Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận CÔNG tác tư TƯỞNG TRONG QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM THỜI kỳ KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ cứu nước bài học KINH NGHIỆM QUÝ báu TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.31 KB, 36 trang )

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC - BÀI
HỌC KINH NGHIỆM QUÝ BÁU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã kết thúc thắng
lợi vào mùa Xuân 1975 và “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người...” 1. Trong cuộc đấu tranh
kiên cường, bất khuất đó, những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người Việt nam
đã được phát huy và nhân lên, tạo thành sức mạnh và chiến thắng kẻ thù. Đó là
một sự kỳ diệu! Bởi vì đó là một cuộc đối đầu không cân sức: Một bên là đế
quốc Mỹ - tên sen đầm quốc tế, có tiềm lực về kinh tế, quốc phũng to lớn, cú
trang bị vũ khí tối tân, hiện đại, cịn một bên là dân tộc Việt nam vừa thoát ra
khỏi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, kinh tế chưa phát triển,
đời sống nhân dân cực khổ, vũ khí trang bị thơ sơ, thiếu thốn. Nhưng nhân dân
Việt nam với ý chớ quả cảm kiờn cường, dưới sự lónh đạo sáng suốt, tài tỡnh
của Đảng Cộng sản Việt nam và Chủ tịch Hồ Chớ Minh vĩ đại, đã không sợ Mỹ
và đã thắng Mỹ!
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp
của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn
gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đứng đầu là
chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đảng ta đã kết hợp nhuần nhuyễn và thành công
Đảng Cộng sản Việt nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 5-6.
1


2

chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và truyền thống tinh
hoa đánh giặc của dân tộc.Trên cơ sở đó, Đảng đề ra đường chính trị qn sự,


nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng, chỉ đạo tiến hành chiến tranh rất tài
tình, sắc bén. Đảng ln ln chăm lo xây dựng, rèn luyện quân đội ta về mọi
mặt, từ việc xác định mục tiêu chiến đấu, cơ cấu tổ chức, cơ chế lãnh đạo, chế độ
công tác Đảng, cơng tác chính trị đến thực hành nghệ thuật qn sự cách mạng...
Trong đó, Đảng ta ln quan tâm chỉ đạo tiến hành công tác tư tưởng - một mặt
của cơng tác Đảng, cơng tác chính trị, một yếu tố chiếm vị trí quan trọng hàng
đầu tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân Việt Nam. Ba mươi
năm qua, chúng ta đã có một thời gian để suy ngẫm, khẳng định một cách
khách quan, khoa học những giá trị đích thực mà cơng tác tư tưởng trong
quân đội tiến hành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại.
Đây là bài học quý báu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, là cơ sở để chúng ta nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tư tưởng, chống chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch
nếu chúng gây ra.
1.Công tác tư tưởng trong quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1954 -1975.
1.1.Tính chất, đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, cả nước ta chưa kịp
hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển đất nước thì
lại phải đương đầu với một cuộc chiến tranh mới chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Đó là một cuộc chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh xâm lược
thực dân mới của tên đế quốc đầu sỏ và bè lũ tay sai. Cuộc chiến tranh này
vừa mang tính chất giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc
để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước,
cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, cuộc chiến tranh mà đế


3

quốc Mỹ tiến hành khơng chỉ bó hẹp trên lãnh thổ Việt Nam, tiến hành

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khơng chỉ riêng của qn và dân Việt
Nam, mà cịn diễn ra cả với quân và dân hai nước Lào và Campuchia anh
em. Việt Nam khơng chỉ có trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc mình
mà cịn phải có trách nhiệm giúp đỡ, phối hợp, hiệp đồng trong mặt trận
chung chống đế quốc xâm lược. Vì vậy, cuộc chiến tranh của quân và dân
ta vừa là sứ mệnh vẻ vang của dân tộc, vừa là nghĩa vụ quốc tế cao cả. Do
đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta cịn mang tính
chất thời đại sâu sắc. Đồng thời nó cịn mang tính chất liên minh chiến đấu
với nhân dân Lào và Campuchia anh em.
Nghiên cứu tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho
phép ta khai thác, phát huy sức mạnh của toàn dân đánh giặc; sức mạnh
của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, sức mạnh của đấu tranh
quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, sức mạnh của liên minh đặc
biệt đồn kết gắn bó keo sơn giữa Việt Nam, Lào, Campuchia. Trên cơ sở
đó để xây dựng quyết tâm, lòng tin, dám đánh và quyết đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược của quân và dân ta trong suốt cuộc kháng chiến.
Nghiên cứu đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta
thấy nổi lên những đặc điểm chủ yếu chi phối suốt trong tiến trình chiến tranh.
Đó là, sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc nước ta
được hoàn toàn giải phóng, chế độ xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng
và ngày càng phát huy tính ưu việt của nó. Hệ thống chun chính vơ sản được
thiết lập và ngày càng củng cố. Con người mới xã hội chủ nghĩa với giá trị đạo
đức, văn hoá, lối sống xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng và hoàn
thiện. Trong khi đó, miền Nam cịn nằm dưới ách thống trị của thực dân, đế
quốc. Nhân dân miền Nam đã được rèn luyện qua kháng chiến chống Pháp,


