Trong một chế độ sản xuất mà tất cả các
mối liên hệ của quá trình tái sản xuất đều dựa trên tín dụng, nếu đột nhiên tín d ụng
bị ngưng trệ, khi đó chắc chắn sẽ xảy ra khủng hoảng”[28;17].
Bốn là, vi phạm quy luật về lưu thông tiền tệ. “Phát hành giấy bạc vượt quá
số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông sẽ gây lạm phát”[28;18]. Nhưng phát
hành không đủ cũng gây ra khủng hoảng.
Năm là, mất cân đối giữa sản xuất và nhu cầu có khả năng thanh tốn. “Do

hệ thống tín dụng và ngoại thương mở rộng, do đầu cơ…đã tạo ra những nhu cầu
giả tạo vượt quá nhu cầu có khả năng thanh tốn, khiến cho quy mơ sản xuất mở
rộng q mức, dẫn tới sản xuất thừa thêm trầm trọng.”[28;18]
Sáu là, xây dựng nhà ở không theo đơn đặt hàng mà chạy theo thị trường và
mang tính chất đầu cơ. “Nhà thầu khoán vay vốn ngân hàng bằng cách cầm cố bất
động sản. Ngân hàng chỉ rải ngân dần dần theo tiến độ xây dựng. Nếu có trục trặc
từ phía nhà thầu khốn vì khơng trả được nợ đúng kỳ hạn thì họ sẽ bị đình chỉ cho


2

vay”[28;19]. Để trả nợ, họ phải bán nhà theo giá rẻ khi đó sẽ dẫn tới thua lỗ thậm
chí phá sản.
Bảy là, những chứng khốn khơng đại biểu cho tư bản thực tế, khơng có bảo
đảm ngày càng được phát hành nhiều hơn. “Nếu đột nhiên hệ thống tín dụng bị trục
trặc thì những chứng từ ảo ấy sẽ bộc lộ bộ mặt thật và vỡ như bong bóng và tất yếu
sẽ xảy ra khủng hoảng.”[28;19]
Những biểu hiện trên mặc dù mới chỉ nêu một cách rất sơ lược, nhưng nếu
đem so sánh với các cuộc khủng hoảng đã xảy ra sẽ thấy tuy có những chi tiết cụ
thể khác nhau nhưng đúng về nguyên lý. Cái gọi là khủng hoảng kinh tế toàn cầu
hiện nay nổ ra đầu tiên tại Mỹ, bởi bong bóng nhà ở, do tín dụng dưới chuẩn được
cấp quá dễ dãi và nghiệp vụ “chứng khốn hóa” có thể tương ứng với điểm ba, sáu
và bảy nêu trên. Như vậy rõ ràng là có nhiều mối liên hệ giữa cuộc khủng hoảng
kinh tế hiện nay với lý thuyết kinh tế của các nhà kinh điển mácxít.
Từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nhìn lại, mặc dù các nhà kinh điển
Mác – Lênin không nghiên cứu khủng hoảng kinh tế một cách trực tiếp nhưng
những lý luận của các nhà kinh điển đã đưa ra nhiều luận điểm khoa học và hiện
nay vẫn còn nguyên giá trị phục vụ cho nghiên cứu và là cơ sở cho các hoạt động
thực tiễn.
1.1.2.2. Quan niệm về khủng hoảng kinh tế của các học giả phương Tây

Khủng hoảng kinh tế nhận được sự quan tâm sâu sắc của các nhà kinh tế học
trên thế giới. Có thể thấy rằng, khủng hoảng kinh tế dưới góc nhìn của các học giả
phương tây chính là thời kỳ tới giới hạn, là một thời điểm lịch sử nguy hiểm trong
đó người ta sẽ tránh được sự kết thúc thông qua các điều chỉnh mới, người ta đưa ra
quyết định và thực hiện các chuyển đổi, xác định sự phát triển tương lai của hệ
thống cả về kinh tế, chính trị và xã hội.
Từ cách nhìn nhận như trên, nên hầu hết nghiên cứu của học giả phương Tây
về khủng hoảng kinh tế đều hướng tới việc tìm ra cách thức, giải pháp nhằm giúp
các nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, hướng đến thiết lập mô thức mới đảm bảo
cho sự vận hành hiệu quả hơn của hệ thống trong thời kỳ hậu khủng hoảng và trong
tương lai. Tuy nhiên, để có thể đưa ra các giải pháp thốt khỏi khủng hoảng, các
nhà học giả phương Tây cũng có những khái quát ở mức độ nhất định diễn biến của


3

khủng hoảng kinh tế, cũng đi vào luận giải căn nguyên của khủng hoảng ở những
mức độ khác nhau.
Về căn nguyên và hình thái biểu hiện của khủng hoảng, các học giả này tiếp
cận dưới dạng khái quát thành những lý thuyết hay những đúc rút mang tính tổng
quát. Nổi bật là lý thuyết “sóng dài” của Konđrachev và những biến thái của nó.
“Theo lý thuyết này thì cùng với các chu kỳ kinh tế bình thường cịn có các chu kỳ
lớn với thời gian từ 48 – 55 năm (các chu kỳ này gọi là sóng dài)”[28;23]. Tất cả
những biến đổi trong các q trình tạo nên sóng dài đều có những ảnh hưởng tương
tác hình thành nên những chuyển biến kinh tế, chính trị, xã hội.
Song hành với các quan điểm theo thuyết sóng dài, khủng hoảng kinh tế còn
được các học giả phương Tây cắt nghĩa theo thuyết chu kỳ kinh doanh. “Nhìn
chung các lý thuyết về chu kỳ kinh doanh tiết cận, lý giải sự thăng trầm kinh tế qua
hai phương diện: Thứ nhất, do các yếu tố bên ngoài hệ thống kinh tế gây ra như
chiến tranh, cách mạng, bầu cử, việc phát hiện ra các mỏ dầu, mỏ vàng…Thứ hai,

