Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Quan điểm của đảng về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.59 KB, 61 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

PHẠM THỊ LINH

Quan điểm của Đảng về vấn đề xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình hợi
nhập với thế giới theo xu thế tồn cầu hóa, công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đặt ra trước mắt chúng ta nhiều đòi hỏi, điều kiện, trong đó yêu cầu
đặc biệt quan trọng là phát triển nguồn lực con người. Đây là yếu tố vừa giữ
vai trò như là động lực, phương tiện để đạt được mục đích, vừa đồng thời là
mục đích hướng tới của cuộc cách mạng XHCN. Xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức là một phần quan trọng không thể thiếu của yếu tố nguồn nhân
lực nhất là trong xã hội hiện đại, khi khoa học ngày càng phát triển thì đội ngũ
trí thức đóng vai trò quan trọng có thể coi như là lực lượng sản xuất trực tiếp
thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
tương lai phát triển của mỗi quốc gia. Hơn nữa trong các yếu tố tham gia vào


quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người luôn được coi là
yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: Vốn, khoa học
và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước
thì con người là yếu tố quyết định, các yếu tố khác như vốn, tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa lý... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ có tác
dụng khi có sự tác động của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy
nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, các nguồn lực khác nhận dược sự tác động
của con người nhất là con người có tri thức, trí tuệ cao sẽ gắn kết lại với nhau
tạo thành sức mạnh tổng hợp tác đợng vào quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Vì vậy đòi hỏi phải có cách nhìn nhận đúng đắn về vai trò to lớn của con
người đặc biệt là con người có trí tuệ hay nói cách khác chính là đội ngũ trí
thức để có những chính sách, chiến lược phù hợp nhằm thu hút nguồn lực này
và phát huy tốt để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển đất nước.
Lịch sử dân tộc luôn biến động, trải qua không ít thăng trầm nhưng nền
văn hiến việt nam vẫn luôn được kế thừa, phát huy và phát triển, từ trong lòng
2


nền văn hiến tốt đẹp ấy cũng đã sản sinh ra biết bao những bậc trí thức tài
năng của nhiều thời đại, đã góp phần công sức cho sự phát triển chung của
nước nhà, và ngày nay phải thông qua đội ngũ trí thức để tiếp cận nhanh
chóng với tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nền
kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành
và phát triển nền kinh tế tri thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
và “trí thức là vốn quý báu của dân tộc”. Không có trí thức, không có người
tài thì không thể thực hiện được công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể
phát triển nhanh và bền vững được. Nên vấn đề xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức trở thành vấn đề then chốt và có ý nghĩa quyết định. Và trong

thực tiễn hiện nay vai trò của đội ngũ trí thức lại càng được khẳng định. Điều
này tại nghị quyết hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ương Đảng khóa X
nhấn mạnh “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ
của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và
chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng cho đội ngũ trí
thức là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Do đó, để hiểu thêm về đội ngũ trí thức và Đảng ta đã có quan điểm như
thế nào về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tôi chọn đề tài: “ Quan điểm của Đảng về vấn đề xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
(1996-2011)
2 .Tình hình nghiên cứu đề tài
Trí thức là chủ đề được nhiều người quan tâm và đã có nhiều công trình
nghiên cứu dưới nhiều hình thức và gốc độ khác nhau, được đăng tải trên
nhiều sách báo và tạp chí. Có thể nhắc đến một số công trình tiêu biểu như:
Nguyễn Khánh Bật, “vị trí vai trò của trí thức trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần đại hội XI của Đảng”, Tạp chí cộng
3


sản, số 08, (tháng 10 năm 2011); Nguyễn Thành Lợi, “ về vấn đề đào tạo và
sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay”, số 18 (12 – 2010); Thẩm Vinh HoaNgô Quốc Diệu , “tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn
hưng đất nước”, Nxb, chính trị quốc gia, 2008; Trịnh Quang Cảnh, “phát huy
đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện
nay”, Nxb, chính trị quốc gia, 2005; Nguyễn Tiến Lương “Phát huy vai trị
của đợi ngũ trí thức trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số B 2005-14-35. Các công trình
nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau về trí thức và các công
trình đó cũng đã mang lại giá trị và ý nghĩa rất lớn. Trên cơ sở tiếp thu và kế
thừa các công trình nghiên cứu trước thì tôi đi vào nghiên cứu “quan điểm

của Đảng về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”(1996-2011)
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
- Làm rõ quan điểm của Đảng về đội ngũ trí thức và vấn đề xây dựng đội ngũ
trí thức trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2011)
* Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên thì cần phải thực hiện một số vấn đề sau:
- Làm rõ hoàn cảnh lịch sử và quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí
thức trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Một số kiến nghị về xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong giai
đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ
trí thức
4


* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống
hóa và phương pháp lô gic
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quan điểm của Đảng về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức,
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2011)
6. Ý nghĩa của khóa luận
- Giúp tác giả hoàn thành chương trình tốt nghiệp của mình và bước đầu làm
quen với việc nghiên cứu khoa học.
- Góp thêm nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu về quan điểm của

Đảng về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được cấu trúc thành hai chương và 8 tiết.
Chương 1: Đường lối của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 19861996
Chương 2: Đường lối của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 19962011