4

kiên cường tiếp tục chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng miền

Nam, thống nhất đất nước. Trong điều kiện đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta là cuộc kháng chiến của cả nước, do một Đảng lãnh
đạo, một dân tộc, một quân đội tiến hành cùng một mục tiêu chung là bảo vệ
miền Bắc, giải phóng miền nam tiến tới thống nhất đất nước cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Về đặc điểm bối cảnh tình hình thế giới, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta diễn ra trong điều kiện có những thuận lợi lớn, đồng thời
có nhiều khó khăn phức tạp. Cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa khơng
ngừng lớn mạnh, nhất là Liên xơ đã có những bước tiến vượt bậc về vũ khí
chién lược, cịn đế quốc Mỹ thì đang bị sa lầy ở Việt nam. Phong trào giải
phóng dân tộc vì hồ bình dân chủ và tiến bộ xã hội dâng lên mạnh mẽ. Ba
dịng thác cách mạng thời đại ở thế tiến cơng liên tục. Tuy nhiên, trong phong
trào cộng sản quốc tế xuất hiện sự bất đồng, có khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa
dưới nhiều màu sắc. Bản thân cách mạng Trung quốc có nhiều vấn đề; Đại
cách mạng văn hố là một thảm hoạ không chỉ đối với nhân dân Trung quốc
mà còn ảnh hưởng đến sự giúp đỡ của Trung quốc đối với Việt nam. Do đánh
giá quá cao đế quốc Mỹ, sợ Mỹ nên phát sinh những quan điểm xét lại, chung
sống hồ bình bằng bất cứ giá nào, ngại chiến tranh giải phóng dân tộc lan
thành chiến tranh thế giới, chiến tranh hạt nhân. Tình hình đó gây khó khăn cho
ta trong việc xác định đường lối, tập hợp lực lượng và kìm hãm phong trào giải
phóng dân tộc.
Về tình hình địch, đế quốc Mỹ là một tên đế quốc đầu sỏ rất xảo
quyệt, hung ác và ngoan cố, chúng có tiềm lực kinh tế quân sự rất mạnh,


5

có mưu đồ bá chủ thế giới. Chúng đã kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm
lược nước ta bằng bằng tất cả những thủ đoạn thâm độc và nham hiểm.
Mỹ đã huy động gần 60 vạn quân viễn chinh Mỹ, sử dụng hầu hết các loại

vũ khí trang bị hiện đại (trong đó có cả vũ khí hố học - chất độc màu da
cam mà các nạn nhân hiện nay đang phải gánh chịu hậu quả rất nặng nề).
Chúng tiến hành cuộc chiến tranh “cục bộ” lớn nhất từ trước tới nay và mở
rộng chiến tranh ra toàn cõi Đơng Dương. Mỗi lần thay đổi chiến lược thì
âm mưu thủ đoạn lại thâm độc hơn, quy mô huy động vật chất, kỹ thuật
lớn hơn, hiện đại hơn và tính chất ác liệt hơn. Đồng thời chúng đã xây
dựng, tổ chức trang bị cho hơn một triệu quân nguỵ đến “tận răng, tận tuỷ”
và một hệ thống nguỵ quyền hoàn chỉnh từ trung ương đến bn ấp để kìm
kẹp nhân dân.
Quân đội ta từ sau kháng chiến chống Pháp từng bước phát triển mạnh
mẽ theo hướng chính quy, hiện đại. Về quy mơ và cơ cấu tổ chức có sự
phát triển, trang bị vũ khí được cải tiến, trình độ mọi mặt từng bước được
nâng lên rõ rệt, vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng. Trong chiến tranh
quân đội đã phát triển từ 17 vạn lên đến hơn một triệu quân gồm nhiều
quân binh chủng kỹ thuật, nhiều sư đoàn, quuân đoàn. Hệ thống tổ chức
lãnh đạo chỉ huy các cấp, các đơn vị ln được kiện tồn, củng cố, vừa
làm nhiệm vụ trọng đại của dân tộc, vừa làm nhiệm vụ quốc tế với hai dân
tộc Lào, Căm pu chia anh em. Về quy mô tác chiến, đã phát triển từ những
trận chiến đấu kết hợp tiến công tiêu diệt địch với sự nổi dậy của quần
chúng phá “ấp chiến lược”, đến các chiến dịch tổng hợp, tiến lên thực hiện
nhiều chiến dịch lớn hiệp đồng quân binh chủng, mà đỉnh cao là chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Những đặc điểm và tình hình nhiệm vụ trên đặt ra yêu cầu nhiệm vụ
mới rất nặng nề đối với cơng tác đảng, cơng tác chính trị nói chung, cơng