do những vấn đề nội tại của bản thân hệ thống kinh tế gây ra”[28;24]. Theo cách
tiếp cận này thì mọi sự mở rộng của sản xuất, kinh doanh tự bản thân nó đã ni
dưỡng sự suy thoái, thu hẹp sản xuất hay kinh doanh thì lại ni dưỡng sự phục hồi
và mở rộng sản xuất kinh doanh, theo một chu kỳ lặp đi lặp lại như một quy luật.
Về khắc phục và ngăn ngừa khủng hoảng, nghiên cứu của các nhà học giả
phương Tây tập trung vào việc tìm kiếm cơ sở cho việc điều tiết kinh tế vĩ mô cũng
như việc vận hành các chính sách khác của nhà nước. “Trong lựa chọn điều tiết
kinh tế vĩ mơ, việc cân nhắc vai trị của nhà nước và vai trị của thị trường ln là
trọng tâm nghiên cứu”[28;25].
Như vậy, khủng hoảng kinh tế là một chủ đề chiếm vị trí quan trọng trong
các nghiên cứu của học giả phương Tây. Ta có thể thấy về cơ bản những nghiên cứu
này có tính thực tiễn khá cao phục vụ trực tiếp cho việc tìm ra giải pháp khắc phục
khủng hoảng. Các giải pháp được đưa ra trong các nghiên cứu này thường có tính
khả thi cao do dựa trên các nghiên cứu cơ bản, thực chứng, đồng thời nó cũng là kết
quả của việc sử dụng các phương pháp phân tích hiện đại. Bên cạnh đó cịn có giá
trị khoa học rất cao, cung cấp cho nhân loại một nhận thức tương đối toàn diện về
khủng hoảng kinh tế với cách tiếp cận và giải quyết một cách thực tế, khoa học.


4

1.2. Hình thức biểu hiện và đặc trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới
1.2.1. Dấu hiệu và biểu hiện chủ yếu khủng hoảng kinh tế thế giới
Nhìn lại lịch sử gần 400 năm các cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế
giới cho thấy, sự xuất hiện các “bong bóng” kinh tế với nhiều dạng thức khác nhau
là những dấu hiệu cơ bản nhất báo hiệu nguy cơ khủng hoảng kinh tế.
Biểu hiện dễ nhận thấy của những “bong bóng” kinh tế này chính là sự gia
tăng giá một cách bất thường của một số loại hàng hóa, nhất là những hàng hóa đặc
biệt như tiền tệ, bất động sản và chứng khoán. Từ sự gia tăng đột biến kéo theo
những thay đổi trong các hành vi kinh tế, trong đó “đầu cơ” trở thành hành vi “thời

thượng” đem lại sự giàu có một cách nhanh chóng, đồng thời nó cũng là nhân tố
làm lũng đoạn sự vận hành của nền kinh tế và bất ổn kinh tế trở nên ngày càng rõ
rệt hơn và đến một thời điểm nào đó “bong bóng” sẽ vỡ. Khi đó sẽ xảy ra hàng loạt
sự sụp đổ có tính chất dây chuyền và kinh tế bước vào quá trình thăng trầm khó dự
báo trước. Trước hết đó là sự giảm sút nghiêm trọng trên các thị trường chứng
khoán, giá các cổ phiếu sẽ “tụt dốc” không phanh, tiếp đến là việc mất giá trầm
trọng của các đồng tiền trên thị trường ngoại hối. Trong giai đoạn này, giá cả của
một số loại hàng hóa như vàng, dầu mỏ sẽ thay đổi một cách đáng kinh ngạc.
Hầu hết các ngân hàng sẽ bị thua lỗ, điều này làm ảnh hưởng tới toàn bộ
hoặc phần lớn tới các ngân hàng và tổ chức tài chính trong từng quốc gia, khu vực
và thế giới. Thiệt hại do tác động của khủng hoảng kinh tế trong khối ngân hàng rất
nặng nề - khoản thua lỗ của các ngân hàng thuộc mỗi nước ảnh hưởng tới GDP,
đồng thời những khoản thua lỗ này cũng tác động tới các hoạt động sản xuất, kinh
doanh dẫn đến kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, làm phá sản hàng loạt các cơng
ty, xí nghiệp, giảm số lượng việc làm, thất nghiệp gia tăng và đời sống người dân
trở nên khó khăn hơn trong khủng hoảng, tâm lý lo lắng hoảng loạn ẩn hiện trong
đời sống xã hội.
1.2.2. Một số đặc trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới
Khủng hoảng kinh tế vốn là một hiện tượng kinh tế phức tạp với nhiều biến
thái khác nhau và với mỗi một cuộc khủng hoảng kinh tế cụ thể, tính chất, phạm vi
ảnh hưởng và cả những biến thái cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, với quan điểm tiếp