5


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỢI NGŨ TRÍ THỨC
TỪ NĂM 1986- 1996
1.1 Mợt sớ khái niệm liên quan
Có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau về trí thức ở trên thế giới
cũng như ở nước ta, trí thức được sử dụng trong từ vựng tiếng Việt vừa như
một từ thông thường, rất gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng ngày, vừa
như một khái niệm khoa học với những hàm nghĩa khác nhau. Nghiên cứu về
trí thức là nghiên cứu một đối tượng đặc thù trong cơ cấu xã hội gắn liền với
những phương thức lao động, bản chất xã hội và những đặc điểm hình thành,
phát triển của trí thức như một cá thể - chủ thể mang nhân cách sáng tạo, như
một tầng lớp, một nhóm xã hội - nghề nghiệp và như một cộng đồng trong
quan hệ với xã hội và nhà nước, với dân tộc và giai cấp, với truyền thống và
hiện đại.
Sự xuất hiện của đội ngũ trí thức trong xã hội rất phong phú và đa dạng
tùy theo từng giai đoạn lịch sử. Vì vậy, mỗi thời kì lịch sử, mỡi hồn cảnh xã
hợi con người có cách nhìn nhận, có những quan điểm khác nhau nhất định.
Tiền đề xuất hiện của trí thức là sự phân công lao động xã hội. Trí thức ra đời

trong xã hội chiếm hữu nô lệ và mau chóng trở thành một tầng lớp xã hội vào
thời kì tư bản chủ nghĩa, đến chủ nghĩa xã hội đội ngũ trí thức phát triển ngày
càng đông và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Trong
quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cùng với sự phát triển của khoa họckĩ thuật, đòi hỏi phải tăng nhanh về số lượng những người làm việc trí óc, có
trình độ chuyên môn cao.
C .Mác và F. Ăngghen có quan niệm về trí thức như sau: Khi nghiên cứu
xã hội tư bản, C. Mác đặc biệt chú ý đến vị trí và vai trò của trí thức đối với
nền sản xuất xã hội. Về mặt nghề nghiệp trí thức hình thành ba nhóm, tương
6


ứng với ba hình thức cơ bản của lao động trí óc. Những hình thức này được
Mác chỉ ra rõ ràng trong tác phẩm “Lý luận về giá trị thặng dư”, tập IV, bộ
“tư bản”, hai hình thức lao động trí óc nằm trong khu vực sản xuất phi vật
chất gồm: Các nhà văn, nhà báo, những người hoạt động nghệ thuật; các nhà
hoạt động tuyên truyền, giáo viên, bác sĩ, luật sư... Hình thức thứ ba nằm
trong khu vực sản xuất gồm các nhà khoa học, các nhà kỹ sư.
Theo quan điểm của Mác – Ăngghen để có đội ngũ trí thức đông đảo đáp
ứng yêu cầu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như trên, trong thời kì xây
dựng CNXH, cùng với việc xây dựng đào tạo ra một lớp trí thức mới, cần
phải tập trung và tiến hành cải tạo lực lượng trí thức của chế độ cũ phục vụ
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội cần một lực lực
lượng trí thức lớn không chỉ điều hành bộ máy Nhà nước, mà còn xây dựng,
quản lý nền kinh tế quốc dân. Điều này đã được Ăngghen chỉ rõ trong thư gữi
Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa: “ Các cuộc cách mạng tư sản
trước đây đòi hỏi nhà trường đại học chỉ đào tạo ra các trạng sư làm nguyên
liệu tốt nhất để hình thành các nhà hoạt động chính trị; vượt xa đòi hỏi đó, sự
nghiệp giải phóng giai cấp công nhân cần có những bác sĩ, kỹ sư, các nhà hóa
học, nông học và các chuyên gia khác; vấn đề là ở chỗ giành quyền lãnh đạo
không phải chỉ ở bộ máy chính trị, mà tồn bợ nền sản x́t xã hợi, và ở đây

cần đến những kiến thức vững chắc chứ không phải là những luận điệu huênh
hoang rỗng tếch” [23, tr.552].
Mác và Ăngghen cũng đã chỉ rõ trí thức là những người làm nghề lao
động trí óc ở trong cả khu vực trực tiếp sản xuất vật chất và trong các lĩnh vực
không trực tiếp sản xuất vật chất. Hai ông đều đánh giá vai trò to lớn của trí
thức đối với sự phát triển của xã hội. Căn cứ vào vai trò của trí thức đối với
đời sống xã hội mà Mác đã phân chia trí thức thành các nhóm hoạt động trên
các lĩnh vực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và không trực tiếp sản xuất

7


ra của cải vật chất. Việc phân chia này càng cho chúng ta thấy rõ vai trò quan
trọng của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của xã hợi.
Cịn Chủ tịch Hờ Chí Minh khi được hỏi trí thức là gì? Người viết “ Trí
thức là người hiểu biết trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết. Một là hiểu biết
sự tranh đấu sinh sản, khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết đấu
tranh dân tộc và tranh đấu xã hội, khoa học xã hợi do đó mà ra, ngồi hai cái
đó khơng có trí thức nào khác”
“Một người học xong đại học có thể gọi là trí thức, song y không biết cày
ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết nhiều việc khác
thì y chỉ có trí thức một nữa, trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí
thức hồn tồn, y ḿn thành mợt người trí thức hồn tồn thì phải đem cái
trí thức đó áp dụng vào thực tế”. [24, tr.60]. Định nghĩa trên của Hồ Chí Minh
đã cho chúng ta thấy rõ trí thức phải là người có kiến thức khoa học lẫn kiến
thức xã hội, vừa có lý luận vừa có thực tiễn.
Còn trong từ điển triết học có nêu khái niệm về trí thức như sau: “Trí thức
là mợt tập đồn xã hội gồm những người lao động trí óc, giới trí thức bao gồm
kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công
tác khoa học”.