6

tác tư tưởng trong quân đội nói riêng. Đó cũng là cơ sở mới, đối tượng
mới để công tác tư tưởng phát huy sức mạnh chính trị tinh thần, sức mạnh

con người, tổ chức trang bị vũ khí kỹ thuật, tạo nên sức mạnh tổng hợp để
chiến đấu và chiến thắng. Trước hết công tác tư tưởng phải làm cho mọi
người nhận rõ và quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nhận thức rõ âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù, đề cao ý chí quyết tâm trong đánh giặc. Công tác
tư tưởng phải bám sát vào mọi nhiệm vụ quân đội , đi sâu vào đời sống
chiến đấu, công tác của bộ đội trong mọi hồn cảnh. kết hợp chặt chẽ giữa
cơng tác tư tưởng với cơng tác tổ chức, giữa giáo dục chính trị, tư tưởng
với bảo đảm các mặt công tác quuân sự, hậu cần, kỹ thuật nhằm xây dựng
cho cán bộ chiến sỹ có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, dám đánh và quyết
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
1.2. Công tác tư tưởng trong quân đội nhân dân Việt nam thời kỳ
kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954 - 1975).
Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành, có vai trị hết sức quan trọng
của cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong quân đội. Sự trưởng thành về mặt
chính trị, tư tưởng của cán bộ, chiến sỹ, trạng thái chính trị tinh thần và sức
mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, hiệu quả hoạt
động của công tác tư tưởng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua nhiều
giai đoạn với những nhiệm vụ chiến lược khác nhau. Công tác tư tưởng phải
bám sát vào sự lãnh đạo của Đảng, diễn biến chiến trường và thực tiễn chiến
đấu của bộ đội qua từng giai đoạn thì mới phát huy được hiệu lực trong nắm
bắt và giải quyết tư tưởng của bộ đội.


7

Từ năm 1954 đến năm 1959 là giai đoạn chuyển biến lớn của nhiệm
vụ cách mạng cả nước. Miền Bắc hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền nam còn dưới ách

thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ. Trải qua cuộc đấu tranh gian khổ,
quyết liệt, cách mạng Miền Nam khơng cịn con đường nào khác là phải
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Nghị quyết
Trung ương 15 (tháng 1/1959) đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Miền
Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến cơng.
Đối với lực lượng vũ trang, đây là thời kỳ phát triển mới sau nhiều
năm chiến đấu liên tục. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ
12 (3/1957) về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, lực lượng vũ
trang đã có bước phát triển mới, từng bước từ du kích tiến lên chính quy
hiện đại. Quân số chung tuy giảm nhưng chất lượng được nâng cao, giữ
được một khung cán bộ mạnh và có thêm các đơn vị quân binh chủng
mạnh. Sức chiến đấu được tăng cường một bước rõ rệt.
Dưới sự lãnh đạo của Quân uỷ Trung ương và sự chỉ đạo của tổng
cục chính trị, trong giai đoạn này công tác tư tưởng đã làm thấu suốt
các nghị quyết của Đảng về tình hình nhiệm vụ, về chủ trương chính
sách của Đảng trong giai đoạn mới, nâng cao giác ngộ xã hội chủ
nghĩa và ý chí chiến đấu, tình cảm Bắc- Nam ruột thịt cho cán bộ,
chiến sĩ. Công tác tư tưởng đặc biệt tập trung quán triệt đường lối
quan điểm của Đảng trong nhiệm vụ xây dựng quân đội tiến lên
chính quy hiện đại, giáo dục ý chí chiến đấu sẵn sàng giải phóng
miền Nam... Thơng qua các đợt sinh hoạt chính trị, giáo dục tư tưởng
liên tục àm cho bộ đội nhất trí, tin tưởng, đoàn kết xung quanh Ban