5

cận hệ thống và tổng quát, có thể nhận thấy đặc trưng cơ bản của khủng hoảng kinh
tế thế giới ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế thế giới với nhiều biến thái khác nhau,
thường gắn với những biến thái sâu sắc trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, các cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới mang tính quốc tế cả về nguyên nhân, các tác động lẫn

những nỗ lực nhằm vượt qua khủng hoảng.
Thứ hai, khủng hoảng kinh tế thế giới thường khởi phát bởi các “bong bóng”
kinh tế, trong đó “bong bóng” bất động sản, chứng khoán là những điểm khởi phát
chủ yếu. Do đó, khủng hoảng kinh tế thế giới cũng sẽ được khác phục chủ yếu nhờ
những giải pháp nhằm lành mạnh hóa và hồn thiện hệ thống tài chính – tiền tệ của
mỗi khu vực, trong tổng thể nền kinh tế trong ngắn hạn và cấu trúc lại thể chế kinh
tế - tài chính một cách tổng thể trong dài hạn.
Thứ ba, khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra theo tính chất làn sóng, lan tỏa
từng đợt đuổi bắt nhau, sau đó ảnh hưởng chế định lẫn nhau như “hiệu ứng đôminô”
và bắt đầu từ những chấn động tại các nước, khu vực kinh tế - được coi là “trung
tâm nhạy cảm” nhưng không cố định. Xu hướng khủng hoảng sẽ dịch chuyển nhanh
chóng từ trung tâm kinh tế này sang trung tâm kinh tế khác và càng về sau càng
phát tán những mầm mống lây nhiễm rộng và sâu hơn, đe dọa kéo theo những tổn
thất và đòi hỏi những phối hợp quốc tế rộng lớn và mạnh mẽ hơn, tốn kém hơn với
thời gian khắc phục nhiều hơn. Điều này cho thấy rõ ràng hơn sự gia tăng ngày
càng cao về mức độ tương tác lẫn nhau và ý nghĩa của các sự kiện, các vấn đề kinh
tế của mỗi nước tùy thuộc vào vị thế của chúng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới
vận hành theo hướng tự do hóa và tồn cầu hóa.
1.3. Một số loại hình khủng hoảng kinh tế thế giới phổ biến
Khủng hoảng kinh tế là một vấn đề phức tạp cả về lý luận lẫn thực tiễn. Tính
chất phức tạp của khủng hoảng còn thể hiện cả ở việc phân loại chúng, bởi sự đan
xen và hình thái biểu hiện vơ cùng phong phú, đa dạng. Ta có thể chia 6 loại hình
khủng hoảng kinh tế sau: khủng hoảng sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ, khủng
hoảng cơ cấu, khủng hoảng tài chính, khủng hoảng tiền tệ - tín dụng và tổng khủng
hoảng.
1.3.1. Khủng hoảng sản xuất thừa


6


Đây là loại hình khủng hoảng kinh tế đầu tiên trong sự phát triển kinh tế của
nhân loại. Cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên diễn ra tại Anh vào năm 1825.
Cuộc khủng hoảng tiếp theo vào năm 1836, cũng bắt đầu từ Anh rồi lan sang Mỹ
vào năm 1837. Song cả hai cuộc khủng hoảng này đều chưa mang tính thế giới.
Về cơ bản khủng hoảng sản xuất thừa thường được gắn với giai đoạn của chu
kỳ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện bằng hàng hóa sản xuất
thừa so với nhu cầu có khả năng thanh tốn, sản xuất giảm sút, vốn đầu tư cơ bản bị
rút bớt, thất nghiệp và lạm phát tăng lên, những tỷ lệ chủ yếu của tái sản xuất bị rối
loạn. Nguyên nhân chủ yếu là do những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, từ
đó nảy sinh một loạt những mâu thuẫn phát sinh: mâu thuẫn giữa tư bản và lao
động, giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tính có tổ chức trong các xí nghiệp riêng biệt
và tình trạng sản xuất vơ chính phủ trong toàn xã hội. Những mâu thuẫn này đưa
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đến khủng hoảng kinh tế.
Cơ sở vật chất của sự phát triển có tính chu kỳ của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa và sự phát sinh một cách định kỳ các cuộc khủng hoảng sản xuất dư thừa là
sự thay thế tư bản cố định. Khối lượng hàng hóa sản xuất vượt quá khối lượng nhu
cầu có khả năng thanh tốn. Do đó, nảy sinh những mất cân đối lớn trong nền kinh
tế quốc dân, và chủ nghĩa tư bản cần trải qua một cuộc khủng hoảng mới tạo nên
được một sự cân đối thường xuyên bị phá hoại. Trong lịch sử phát triển kinh tế, hệ
thống nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã trải qua những cuộc khủng hoảng sản
xuất thừa vào những năm 1825, 1836-1837, 1847, 1857, 1866, 1873, 1882, 1890,
1900,1907,1914-1921, 1929-1933, 1937-1938, 1948-1949, 1953-1954, 1957 -1958,
1960- 1961, 1969-1971, 1974-1975, 1980-1982.
Khủng hoảng kinh tế gây ra tác động tiêu cực: phá hoại lực lượng sản xuất,
làm phá sản một loạt xí nghiệp, một bộ phận người lao động bị thất nghiệp…Các
nhà nước tư bản chủ nghĩa đã tìm cách khắc phục khủng hoảng bằng phương pháp
điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng khủng hoảng kinh tế
được coi là căn bệnh kinh niên của chủ nghĩa tư bản và diễn ra có tính chất chu kỳ,
trải qua các giai đoạn có liên quan kế tiếp nhau: khủng hoảng – tiêu điều – phục hồi
– hưng thịnh. Do đó, để hạn chế khủng hoảng sản xuất thừa cần ln có ý thức điều