Trong bách khoa toàn thư Pháp, tập X : Trí thức là một phạm trù lịch sử.
Ở mỗi nước khác nhau khái niệm về trí thức khác nhau. Trong đời sống xã hội
trí thức có vai trò nhất định. Họ có thể có thái độ đơn thuần “trùm chăn”, cũng
có thể tích cực dấn thân vào hoạt động chính trị. Người ta có thể nói trí thức
là kỹ sư, quan chức, nhà phản biện xã hội tâm lý học, nhà hoạt động chính trị,
nhà cách mạng. Trong xã hội khủng hoảng, họ có thể trở thành nhà lý luận
cách mạng, trong xã hội buồn thảm, thậm chí họ bị coi là kẻ bung xung”[8,
tr.18].
Trong từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học lại cho rằng : Trí thức là một
nhóm xã hội, gồm những người chuyên làm nghề lao động trí óc. Sự tồn tại
8


của trí thức với tư cách là một nhóm xã hội đặc biệt gắn liền với việc phân
công xã hội giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Một bộ phận lớn viên chức, giới trí thức đã xuất hiện ngay trong xã hội
chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nhưng trong những hình thái xã hội tiền xã
hội chủ nghĩa đã đạt tới sự phát triển lớn nhất dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
giới trí thức chưa phải là một giai cấp riêng, bởi vì nó được thu hút từ nhiều
giai cấp khác nhau và không có địa vị riêng trong hệ thống sản xuất xã hội.
Trí thức là một tầng lớp xã hội, nó không thể có một đường lối chính trị độc
lập, hoạt động của nó được quy định bởi lợi ích của những giai cấp mà nó
phục vụ.
Dưới chế độ tư bản trí thức là tầng lớp giữa các tầng lớp cơ bản. Họ được
bổ sung bằng những người xuất thân từ các giai cấp bóc lột, từ các tầng lớp
trung gian, nó cũng được bổ sung từ giai cấp vô sản và những người lao động
khác. Với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, với việc xóa bỏ các giai cấp bóc lột,
với việc xác lập sự thống trị về chính trị - xã hội và tư tưởng trong xã hội, trí
thức trở thành một lực lượng lớn, một đội ngũ đông đảo phục vụ cho nhu cầu
của toàn thể nhân dân lao động, lợi ích của họ không tách rời lợi ích của giai

cấp công nhân và nông dân
Trong từ điển tiếng việt, người ta định nghĩa trí thức là người làm việc, lao
động bằng trí óc.
Có thể nói với sự phát triển của khoa học và công nghệ đặt ra cho người
lao động hiện nay và cả trong tương lai không chỉ dựa vào kinh nghiệm sản
xuất mà phải dựa vào tri thức khoa học, tức là người lao động phải có trình độ
trí tuệ, có óc suy nghĩ và sáng tạo. Để biến những tiềm năng sẵn có của mình
thành một động lực giúp đất nước phát triển.
Trong lịch sử tư tưởng và truyền thống dân tộc Việt Nam, trí thức thường
được gọi là kẻ sĩ. Nhân cách kẻ sĩ đáng nể trọng bởi họ nặng lòng thương dân,
yêu nước, ngay thẳng, cương trực, thanh tao, trọng chân lý, đạo nghĩa, trọng
9


dân, thân dân và chính tâm. Ưu thời mẫn thế và nhập cuộc - đó là thái độ sống
của người trí thức.
Trí thức Việt Nam, thế hệ nối tiếp thế hệ, đã đồng hành cùng nhân dân và
dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho công
cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đã đánh thắng đế quốc phong kiến, ngày nay nhân dân ta còn phải đánh thắng
nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiến tới
hiện đại hoá. Trí thức Việt Nam có trọng trách trong sự nghiệp vẻ vang đó vì
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân. Tổ quốc - nhân dân - dân tộc thời đại và chủ nghĩa xã hội, đó là hệ giá trị và lý tưởng sống của người trí
thức cách mạng hiện nay.
Ta thấy có rất nhiều quan niệm về trí thức khác nhau, tất cả những ý kiến
đó đều giúp ta định hướng về đội ngũ trí thức. Từ đó có những phương
hướng, chính sách để xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và cũng giúp chúng ta có thể khái quát lại những nét
điển hình về đội ngũ trí thức như sau:
Thứ nhất, trí thức là người có hiểu biết rộng và sâu, có năng lực sáng tạo,

có trình độ phát triển cao về trí tuệ, làm việc bằng trí óc, nhạy bén với cái mới
và đổi mới để phát triển.
Thứ hai, học vấn, học thức của người trí thức được gây dựng qua đào tạo,
được bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, tự trau
dời và hồn thiện của cá nhân trong lao động và hoạt động sáng tạo.
Thứ ba, trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá
trị tinh thần, trọng sự thật, chân lý và đạo lý. Trí thức là người có cá tính sáng
tạo, có lòng tự trọng cao, có đầu óc duy lý và phê phán để khẳng định cái tôi cá thể đồng thời gắn bó với cộng đồng, phụng sự nhân dân và dân tộc.
Thứ tư, khát vọng tự do, dân chủ, đấu tranh cho lẽ phải và sự công bằng là
sự nổi trội trong nhân cách trí thức sáng tạo.
10


Thứ năm, trí thức thể hiện lý tưởng chính trị và trách nhiệm xã hội của
mình thông qua lý tưởng nghề nghiệp, qua hoạt động chuyên môn đặc thù.
Ngọn nguồn sâu xa của sức mạnh sáng tạo và phát triển tài năng trí thức là
thực tiễn cuộc sống, là sự gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân, là tình
cảm yêu nước và tinh thần dân tộc. Ngày nay, Tổ quốc - nhân dân - dân tộc thời đại và chủ nghĩa xã hội là hệ giá trị và lẽ sống của người trí thức.
Ở nước ta, cùng với sự phát triển đi lên của cách mạng, tầng lớp trí
thức xã hội chủ nghĩa phục vụ cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cho sự lãnh đạo
và cầm quyền của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là
Đảng Cộng sản cũng chính là phục vụ cho nhân dân và dân tợc, đã từng bước
hình thành. Đó là cơ sở xã hội khách quan để tầng lớp trí thức xã hội chủ
nghĩa gắn bó sâu sắc với nhân dân và dân tộc, thực hiện lý tưởng và mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đối với người trí thức giác ngộ cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản không chỉ là vấn đề quan điểm chính trị, là giác ngộ sứ mệnh
lịch sử giai cấp công nhân mà còn là hiểu biết khoa học, niềm tin khoa học, là
giác ngộ bằng lý luận về xu thế tất yếu của sự phát triển lịch sử.
Nói tới tầng lớp trí thức, nhất là tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa ở