8

chấp hành Trung ương, nhận thức sâu sắc hơn âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù, tính chất cực kỳ phản động của chính quyền Ngơ Đình Diệm,
nhận rõ cuộc đấu tranh gian khổ, ác liệt của đồng bào miền Nam, từ
đó xác định trách nhiệm, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong giai

đoạn cách mạng mới. Đồng thời, công tác giáo dục đã làm cho toàn
quân nhận thức sâu sắc vị trí, nhiệm vụ của miền Bắc là căn cứ địa
của cả nước, trong bất kỳ tình huống nào miền Bắc cũng phải tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, công tác tư tưởng cũng phê phán và khắc
phục có hiệu quả những biểu hiện sai trái, thiếu cảnh giác cách mạng,
mơ hồ giai cấp, lỏng lẻo ý chí chiến đấu và tư tưởng cá nhân chủ
nghĩa.
Như vậy, công tác tư tưởng trong giai đoạn này đã có nhiều cố gắng đáp
ứng sự chuyển biến của giai đoạn cách mạng, bước phát triển mới của tình
hình và nhiệm vụ quân đội. Đã làm cho bộ đội nhận rõ kẻ thù dân tộc và kẻ
thù giai cấp, nâng cao ý chí chiến đấu và giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Sức chiến
đấu của quân đội được nâng lên rõ rệt về chất, những nguyên tắc cơ bản của
việc xây dựng quân đội cách mạng được giữ vững trong quá trình tiến lên
chính quy hiện đại.
Tuy nhiên, cơng tác tư tưởng còn hạn chế là việc giáo dục cho bộ đội
về nhiệm vụ cách mạng miền Nam chưa thật sâu sắc.
Từ năm 1960 đến năm 1964 là giai đoạn nửa nước có chiến tranh. Đế
quốc Mỹ thi hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” - cuộc chiến tranh
bằng quân đội ngụy tay sai với tiền của, vũ khí và sự chỉ huy của Mỹ định
đè bẹp và tiêu diệt cách mạng miền Nam. Cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh


9

quân sự và chính trị song song, đánh địch bằng ba mũi giáp công ở cả ba
vùng chiến lược, phát huy sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân ở
miền Nam để đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
và tay sai. Trước tình hình đó, Mỹ và tay sai lúng túng, bị động buộc phải
loại bỏ Diệm và mở rộng đánh phá bằng không qn và hải qn ra miền

Bắc hịng cứu vãn tình thế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III ( 9/1960) xác định đường lối nhiệm
vụ cách mạng cho cả nước và cho từng miền: Đẩy mạnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam. Và các nghị quyết tiếp sau đó xác định rõ tính chất
cuộc chiến tranh, định ra chủ trương và biện pháp đấu tranh để đạt mục
tiêu đề ra. Ngày 20 tháng 12 năm 1960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam ra đời vừa làm chức năng tập hợp lực lượng, vừa làm chức năng
chính quyền cách mạng quản lý, điều hành, cổ vũ nhân dân miền Nam
chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trong giai đoạn này, thực hiện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương và sự
chỉ đạo của Tổng cục Chính trị, công tác tư tưởng đã tiến hành liên tiếp
nhiều đợt học tập chính trị trong tồn qn nhằm qn triệt Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ III, các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương về xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, về cách mạng miền Nam và về đường
lối Quốc tế, Nghị quyết Quân uỷ Trung ương (11/1964) về đường lối
nhiệm vụ quân sự. Đồng thời tiếp tục giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin tại
trường, tại chức, với nội dung chương trình được hồn chỉnh thêm. Đội
ngũ giáo viên chính trị, cán bộ lý luận được kiện tồn, đảng viên, cấp uỷ
đều có chương trình học tập chính trị phù hợp.


10

Quán triệt đường lối quân sự của Đảng trong công tác huấn luyện và chiến
đấu với phương châm: “lấy giác ngộ chính trị làm cơ sở, lấy cơng tác huấn luyện
làm trung tâm, lấy chấp hành điều lệnh, chế độ làm khâu quan trọng, lấy sẵn
sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi làm mục đích”. Giáo dục, quán triệt tổ
chức cho bộ đội giữ nghiêm kỷ luật quần chúng, tăng cường đoàn kết quân dân
đập tan âm mưu chia rẽ của địch. Quán triệt và tổ chức thực hiện cuộc vận động