7

chỉnh sự vận hành của các cấu phần kinh tế sao cho bảo đảm được các cân đối chủ
yếu của nền kinh tế quốc dân.
1.3.2. Khủng hoảng chu kỳ
“Theo quan điểm mácxit, chu kỳ kinh tế là hình thức biểu hiện chính của
khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Nguyên nhân của nó nằm ở mâu thuẫn giữa xã
hội hóa sản xuất và hình thức chiếm hữu tư bản tư nhân”[28;49]. Khủng hoảng chu
kỳ biểu hiện ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: sản xuất, trao
đổi, phân phối và tiêu dùng. Tính chu kỳ của khủng hoảng liên quan tới tái sản xuất
tư bản cố định, hay nói cách khác, chính là q trình tái sản xuất tư bản cố định là
nền tảng vật chất của tính chu kỳ của khủng hoảng. Trong điều kiện khủng hoảng,
tư bản cố định bị hao mòn nhưng khơng phải là hao mịn hữu hình mà là hao mịn
vơ hình do năng suất lao động xã hội tăng. Tuy nhiên trong quá trình mở rộng sản
xuất cho việc phục hồi tư bản cố định đem lại đương nhiên phát triển mất cân đối và
vào một thời điểm nhất định lại dẫn đến khủng hoảng.
Khủng hoảng chu kỳ được mơ tả gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, đình đốn,
phục hồi và hưng thịnh. Giai đoạn quan trọng nhất là khủng hoảng bởi chính nó tạo
nên chu kỳ. Các giai đoạn khác đều xuất phát từ giai đoạn này.
Việc phân chia các giai đoạn khủng hoảng chỉ mang tính tương đối, còn thực
chất các giai đoạn của chu kỳ có liên quan hữu cơ đến nhau. Các giai đoạn có thể có
độ ngắn dài khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước hoặc của từng
thời kỳ phát triển. Mặc dù vậy nhưng theo lịch sử thì các giai đoạn đó, giai đoạn
khủng hoảng và đình đốn vẫn thường dài hơn giai đoạn phục hồi và hưng thịnh.
Điều này đặc biệt đúng với chủ nghĩa tư bản hiện đại.
1.3.3. Khủng hoảng cơ cấu
“Khủng hoảng cơ cấu là một hình thức biểu hiện khá điển hình của các cuộc
khủng hoảng kinh tế nói chung, khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản nói

riêng. Khác với khủng hoảng chu kỳ do những yếu tố liên quan đến chu lỳ kinh
doanh tạo nên, khủng hoảng cơ cấu có nguyên nhân sâu sa hơn trong chính hệ
thống”[28;53].
Khủng hoảng cơ cấu là hiện tượng kinh tế gắn liền với các vấn đề lớn của
nhân loại như vấn đề nợ, năng lượng, nguyên liệu, lương thực, môi trường…Về cơ


8

bản, biểu hiện của khủng hoảng cơ cấu được biểu hiện khá rõ nét, ở những giác độ
nhất định bởi các cuộc khủng hoảng như khủng hoảng năng lượng thế giới, khủng
hoảng lương thực, khủng hoảng nợ, khủng hoảng môi trường…Theo đó, sự xuất
hiện của khủng hoảng cơ cấu liên quan đến việc cạn kiệt những tài nguyên dưới
lòng đất do sự khai thác quá mức các nguồn nguyên liệu tự nhiên, dẫn đến tăng giá
các nguồn nguyên liệu này, đồng thời tiền ẩn những nhân tố ảnh hưởng tới mơi
trường sinh thái và đến một giới hạn thì khủng hoảng xảy ra.
Do vậy, để tránh phải đối diện với khủng hoảng cơ cấu, các quốc gia cũng
như thế giới cần có tính cảnh giác đối với vấn đề mang tính tổng thể nêu trên, trong
đó cần có sự quan tâm thỏa đáng tới vấn đề nợ quốc gia.
1.3.4. Khủng hoảng tiền tệ - tín dụng
“Khủng hoảng tiền tệ - tín dụng là sự chấn động, rối loạn của hệ thống lưu
thơng tiền tệ và tín dụng, nảy sinh do khủng hoảng chu kỳ của sản xuất hoặc do các
sự kiện đặc biệt bất thường về kinh tế và chính trị. Trên thị trường tiền tệ, khủng
hoảng tiền tệ - tín dụng biểu hiện dưới dạng thiếu tiền cho vay và lãi suất tăng cao.
Trong thời kỳ khủng hoảng tiền tệ, trong lĩnh vực tín dụng và thương mại xảy ra
việc thủ tiêu có tính chất cưỡng bức một phần số dư nợ lẫn nhau của các nhà kinh
doanh về kỳ phiếu và giảm khối lượng tín dụng thương mại”[28;56]
Trong lĩnh vực tín dụng quốc tế, khủng hoảng tiền tệ - tín dụng biểu hiện: sự
đứt quãng tức thời các mối quan hệ tín dụng quốc tế và sự phá sản của những người
vay tiền nước ngoài, sự ách tắc của người xuất khẩu do ngân hàng không cho họ

vay thêm những khoản tín dụng mới, sự thiếu hụt lớn của các bảng cân đối thanh
toán và giảm sút lớn xuất khẩu tư bản.
Ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ - tín dụng cũng biểu hiện trên cả thị
trường chứng khốn và trong lĩnh vực lưu thơng tiền tệ. Đặc trưng của nó là nạn đói
tiền hay là sự rối loạn tồn bộ q trình lưu thơng tiền tệ và sự mất giá đồng tiền.
Khủng hoảng tiền tệ, với ý nghĩa là dưới mức 100%, trong khi tỷ lệ này lại tăng ở
khu vực châu Á – Thái Bình Dương, từ mức 124% lên 214% năm 1997. Châu Á –
Thái Bình Dương cịn là khu vực có tỷ trọng nợ ngắn hạn so với tổng nợ tăng nhanh
nhất trong thời kỳ trên năm 1990 lên 30% năm 1997 sau khi đạt mức cao nhất là
32% năm 1996.