nước ta, chúng ta nói tới một cộng đồng xã hội - nghề nghiệp, một cộng đồng
xã hội - lao động, với đặc trưng là lao động trí óc và làm nghề sáng tạo. Bản
thân tầng lớp này lại là một cơ cấu của chính nó với sự hợp thành của rất
nhiều loại hình (căn cứ vào cách thức lao động và hoạt động), nhiều nghề
nghiệp khác nhau. Cùng với sự khác nhau đó, trí thức xã hội chủ nghĩa còn là
sự thống nhất, là tương đồng và giống nhau về lý tưởng, mục tiêu, về quan
điểm chính trị, về ý thức hệ và về các chuẩn mực đạo đức.
Trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau, sẽ có cơ cấu của tầng lớp trí thức
khác nhau, phân chia theo ngành nghề trí thức bao gồm:

11


Trí thức khoa học - công nghệ, bao gồm những trí thức hoạt động trong
lĩnh vực khoa học - công nghệ (bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ) từ những người nghiên cứu đến
giảng dạy, từ nghiên cứu cơ bản, lý thuyết đến nghiên cứu ứng dụng khoa học
- kỹ thuật và công nghệ.
Trí thức văn hoá - nghệ thuật, là một lĩnh vực quan trọng đặc thù. Đội
ngũ trí thức này đóng vai trò nòng cốt để phát triển văn hoá - nghệ thuật, xây
dựng lý tưởng thẩm mỹ và đời sống tinh thần - đạo đức trong xã hội.
Trí thức trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý, là nhóm trí thức tham gia vào
hệ thống quyền lực nhân dân thuộc hệ thống quản lý các cấp, trong các cơ
quan công quyền và trong các lĩnh vực hành chính sự nghiệp và hoạt động xã
hội. Đa số họ có vị trí, vị thế xã hội quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển của đất nước và sự phát triển của tầng lớp trí thức nói chung ở nước ta.
Trí thức trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, là những người hoạt
động trực tiếp trong lĩnh vực kinh tế, quản lý kinh tế. Đây là hiện tượng mới
xuất hiện trong nền kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi mới, có xu hướng phát
triển cả về số lượng và chất lượng, nhất là trong bối cảnh nước ta đi vào hội

nhập kinh tế quốc tế.
Trí thức trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, đối ngoại, là nhóm trí thức
quân đội và công an, trí thức trong ngành ngoại giao và hoạt động đối ngoại.
Nhóm trí thức này gồm nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, từng
trải, trong đó có không ít những tài năng và những triển vọng.
Trí thức trong cộng đờng người Việt ở nước ngồi, là nhóm xã hợi đang
làm ăn, sinh sớng ở nước ngồi, họ hiện diện một cách xứng đáng trong cộng
đồng trí thức của dân tộc ta, với nhiều thế hệ, nhiều chuyên môn khác nhau,
trong số đó có những tài năng nổi tiếng, xuất sắc. Họ hướng về dân tộc, mong
muốn được đóng góp tài năng và kinh nghiệm vào công cuộc phát triển kinh
12


tế - văn hoá ở trong nước, góp phần đưa tổ q́c trở nên giàu có, văn minh,
hiện đại.
Ngồi ra còn có sự sắp xếp theo độ tuổi thì có trí thức trẻ đang được
đào tạo, đó là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng của đất nước, là tiềm năng và
triển vọng của trí thức dân tộc. Đây là nhóm xã hội đặc trưng cho tương lai
của trí thức Việt Nam. Họ là học sinh, sinh viên đang được đào tạo ở các
trường đại học trong cả nước, thuộc đủ mọi lĩnh vực, có cả một bộ phận đang
theo học ở nước ngoài, trong đó có những người đang theo học ở các trường
đại học lớn, có uy tín của thế giới. Đây là những trí thức tương lai, đang tiếp
thu nền học vấn hiện đại, thích ứng với yêu cầu của xã hội hiện đại, của kỷ
nguyên văn minh tin học.
Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng, tầng lớp trí thức Việt Nam đã hình
thành một đội ngũ hùng hậu, đồng hành cùng dân tộc trong kháng chiến cũng
như trong xây dựng đất nước. Đội ngũ trí thức là những người có học vấn cao,
chuyên môn cao, bên cạnh đó thì họ là những người quan tâm và có chính
kiến trước những vấn đề chính trị- xã hội của thời cuộc. Đặc trưng nổi bật

nhất mà ta thấy đó chính là lao động trí óc và có tính sáng tạo. Kiểu lao động
trí óc và sáng tạo ấy đặt ra đòi hỏi cao về tính độc lập của người trí thức trong
tư duy, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã được tích lũy cũng như năng
lực chuyên môn nghề nghiệp để tìm ra biện pháp tối ưu giải quyết công việc.
Tầng lớp trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất
là từ công nhân và nông dân; Phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được
hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối
tiếp nhau. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự
tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Bằng
hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh
vực xây dựng, bảo vệ tổ quốc.
13