9

Khi rơi vào tình trạng mắc nợ trầm trọng – tình trạng nợ nước ngồi nhiều
đến mức khơng thể trả nổi, liên quan đến sự tồn vong của cả dân tộc, các nước đang
phát triển sẽ không tiếp cận được với thị trường vốn quốc tế, không thể đạt được
những tiến bộ trong phát triển và giảm đói nghèo với việc chi tiêu cho giáo dục, y tế
hầu như không có, nền kinh tế dần bị bần cùng hóa và ngày càng tụt hậu…
Nguyên nhân khiến khủng hoảng bùng nổ là do: sự cho vay và vay nợ quá
mức; sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả; phần lớn nợ nước ngoài ở các nước
vay nợ đều được định giá bằng USD với tỷ giá thả nổi.
1.3.5. Khủng hoảng tài chính
“Khủng hoảng tài chính là trạng thái chấn động của hệ thống tài chính, từ
hệ thống lưu thơng tiền tệ, tín dụng, đến tài chính nhà nước, biểu hiện chủ yếu là sự
mất ổn định, mất cân đối giữa thu và chi, thiếu hụt nghiêm trọng và kéo dài các
nguồn vốn ngân sách nhà nước và tín dụng của ngân hàng, kéo theo lạm phát, đồng
tiền mất giá nghiêm trọng. Khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ sự thiếu hụt ngân
sách do đề phòng và chuẩn bị chiến tranh, tăng cường lực lượng quân sự, hoặc do
chi tiêu vào phúc lợi xã hội quá sức chịu đựng của nền kinh tế, hoặc đầu tư nhiều

mà khơng có hiệu quả…tất cả đều có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính”[28;58].
Khủng hoảng thị trường tài chính xảy ra khi những món nợ đến hạn không
thu hồi được, do việc cấp phát vốn, cấp tín dụng khơng kiểm tra, kiểm sốt, khơng
xem xét khả năng hoàn vốn của những chủ thể vay vốn hoặc do chứng khoán, cổ
phiếu đột nhiên giảm sút. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997 ở Châu Á
là một ví dụ khá điển hình, nó làm bộc lộ những mặt yếu kém, với sắc thái và mức
độ khác nhau ở từng nước, về cơ cấu kinh tế và cơ chế kinh tế.
Trong vòng 30 năm qua, đặc biệt là trong những năm 1990, nợ tư nhân ngắn
hạn đã gia tăng nhanh chóng ở các nước đang phát triển. Sự gia tăng của nợ ngắn
hạn ở các nước đang phát triển không chỉ thể hiện ở quy mơ tuyệt đối mà cịn thể
hiện ở tỷ trọng của nó so với tổng kim ngạch xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ.
1.3.6. Tổng khủng hoảng
Tổng khủng hoảng là khái niệm được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác –
Lênin đề cập. Đó là quan điểm về tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, nền tảng
của quan điểm này là học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự diệt vong của


10

chủ nghĩa tư bản. “Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến mức độ cao (chủ nghĩa đế
quốc) những tiền đề của chủ nghĩa xã hội đã chín muồi và cách mạng nổ ra trên
thực tế. Đó là thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng. Tổng khủng hoảng nghĩa là ch ủ
nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại nhưng đang trong giai đoạn tan rã. Theo V.I.Lênin, nó
là q trình sụy đổ của chủ nghĩa tư bản và hình thành chủ nghĩa xã hội”[28;61].
Sau này, quan điểm tổng khủng hoảng tiếp tục được phát triển sâu hơn bởi các học
giả Xơ Viết, trong đó có nhà lãnh đạo Xtalin. Tuy nhiên cách tiếp cận này mang
nặng màu sắc chính trị và hệ tư tưởng. Với cách tiếp cận như vậy nên quan điểm về
khủng hoảng kinh tế đã tập trung quá mức vào việc phân tích những mặt trái của
chủ nghĩa tư bản, mà lại đánh giá thấp tiềm năng của chủ nghĩa tư bản.
Về sau, nhận thức này đã có sự thay đổi và quan điểm về tổng khủng hoảng

dưới ảnh hưởng của học thuyết Mac đó là những chu kỳ kinh tế ngắn hạn khủng
hoảng cơ cấu, khủng hoảng chức năng…và nó vẫn là thuộc tính của chủ nghĩa tư
bản.
1.4. Một số cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tiêu biểu từ thế kỉ XX đến nay
1.4.1. Đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933
Hoạt động đầu cơ với quy mơ lớn được hình thành nhiều vào những năm
cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX. Chỉ trong năm 1929 đã có một lượng cổ phiếu kỷ
lục là 1.124.800.410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu năm 1928 đến tháng 91929 chỉ số Dow Jones tăng từ 191 điểm lên 381,39 điểm. Không một nhà đầu tư
nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Có thể lấy ví dụ về cơng ty RCA, công ty
này cổ phiếu tăng từ 85 USD lên 420 USD chỉ trong năm 1928, mặc dù cổ phiếu
này chưa từng trả cổ tức lần nào.
Nguy hiểm hơn, với sự gia tăng ổn định của giá cổ phiếu, người ta bắt đầu
vay để mua chứng khoán. Cho đến giữa năm 1929, tổng lượng cho vay đang lưu
hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau con số này là 8,5 tỷ
USD. Lãi suất thanh tốn cho các khoản vay này cũng tăng nhanh khơng kém, đạt
mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hồn tồn chỉ dựa trên những
niềm tin vơ căn cứ, và nó trái ngược với sự sụp đổ khủng khiếp vài tháng sau đó.
“Giá bắt đầu giảm vào tháng 9-1929, nhưng khi đó các nhà đầu tư nói
chung vẫn rất lạc quan và tiếp tục nhảy vào thị trường. Ngày thứ Hai (21-10-1929),


11

giá bắt đầu giảm nhanh. Khối lượng giao dịch cổ phiếu lớn khủng khiếp. Các nhà
đầu tư vô cùng hoang mang và sợ hãi. Nhận ra rằng giá bắt đầu rơi, chứ khơng cịn
tính được giảm bao nhiêu, nhiều người ồ ạt bán ra. Điều này làm cho sự sụp đổ
diễn ra nhanh hơn. Giá cổ phiếu có ổn định một chút vào ngày thứ Ba và thứ Tư,
nhưng cho đến thứ Năm (24-10-1929) tất cả đều vỡ tan”[28;77]. Hầu hết những nhà
đầu tư lớn đều mất niềm tin vào thị trường, tất cả các nhà đầu tư đều đồng ý ở một
điểm: cổ phiếu đã hết tăng. Thị trường có hồi phục đơi chút vào thứ Sáu và thứ Bảy

sau khi một nhóm các ngân hàng lớn tham gia với nỗ lực cố gắng chặn lại sự sụp đổ
của thị trường. Nhưng vào thứ Hai tuần sau (28-10-1929), giá tiếp tục giảm 13%.
Ngày hôm sau, khối lượng lên đến 16,4 triệu cổ phiếu đã được giao dịch. Cổ phiếu
giảm liên tục, thường xun khơng có người mua. Chỉ trong hai ngày, chỉ số Dow
Jones giảm 25%. Lượng giao dịch cổ phiếu trên sàn đạt mức kỷ lục trong 40 năm.
“Từ năm 1929 – 1932, tại sở giao dịch của thành phố New York có 55 loại
cổ phiếu từ 252 USD giảm xuống cịn 61 USD; Cổ phiếu của cơng ty General
Motors từ 173 USD giảm xuống còn 8 USD; Cổ phiếu của công ty sắt thép Mỹ
United Staes Steel từ 262 USD tụt xuống còn 22 USD. Trong thời kỳ khủng hoảng,
nước Mỹ có đến 10 vạn ngân hàng phá sản (40% tổng số ngân hàng Mỹ)”[20;31]
Với thực tế là giá chứng khoán đã tăng gấp 4 lần trong thập kỷ trước và kéo
dài cho đến năm 1929, nếu quan sát kỹ càng có thể thấy có quá đủ đặc điểm để nhận
biết trên thị trường đang hình thành bong bóng.
Chun viên ngân hàng đầu tư, nhà mơi giới, chuyên viên giao dịch và đôi
khi cả người sở hữu chứng khoán hợp lại với nhau để đẩy giá chứng khốn lên để
rồi sau đó xả ra khi đã kiếm được lời. “Việc đầu cơ chứng khoán tăng cao và đạt
đỉnh trong năm 1929, đồng thời, ngân hàng trung ương đã hạ lãi suất xuống mức
thấp chưa từng có trong 7 năm có hệ quả tất yếu là khi “bong bóng” đạt đến độ của
nó, tất nó phải vỡ và điều đó đã diễn ra vào những ngày cuối tháng 10-1929. Để rồi
trước khi hạ xuống mức thấp kỷ lục vào tháng 7-1932, chỉ số Dow Jones đã mất
89% và chỉ số này đã không thể phục hồi lại mức đỉnh cao như năm 1929 cho đến
mãi năm 1954”[28;78].
Cuộc Đại khủng hoảng bắt đầu từ năm 1929 ở Mỹ, nhưng tác động của nó
ảnh hưởng trên tồn thế giới. Những hoạt động kinh tế bắt đầu suy giảm từ mùa hè


12

năm 1929 và đến 1933. Trong vòng gần bốn năm, mức sản xuất đã giảm 50%, vật
giá giảm xuống 25%, và tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh chóng – 25% dân số trong tuổi

lao động tại Mỹ. GDP của Mỹ giảm hơn 25% đã xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt
được trước đó. Nền kinh tế suy thối liên tục từ 1929 – 1933 và bắt đầu cải thiện
trong 4 năm 1933 – 1937. Sau đó tiếp tục có giai đoạn điều chỉnh lên xuống nhưng
cho đến năm 1940 mới đạt lại mức sản lượng kinh tế trước suy thoái.
Cuộc Đại khủng hoảng trên phố Wall tác động lớn tới tăng trưởng Mỹ và
cuối cùng ảnh hưởng của nó lan rộng ra toàn thế giới. Hệ thống ngân hàng Mỹ bị
chấn động mạnh, hành động đầu tiên của Tổng thống Roosevelt khi bắt đầu nhiệm
kỳ tổng thống là đóng cửa tất cả các ngân hàng trong hai tuần để quan chức thuộc
FED kiểm tra sổ sách các ngân hàng.
Tác động trực tiếp của cuộc Đại khủng hoảng có thể chỉ nhắm vào một số
vùng và ngành cụ thể, tuy nhiên tác động gián tiếp của nó như suy thối, giảm sản
lượng, thất nghiệp…là những tác động xuất hiện ở tất cả khu vực, ngành và lĩnh
vực.
Cuộc khủng hoảng sụp đổ cả thị trường, kéo theo 12 năm khủng hoảng trên
phạm vi toàn thế giới và chỉ kết thúc khi chiến tranh thế giới xảy ra. Cuộc khủng
hoảng này được đánh giá là “tai họa tài chính” lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Bản
thân sự sụp đổ của thị trường chứng khốn, dù có quy mơ lớn, vẫn rất nhỏ so với
hậu quả kế tiếp của một thị trường được miêu tả như một “nghĩa địa” và tác động
hủy hoại của cuộc khủng hoảng.
1.4.2. Khủng hoảng nợ khu vực Mỹ LaTinh
Khi nhắc đến khủng hoảng nợ, người ta sẽ hiểu ngay là đang nói đến cuộc
khủng hoảng nợ ở khu vực Mỹ Latinh thời kỳ đầu những năm 1980 và nó thường
được biết đến với các tên “Thế kỷ mất mát” (lost decade) [28;91], khi đó các quốc
gia trong khu vực này rơi vào cảnh nợ nước ngoài vượt q khả năng kiếm tiền và
khơng cịn khả năng trả nợ.
Trong đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, các nước khu vực Mỹ Latinh có số
nợ và trách nhiệm thanh toán (nợ gốc cộng lãi) ngày một gia tăng. “Tỷ lệ nợ dài hạn
trên GDP của các nước khu vực Mỹ Latinh tăng từ 18% năm 1970 lên 25% năm
1980 và tới 60% vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XX; tỷ lệ trả nợ và lãi, trong đó