Thế giới đang ngày càng phát triển đi lên và Việt Nam củng khơng nằm
ngồi trào lưu chung đó, hơn ai hết đội ngũ trí thức sẽ đóng một vị trí quan
trọng trong tiến trình phát triển này. Chính vì thế cần phải có cái nhìn đúng
đắn về đội ngũ trí thức. Tuy nhiên không phải ai cũng thấy được vị trí, vai trò
của đội ngũ trí thức trong lịch sử phát triển của xã hội nói chung, trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, nếu không xuất phát từ một
quan điểm lý luận rõ ràng về người trí thức cũng như mối quan hệ giữa đội
ngũ trí thức với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, để ngày càng tận dụng
được tiềm năng nội lực sẵn có của nước ta.
1.2 Vai trò của trí thức đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta để từ nay đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và đến giữa thế kỹ
XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng
XHCN là một sự nghiệp vĩ đại, đòi hỏi sức mạnh tổng hợp của toàn dân tợc

nhất là khi mà cả thế giới đã tồn cầu hóa nhiều mặt của đời sống xã hội. Đây
là cả một vấn đề lớn, vừa có ý ngĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, đòi hỏi
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và sự kiên định, dũng cảm của tồn thể
nhân dân ta. Mợt trong những quan điểm để đẩy mạnh CNH, HĐH mà Đảng
đưa ra là “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh, bền vững”. Nguồn lực con người mà trước hết đội ngũ trí
thức có vai trò hết sức quan trọng, nhất là trong xu thế phát triển mạnh mẽ của
khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện nay. Nhân tố con người là cực kì quan
trọng, kể cả những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp cao cũng như đội
ngũ trí thức, họ sẽ giữ vai trò quyết định đến sự thành cơng của cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Trong quan hệ mật thiết với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
sự phát triển chủ nghĩa xã hội, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt
14


Nam nói riêng là nội lực trí tuệ và văn hóa của tồn dân tợc. Đó là nợi lực trí
ṭ của tồn xã hợi, của từng ngành, của đơng đảo nhân dân và của từng cá
nhân cụ thể. Đây là quan điểm có ý nghĩa lý luận cần được quán triệt khi nói
đến vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức.
1.2.1 Đội ngũ trí thức Việt Nam là nguồn lực tham gia trực tiếp và là nhân
tố cơ bản cho việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi khoa học kỹ thuật phải
phát triển mạnh mẽ mới tiến kịp trào lưu chung của sự hội nhập kinh tế quốc
tế. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa kéo theo đó là đòi hỏi một nguồn
lực phải năng động, biết sáng tạo nhất trong quá trình sản xuất. Chỉ có thể con
người có trí thức mới có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất tác động vào
đối tượng sản xuất làm cho sản xuất ngày càng phát triển. Với năng suất và
chất lượng cao và có khả năng làm thay đổi quan hệ sản xuất và các quan hệ

xã hội khác nhằm mục đích ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của con người và tồn bợ xã hợi. Đóng góp đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa họckỹ thuật và công nghệ dần dần làm mất chỗ đứng của người công nhân lao
động giản đơn và thay vào đó là những người công nhân có trí tuệ và tay nghề
cao, cùng với những kĩ sư, những trí thức thực thụ. Chính điều đó cho thấy trí
thức ngày càng trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguồn lực tham
gia trực tiếp và là nhân tố cơ bản cho việc thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
cải tạo và trang bị lại kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân trên cơ sở công
nghiệp hiện đại và khoa học-kỹ thuật tiên tiến, từng bước hiện đại hóa gắn
liền với sử dụng hợp lý tài nguyên, tạo ra giá trị vật chất có trình độ cao để
hòa nhập với khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Trước những đòi
15


hỏi lớn lao đó, các nhà khoa học công nghệ phải đi đầu trong nghiên cứu ứng
dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ.
1.2.2 Đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần tích cực trong việc xây dựng
những luận cứ khoa học, cho việc hoạch định đường lối, chính sách công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như chúng ta biết trước một việc gì đó muốn thành công thì phải có
những yêu cầu đặt ra riêng và phải biết xây dựng kế hoạch, hoạch định đường
lối, chính sách, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi khoa học
công nghệ phải phát triển mạnh mẽ, phải coi khoa học công nghệ là một trong
những động lực để phát triển đất nước. Vậy có lẽ câu hỏi đặt ra là để thực
hiện được điều đó thì ai sẽ làm và có những chính sách, chiến lược như thế
nào? Thiết nghĩ, phải chú ý đến vai trò của đội ngũ trí thức, hơn ai hết đội ngũ
trí thức họ đã không ngừng vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào tư tưởng của
đất nước để đưa ra những định hướng phát triển đất nước. Đồng thời họ

không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong
quá trình phát triển và họ thể hiện được vai trò to lớn của mình trên từng lĩnh
vực cụ thể.
Trong cả nước hiện đang có rất nhiều cơ quan khoa học công nghệ
đang được đẩy mạnh, phục vụ các hoạt động cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Ở các cơ quan đó thì số lượng người có trình độ cao
đẳng, đại học trở lên chiếm một khối lượng rất lớn. Họ chính là lực lượng trí
thức họ sẽ góp phần vào việc xây dựng những luận cứ khoa học, hoạch định
những đường lối cho đất nước phát triển và đến nay đội ngũ nghiên cứu trong
các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học và công nghệ đã có nhiều đóng góp
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, qua các nghiên cứu cơ bản về điều
kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Các nhà khoa học Việt
Nam đã kiến nghị nhiều phương án phát triển sản xuất theo vùng và lãnh thổ,
đã tiếp thu và làm chủ một số công nghệ cao. Chính nhờ lực lượng khoa học
16


và công nghệ mà trực tiếp là đội ngũ trí thức mà nhiều công nghệ tiên tiến đã
được chuyển giao và áp dụng trong một số lĩnh vực như viễn thông, dầu khí,
vận tải... Các doanh nghiệp với những công nghệ tiên tiến cùng với chính
sách phát triển phù hợp đã tạo nên bộ mặt mới cho nền công nghệ Việt Nam
và góp phần to lớn cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt
Nam trong thời gian qua đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ở nước ta lên một bước.
Các nhà khoa học tự nhiên và công nghệ đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống đem lại hiệu quả
kinh tế cao cho đất nước, làm thay đổi đời sống của các tầng lớp, các giai cấp
trong xã hội. Chỉ tính trong 15 năm đổi mới, những trí thức hoạt động trên các
lĩnh vực khoa học và công nghệ đã triển khai nhiều công trình khoa học lớn
phục vụ cho sản xuất và đời sống như: ”Giai đoạn từ 1986-1990 có 48 chương