13

so sánh giá trị nợ gốc và lãi với thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, lên tới
gần 50%. Ở Achentina giá trị trả nợ và lãi chiếm tới 80% thu nhập từ xuất
khẩu”[28;91].
Khi đó các nước Mỹ Latinh bắt đầu gặp khó khăn trong việc tạo đủ nguồn
thu ngân sách và ngoại tệ để thanh toán nợ và trả lãi. Trong thời gian nửa đầu năm
1982, có tám quốc gia phải trì hỗn lịch trả nợ.
Đến cuối năm 1982 và đầu năm 1983, mối lo ngại về một cuộc khủng hoảng
nợ của các nước kém phát triển đã trở nên phổ biến cả ở những nước nhập khẩu lẫn
những nước xuất khẩu tư bản. Tổng giá trị những món nợ cịn đọng lại các nước
kém phát triển đối với các ngân hàng thương mại đã tăng lên gần ba lần từ 160 tỷ
USD năm 1979 lên gần 460 tỷ USD năm 1983.
Song với sự phát sinh tình hình suy thối trầm trọng trên thế giới vào đầu
những năm 80 cùng với những chính sách bảo hộ mậu dịch lại dấy lên ở các nước
công nghiệp nên khả năng trả nợ của các nước kém phát triển càng giảm sút mạnh,
kim ngạch xuất khẩu của họ cũng sụt xuống.
Bầu khơng khí “khủng hoảng nợ” lan tràn vào năm 1982 và 1983; những
nước vay nợ nhiều như Achentina và Braxin dường như đã gần đến chỗ khơng cịn
đường lui. Báo chí đã nói nhiều về sự suy sụp tất yếu của nhiều ngân hàng lớn ở
Châu Âu và châu Mỹ.
Có thể nói tình trạng này xảy ra do khơng cịn lựa chọn nào khác vì khả năng
lựa chọn duy nhất khác đi là cho nhiều nước kém phát triển vỡ nợ như thực tế đã
xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng hồi những năm 1930. Đến năm 1980, đã có trên
40 nước kém phát triển, trong đó có tồn bộ các nước khu vực Mỹ Latinh, đã buộc
phải hoàn trả nợ theo kế hoạch đã định. Thực tế chưa có nước nào vỡ nợ, mặc dù
gánh nặng nợ nần vẫn đè nặng lên nhiều nước do được hoãn trả thông qua những
cuộc thương lượng đôi khi rất tế nhị.
Hậu quả của nợ nần đã buộc các quốc gia ở khu vực này phải tiếp tục gõ cửa

IMF để vay thêm nợ kèm theo những điều kiện khắc nghiệt. Theo thiết kế của các tổ
chức tài chính quốc tế, các nước khu vực Mỹ Latinh đã thực hiện chính sách điều
chỉnh cơ cấu kinh tế. Mười năm thực hiện chính sách điều chỉnh nhưng không điều
chỉnh nổi sự tụt dốc trầm trọng của đời sống kinh tế - xã hội đất nước, gánh nặng


14

chung của các nước nghèo không những không giảm mà còn tăng lên. Càng vay nợ,
các nước nghèo càng thêm nghèo và lệ thuộc nặng nề vào các nước chủ nợ.
Hơn nữa do lãi suất quá cao nên các nước này ngày càng khó khăn. Do sự
mất giá của đồng tiền làm cho chi phí trả nợ tăng lên, khiến cho các nước này rơi
vào tình cảnh phải trả số nợ cũ cao gấp nhiều lần so với khoản nợ mới. Có lúc các
nước này phải trả nợ với số tiền gấp 9 lần số tiền mà họ chi cho giáo dục, y tế. Hậu
quả là dịch vụ xã hội thiếu thốn trầm trọng, hàng triệu người nghèo đã bị cướp đi
mạng sống.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng, hầu hết các nước khu vực Mỹ Latinh đã
từ bỏ chiến lược cơng nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và thay vào đó bằng chiến
lược cơng nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu. Các nguồn vốn rất khổng lồ chảy ra bên
ngoài đặc biệt là chảy sang Mỹ, đã được sử dụng để làm tỷ giá hối đối giảm, từ đó
làm tăng tỷ suất lợi nhuận thực tế.
1.4.3. Khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á (1997 – 1998)
Khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á được đánh giá là cuộc khủng hoảng
lớn nhất trong khu vực kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bắt đầu vào ngày 027-1997 khi Thái Lan tun bố khơng có khả năng thanh tốn nợ nước ngồi và ngay
sau đó cuộc khủng hoảng này đã lan tới nửa thế giới và để lại những hậu quả
nghiêm trọng đối với các nền kinh tế trong khu vực và sự tăng trưởng của kinh tế
thế giới. Khởi đầu từ lĩnh vực tài chính – tiền tệ, tiếp đến lan sang toàn bộ nền kinh
tế và ảnh hưởng khơng nhỏ tới các lĩnh vực chính trị - xã hội.
Ngày 02-7-1997 khi cơ quan tiền tệ của Thái Lan tun bố rằng quốc gia này
khơng có khả năng giữ đồng bath theo đồng đôla Mỹ nữa. Điều này có nghĩa là Thái

Lan chủ trương phá giá đồng bath, kết thúc thời kỳ kéo dài trong suốt 13 năm giữ
gìn và mở đầu cho một cuộc khủng hoảng mới, khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở
khu vực châu Á. Thực chất, không bỗng dưng mà Thái Lan phá giá đồng bath của
mình để cho nền kinh tế lâm vào một tình trạng khó khăn nghiêm trọng. “Từ giữa
năm 1996, tỷ giá giữa đồng bath và đồng đôla Mỹ đã không ngừng tăng lên, đến
tháng 5-1997 tuy đã dùng mọi nỗ lực để giữ giá đồng bath, nhưng do khoản thâm
hụt ngoại tệ khá lớn – 15 tỷ USD nên số phận đồng bath bị thả nổi là không thể
tránh khỏi”[28;103]. Ngay trong ngày Thái Lan tuyên bố phá giá, đồng bath lập tức


15

giảm giá 16% và sau một tháng, đồng bath mất giá hơn 30%. Cùng với nó thị
trường chứng khốn Băng Cốc cũng mất giá trị tương đương.
Một số nước khác trong khu vực cũng bị đe dọa tương tự. “Sau một tháng,
đồng peso và đồng ringgit đã mất khoảng 25% giá trị so với cuối tháng 6-1997,
đồng rupia mất giá 40% so với ngày 02-7-1997, thậm chí đồng đơla Singapo cũng
mất 6% so với giá trị ban đầu”[28;104]. Các dòng đầu tư gián tiếp nước ngoài ở
các nước này cũng đã chảy ra khỏi nền kinh tế của họ tương tự như ở Thái Lan.
Tháng 10 – 1997, khủng hoảng bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc. Đây là quốc gia
nằm trong khu vực Đông Bắc Á với nền kinh tế hùng mạnh (đứng thứ 11) của thế
giới. Nhưng khủng hoảng đã làm cho nhiều tập đoàn then chốt của Hàn Quốc bị phá
sản, thị trường cổ phiếu, đồng won giảm mạnh…làm cho nền kinh tế nước này lâm
vào tình trạng suy thoái, kết thúc thời kỳ 1/3 thế kỷ phát triển diệu kỳ của nền kinh
tế sông Hàn. Khi cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ “gõ cửa” nền kinh tế Hàn
Quốc cũng là lúc phạm vi lan truyền và sự ảnh hưởng của nó đã vượt quá khuôn
khổ của các nước Đông Nam Á và lan sang các nước Đơng Bắc Á cũng như tồn
châu Á và thế giới.
Cuối cùng là Nhật Bản, nền kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới cũng gặp
nhiều khó khăn đối với hệ thống tài chính – tiền tệ. Việc đồng yên mất giá so với

đồng đôla Mỹ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế và đời sống nhân dân
của Nhật Bản.
Ngồi các nước nói trên, khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á đã ảnh
hưởng với các mức độ khác nhau đối với các nước thuộc châu Á và thế giới.
Các nguyên nhân dần dần được bộc lộ trong quá trình khủng hoảng. Tuy
nhiên, nguyên nhân trực tiếp gây ra cuộc khủng hoảng này chính là những cuộc tấn
công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Mặt khác, một điều tồi
tệ là thời kỳ này các nước Đông Á hầu như khơng thể kiểm sốt được nợ nước
ngồi. Cấu trúc tổ chức thị trường nợ khu vực Đông Á, tương tác với tình trạng phá
giá tiền tệ đẩy nền kinh tế khu vực tới cuộc khủng hoảng tồn diện. Có quá nhiều
doanh nghiệp ở những quốc gia này có các khoản nợ phát hành bằng ngoại tệ như
đồng USD hay yên Nhật, sự mất giá đồng tiền trong nước làm cho tình trạng vay


16

nợ, xét trên góc độ đồng nội tệ, thêm trầm trọng, ngay cả khi trên thực tế giá trị tài
sản của họ không hề thay đổi.
Thời kỳ này, các nước trong khu vực đã cố gắng thực hiện một kế hoạch
gồm ba chính sách mà các nhà kinh tế gọi là Bộ ba chính sách khơng thể đồng thời
(Giả thuyết này cho rằng không thể thực hiện đồng thời ba chính sách gồm chế độ
tỷ giá hối đối cố định, chính sách tiền tệ độc lập để ổn định giá cả và tự do lưu
chuyển vốn. Chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba chính sách này mà
thơi). Chính vì sự gắng gượng thực hiện ba chính sách trên, khi kinh tế tăng trưởng
nhanh, vốn nước ngoài sẽ chảy vào trong nước gây ra áp lực tăng giá nội tệ. Khi đó,
ngân hàng trung ương muốn bảo vệ chế độ tỷ giá cố định thì phải thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng. Song điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu thông
dẫn đến tăng tốc lạm phát. Muốn lạm phát khơng tăng tốc, thì phải thực hiện chính
sách thanh khoản đối ứng. Song như thế thì vốn nước ngồi càng chảy vào nhiều.
Và như thế, các nước trong khu vực đã gián tiếp đẩy mình vào cuộc khủng hoảng

này. Mặt khác, sau cuộc suy thoái 1987, Mỹ đã bước vào một thời kỳ phục hồi nên
kinh tế bằng một trong các biện pháp là năng lãi suất để ngăn chặn lạm phát. Việc
này làm cho Mỹ trở thành thị trường hấp dẫn hơn các nước Đơng Á đối với nhà đầu
tư. Từ đó làm tăng giá đồng đôla Mỹ, và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á
được neo vào đôla Mỹ nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh, từ
đó xuất khẩu giảm xuống một cách nhanh chịng làm cho suy yếu tài khoản vãng lai
của các nước Đông Á.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lực xử lý khủng
hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các
nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ khơng nên cố sức bảo vệ
tỷ giá để đến nỗi cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn
công đầu cơ thêm kéo dài. Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt
chặt của IMF được áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng
hoảng thêm trầm trọng.
Để ngăn chặn sự phát triển của khủng hoảng, các nước trong khu vực và một
số nước trên thế giới đã tiến hành các cải cách cơ cấu, gồm: cải tổ cách thức quản lý


×