trình; Giai đoạn 1991-1995 có 21 chương trình; Giai đoạn 1996 - 2000 có 18
chương trình. Các chương trình đó với hàng ngàn đề tài đã thực sự mang lại
sức sống mới trong các lĩnh vực hoạt động thuộc các ngành kinh tế quốc dân
như chăn nuôi, trồng rừng, khai thác biển, sản xuất dược và đông dược, bảo
vệ môi trường, hóa dầu và vật liệu hóa, chế tạo máy, điện tử - tin học - viễn
thông” [6, tr.238]. Theo báo cáo của GS, TSKH Vũ Đình Cự từ khi bắt đầu
đổi mới, chỉ có khoảng 100 tổ chức khoa học công nghệ. Đến cuối năm 2004
cả nước có khoảng 1.220 tổ chức khoa học công nghệ, trong đó có khoảng
648 thuộc khu vực nhà nước, 536 thuộc khu vực tập thể và tư nhân [28,
tr409]. Các nhà khoa học nông nghiệp đã kết hợp chặt chẽ với nông dân ứng
dụng và phát triển các giống cây trồng, vật nuôi với năng suất, chất lượng cao,
nhờ đó đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp đã kết hợp chặt chẽ
với nông dân, ứng dụng và phát triển các giống cây trồng, vật nuôi với năng
suất, chất lượng cao nhờ đó đã đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông
nghiệp. Nhiều công trình được đánh giá cao, trong đó có 15 công trình được
17


giải thưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực nông nghiệp qua ba đợt xét ( 1996,
2000, 2005). Các ngành xây dựng, giao thông, điện tử - viễn thông đã tiếp thu
và phát triển hàng loạt công nghệ tiên tiến phục vụ nhanh chóng cho việc xây
dựng đất nước ta phát triển hơn.
Bên cạnh đó, thì đội ngũ trí thức tham gia tích cực trong việc nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nêu lên nhiều bài học, kinh nghiệm, bổ sung
cho lý luận: Suốt một thời gian dài đội ngũ trí thức cách mạng Việt Nam đã
được huy động và tích cực tham gia vào các tổ biên tập, chuẩn bị các văn kiện
cho các đại hội lần thứ VII, VIII, IX của Đảng. Và gần đây nhất để làm cơ sở
lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc đóng góp vào các văn kiện trình Đại hội
lần thứ X của Đảng, năm 2003, Bộ chính trị quyết định thành lập ban chỉ đạo
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới ở Việt Nam,

nhằm đánh giá mợt cách đúng đắn tồn bộ quá trình đổi mới vừa qua rút ra
những bài học, những vấn đề cần thiết để tiếp tục hoàn thiện đường lối, quan
điểm chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong những năm tiếp theo. Đến
tháng 1- 2005, Báo cáo tổng kết đã được trình hội nghị lần thứ 11 của
BCHTW và được trung ương đánh giá cao
1.2.3 Đội ngũ trí thức việt nam góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn
nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
Chúng ta đều biết con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển. Bởi vậy đầu tư cho con người chính là tạo ra cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững và cường thịnh quốc gia trong thời đại ngày nay, các quốc
gia trên thế giới đều hết sức coi trọng vai trò của nguồn nhân lực và quan tâm
phát triển nguồn nhân lực, coi nguồn nhân lực là một trong những nhân tố
được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển quốc gia và trong đó đội
ngũ trí thức là một nguồn lực có giá trị rất lớn và chính họ đã góp phần vào
việc đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó thì thực tế cho ta thấy rằng có trí
thức thì mới giác ngộ được những đường lối, chính sách một cách đúng đắn
18


và là tiền đề đầu tiên nâng cao dân trí. Lê Qúy Đôn từng nói:“ phi thương bất
phú, phi công bất hoạt, phi nông bất ổn, phi trí bất hưng”. Sự hưng thịnh của
mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào thái độ của tầng lớp trí thức đối với thể
chế xã hội và con đường phát triển của đất nước đã vạch ra. Khi yếu tố này
dồi dào thì đất nước sẽ tăng tiến mạnh mẽ và phồn vinh, góp phần vào việc
đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài.
Như vậy, chúng ta thấy rằng cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ
trí thức góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, từng bước xóa đói giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao
chất lượng cuộc sống. Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng
luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước
và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; Trực tiếp
đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; Sáng tạo
những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất
lượng cao, có sức cạnh tranh; Từng bước nâng cao trình độ khoa học và công
nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.
Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai
trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của
nhà nước. Đội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng
nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại. Nhiều trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng
nhanh với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế có những đóng góp
thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Hiện nay đất nước đang đòi hỏi có nhiều nhân tài, đó là những nhà kinh
doanh giỏi, có trí tuệ, có bản lĩnh, có đạo đức. Trí tuệ đáp ứng nhu cầu của sự
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kết hợp lợi ích cá
19


nhân, lợi ích doanh nghiệp nhìn xa trong rộng, nhạy cảm với thị trường trong
nước và thị trường thế giới. Đó là những nhà khoa học giỏi về lý luận và thực
tiễn, về khoa học và hành động hiểu biết sâu sắc tình hình quốc tế và trong
nước, hết lòng vì sự nghiệp phát triển của đất nước và đội ngũ trí thức đóng
góp một phần cho việc đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho Việt
Nam.
Đội ngũ trí thức nói chung, và đội ngũ trí thức Việt Nam nói riêng đã góp
phần trong việc tăng thêm nguồn nhân lực dồi dào, tham gia cùng nhiều cơ
quan, lãnh đạo đề ra những đường lối phát triển đất nước phù hợp đóng góp
cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài

1.3 Thực trạng của đội ngũ trí thức trước năm 1986
Dưới chế độ phong kiến, thực dân, trí thức chưa hình thành một tầng
lớp riêng, hoạt động sáng tạo của họ chưa trở thành một hoạt động riêng biệt
mà thường nảy sinh qua thực tiễn cuộc sống được đúc kết và truyền khẩu dân
gian, hoặc thông qua những hiện vật để lại qua các lễ hội... Trí thức thời kì
này họ đã hòa với tập thể nhân dân sáng tạo ra các giá trị về văn hóa, nghệ
thuật, khoa học và kĩ thuật. Dưới thời kì này trí thức Việt Nam bị phân hóa rõ
rệt, một bên là những quan lại, có chức, có quyền, có bỗng lộc do vua cấp, họ
có trách nhiệm cai quản dân và một bên là những nhà Nho sống trong làng,
trong xã cùng nhân dân, họ được nhân dân kính trọng vì họ biết chữ, nhưng
họ không có quyền hành.
Trong thời kì đấu tranh giải phóng đội ngũ trí thức cách mạng Việt
Nam sau khi được thành lập đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền đường
lối, xây dựng lực lượng, tổ chức quần chúng đấu tranh tiến tới giải phóng dân
tộc và họ đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền bá về nước, phong trào
yêu nước theo con đường cách mạng vô sản, họ đóng vai trò quan trọng trong
cách mạng thuộc địa. Những trí thức tiểu tư sản là những người có điều kiện
tiếp xúc với phong trào cách mạng quốc tế và hiểu biết phong trào ấy. Đồng
20


thời họ gần gũi công nông, cho nên chính họ là những người đưa quan điểm,
tư tưởng mới vào quần chúng. Trí thức tiểu tư sản có cảm tình dân tộc mạnh,
đồng thời họ là người có cảm giác nhạy cảm, nên khi phong trào cách mạng
đi lên, kẻ châm ngòi pháo đầu tiên thường là trí thức.
Đội ngũ trí thức cách mạng đầu tiên đã đóng góp phần quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước, hướng phong trào đi theo cách mạng vô sản. Trong quá trình
đấu tranh cách mạng đội ngũ trí thức đã hăng hái tham gia các phong trào
cách mạng do Đảng lãnh đạo, chuẩn bị lực lượng tiến tới tổng khởi nghĩa

giành chính quyền tháng 8 năm 1945 và tham gia đấu tranh trong hai cuộc
đấu tranh kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc mỹ xâm lược.
Như vậy, trước năm 1986 đội ngũ trí thức đã có những đóng góp quan
trọng : Phát triển nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng; đã có những
đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống đế
quốc xâm lược, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ trí thức
đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng những luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng
cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo ra những công trình có giá trị về tư
tưởng, nghệ thuật; Một số trí thức ở nước ngồi cũng ln hướng về dân tợc.
Nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động có hiệu quả trong các lĩnh vực
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, kinh tế, văn hoá, xã hội, góp
phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Bên cạnh đó vẫn còn nhiều yếu kém, hạn chế: Chất lượng chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức còn
những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính, phân bố trên các địa
bàn. Bộ phận tinh hoa, hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành thiếu, đội ngũ kế
cận hẫng hụt. Trong nước, chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh. Hoạt động

21


nghiên cứu khoa học thiếu gắn bó mật thiết và chưa đáp ứng được yêu cầu đa
dạng, phong phú của sản xuất, kinh doanh, đời sống.
Trình độ của đội ngũ trí thức trong nhiều cơ quan nghiên cứu, trường
đại học tụt hậu so với yêu cầu phát triển của đất nước và so với một số nước
tiên tiến trong khu vực, nhất là năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng
dụng cũng như khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ
thông tin.
Một bộ phận trí thức, kể cả những người có trình độ học vấn cao còn

thiếu tự tin, còn e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có
liên quan nhiều đến chính trị. Mợt sớ giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý
thức trách nhiệm và lòng tự trọng, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác...
Một bộ phận trí thức trẻ chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, thiếu ý chí phấn
đấu vươn lên về chuyên môn. Một bộ phận, do ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện
kém cộng với tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, những luận
điểm tuyên truyền, xuyên tạc và sự lôi kéo của các thế lực thù địch... đã có
những biểu hiện lệch lạc, sai trái về quan điểm, thiếu say mê, tâm huyết với
nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm công dân và xa rời lý tưởng của Đảng.
1.4

Đường lối của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời gian từ

1986 - 1996
Bước vào thời kỳ đổi mới, việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo nguồn lực con người
lao động có chất lượng cao, mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tồn
bợ chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Quán triệt sâu sắc yêu cầu
khách quan đó Đảng ta cũng đã đề ra những chủ trương, đường lối cụ thể về
xây dựng đội ngũ trí thức.
1.4.1 Đại hội VI (12- 1986)
Đại hội đại biểu tồn q́c lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15/12/1986
đến ngày 18/12/1986, được coi là một cái mốc lịch sử quan trọng trong sự
22


nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Việt Nam đã không thực
hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định
đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, lương thực và hàng hóa tiêu dùng
thiết yếu thiếu. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Khó

khăn đó là do nguyên nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là do duy
trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung, dẫn đến tình trạng ỉ lại. Thực trạng
đó đòi hỏi Đảng phải đổi mới, phải bố trí lại cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế
quản lý theo hướng xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Để đổi mới kinh tế thành cơng địi
hỏi phải có trình đợ trí tuệ để góp phần hoạch định chủ trương, đường lối
cũng như đưa ra các luận cứ khoa học, ứng dụng những thành tựu khoa học
vào phát triển sản xuất, đời sống. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã xác định
“khoa học - kỹ thuật là động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tếxã hợi; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng CNX ”.[12, Tr 78] Và Đại
hội cũng đã đưa ra chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới. Đại hội nêu rõ: “Đảng chủ trương mở rộng và
cũng cố các trường, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và trung học
chuyên nghiệp, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lí, nhanh chóng
hình thành đội ngũ cán bộ chuyên môn đầu ngành”[12, tr. 95]
Ở các trường đại học, cao đẳng có rất nhiều sinh viên sẽ là những trí
thức hùng mạnh, phát triển trong tương lai nếu như được tiếp thu những điều
kiện học tập trong một môi trường tốt thì sẽ đóng góp rất lớn cho sự phát triển
của nước nhà sau khi ra trường. Nên “phải thường xuyên bồi dưỡng phẩm
chất và năng lực cho cán bộ giáo dục và giáo viên, nâng cao vị trí xã hội,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của những người dạy học, có chính
sách học bổng hợp lí đối với sinh viên các trường đại học”[12, tr.96]. Nhận
thấy được điều đó, Đảng đã thể hiện được năng lực lãnh đạo và quản lí của

23


mình khi đề ra những chủ trương nhằm xây dựng và phát triển như trên tạo
được niềm tin trong nhân dân.
Cũng tại đại hội lần này Đảng ta chủ trương “ thực hiện các chính sách
khuyến khích, tạo điều kiện và giải quyết quyền lợi thích đáng để phát huy trí

tuệ và tài năng của đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật hiện có, được đào tạo từ
nhiều nguồn khác nhau, đều là những vốn quý, những trí thức xã hội chủ
nghĩa, làm cho chị em hứng thú đi về cơ sở sản xuất để thực hiện công việc
nghiên cứu của mình, khắc phục tình trạng cán bộ khoa học kĩ thuật tập trung
nhiều ở các cơ quan trung ương, thành phố, tỉnh trong khi ở cơ sở đang cần và
còn thiếu. Nghiên cứu ban hành các chính sách thực sự khuyến khích các sáng
kiến, sáng chế, động viên hơn nữa lao đợng sáng tạo”[12, tr.197]. Vì vậy, trí
ṭ của con người sẽ được phát huy mạnh mẽ khi mà được khuyến khích và
tạo điều kiện để phát triển.
“Phải bảo đảm quyền tự do, sáng tạo cho tầng lớp đội ngũ trí thức.
Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và
phát triển, phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày
nay là những lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh đạo,
ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân”.[12, tr.122]
Mỗi người đều có một quyền tự do riêng, nếu như mỗi cá nhân có điều
kiện để phát triển và bộc lộ tài năng của mình, và cá nhân ấy luôn thấy được
sự đảm bảo về quyền lợi, quyền tự do sáng tạo thì họ sẽ hăng say sáng tạo
đóng góp hơn; Có nhiều tổ chức, cơ quan có cái nhìn không tốt đối với những
cá nhân có cái tôi mạnh mẽ nên đòi hỏi phải phá bỏ những định kiến, quan
niệm hẹp hòi đó. Và thay vào đó là thái độ khuyến khích, ủng hộ để mỗi cá
nhân họ thể hiện tài năng, tính độc lập của mình. Còn đối với một số người
không thấy được vai trò, vị trí của tầng lớp trí thức thì phải có biện pháp phá
bỏ những cái nhìn còn lệch lạc về tầng lớp trí thức để tạo điều kiện cho họ
phát triển tốt khả năng sáng tạo của mình để đóng góp chung vào sự phát triển
24


đất nước. Và có thể nói tầng lớp trí thức luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các
giai cấp, tầng lớp khác như công nhân, nông dân... và họ cũng nhận được sự
lãnh đạo, giáo dục của Đảng nên họ luôn chấp hành những chủ trương, chính

sách, đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra và họ luôn là những người đi
trước trong sự phát triển chung ấy.
Qua đại hội VI đả thể hiện bước đầu sự đổi mới về tư duy của Đảng, đạt
được nhiều kết quả đáng kể. “Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có một số tiến bộ
trong việc xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp cũng như cơ cấu hệ
thống giáo dục”[12, tr.241] và “nội dung giáo dục phổ thông đã được đổi mới
một phần, quá trình đào tạo đại học và chuyên nghiệp được tổ chức lại và có
một số cải tiến. Nhờ có sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên, sự đầu tư của nhà
nước cùng với sự đóng góp của nhân dân, sự nghiệp giáo dục, đào tạo được
duy trì, có một số mặt được ổn định hoặc phát triển. Số học sinh, sinh viên
hiện nay của nước ta là 15 triệu người, chiếm gần 1/4 dân số”[12, tr.242]. Tuy
nhiên “nền giáo dục nước ta chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém, do trình độ
kinh tế, do thiếu sự quan tâm đúng mức ở tầm chỉ đạo chiến lược, đồng thời
do công tác quản lý của ngành giáo dục và đào tạo còn nhiều khuyết điểm.
Chất lượng giáo dục nhất là giáo dục tư tưởng còn yếu kém, chính sách đối
với giáo viên tuy có cải tiến nhưng chưa hấp dẫn thanh niên học giỏi vào
ngành sư phạm, đời sống của đa số các thầy, cô giáo còn quá thấp” và “Trình
đợ chun mơn của giáo viên chậm được nâng cao, việc đầu tư cho giáo dục
miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn quá ít ỏi, chậm sắp xếp lại các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và trường phổ thông” [12,
tr.242-243], “đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước ít được đào tạo, bồi dưỡng
về kiến thức, pháp luật và nghiệp vụ; thiếu kinh nghiệm về tổ chức và quản lý
nhà nước, nhất là khi chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý
mới về kinh tế, xã hội; hiệu suất lao động và công tác còn thấp”[12, tr.252]

25


×