“xây dựng quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy hiện
đại” do Quân uỷ Trung ương đề ra ngày 01 tháng 11 năm 1962. Tiếp tục đẩy
mạnh phong trào thi đua “3 nhất” ( nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất) hướng vào
nội dung, yêu cầu của cuộc vận động, cổ vũ việc học tập đuổi kịp và vượt những
đơn vị tiên tiến toàn diện. Cùng toàn dân hưởng ứng phong trào thực hiện lời
dạy của Bác “thi đua làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”...
Thông qua hàng loạt các hoạt động thiết thực đó, cơng tác tư tưởng đã
góp phần nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý
chí chiến đấu, lịng căm thù giặc, phê phán tâm lý sợ Mỹ, mơ hồ ảo tưởng,
làm cho cán bộ, chiến sĩ hăng hái vượt Trường sơn vào chiến trường đánh
Mỹ. Từ năm 1961-1965 đã có khoảng 10.500 cán bộ, chiến sĩ vào Nam
đánh giặc.
Trên chiến trường miền Nam, trên cơ sở thấu suốt các nghị quyết của
Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị về tình hình nhiệm vụ cách
mạng miền Nam, cơng tác tư tưởng đã làm cho cán bộ, chiến sĩ nhất trí với
các chủ trương của Đảng, có quan điểm đúng về so sánh lực lượng giữa ta
và địch. Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công và phương thức tiến
hành chiến tranh cách mạng (hai lực lượng, ba vùng chiến lược, ba mũi


11

giáp cơng...), tích cực học tập kinh nghiệm và nhanh chóng làm quen với
chiến trường, khắc phục những tư tưởng hữu khuynh trong chiến đấu.
Đồng thời, công tác tư tưởng giai đoạn này cũng đã biểu dương, khích lệ
kịp thời thành tích trong chiến đấu. Ví dụ như sau chiến thắng Ấp Bắc
(1/1963) đánh dấu sự thất bại của chiến dịch “trực thăng vận”, “thiết xa
vận”, báo hiệu sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ. Phát huy thắng lợi trận Ấp Bắc, Trung ương Cục phát động trên
toàn chiến trường miền Nam phong trào thi đua “Ấp Bắc giết giặc lập

công”, khắc phục kịp thời tư tưởng “ngán”, “ngại’ máy bay lên thẳng, xe
bọc thép của địch, cổ vũ các đơn vị liên tiếp đánh bại các chiến thuật mới,
đập tan các chiến dịch bình định của địch.
Tuy nhiên, cơng tác tư tưởng giai đoạn này cũng cịn những khuyết
điểm như: có lúc chưa theo sát thực tế của chiến trường, việc tổng kết và
phổ biến kinh nghiệm làm chưa kịp thời, việc nghiên cứu về chủ nghĩa
thực dân mới và những âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “ chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam chưa sâu, chưa toàn diện nên việc chỉ đạo
về tư tưởng và quán triệt các quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng, đấu
tranh với các tư tưởng và nhận thức sai trái có mặt cịn hạn chế và chưa
kịp thời..
Sau khi bị thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đế quốc Mỹ
chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân viễn chinh vào
miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng khơng qn và hải qn ra
miền Bắc. Đó là thời kỳ từ năm 1965 đến năm 1968, là giai đoạn cả nước có
chiến tranh diễn ra vơ cùng ác liệt. Trước tình hình đó, tiếp theo Hội nghị
Qn uỷ Trung ương (2/1965), Hội nghị trung ương lần thứ 11 (3/1965), lần
thứ 12 (12/1965), “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh ngày 20/7/1965 và ngày 27/7/1966 đã nhận định đúng đắn, khoa


12

học so sánh lực lượng giữa ta và địch “Dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam
hàng chục vạn quân viễn chinh, so sánh lực lượng giữa ta và địch căn bản
khơng thay đổi, nhân dân ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động tấn
công trên chiến trường”. Đồng thời động viên quân và dân ta giữ vững chiến
lược tiến cơng, nêu cao ý chí tự lực tự cường, phát huy sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.

Công tác tư tưởng giai đoạn này tập trung học tập quán triệt sâu sắc
các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phát động cao trào chống Mỹ, dám đánh, quyết đánh, biết
đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược để bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam. Đồng thời đã tiến hành giáo dục và phát huy cao độ chủ nghĩa
anh hùng cách mạng của hàng nghìn tấm gương anh hùng, dũng sĩ, chiến
sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng, những người đã làm nên trận đầu thắng
Mỹ ở Vạn Tường, Bầu Bàng, Plây Me, đập tan hai cuộc phản công chiến
lược của địch vào mùa khô 1965-1966; 1966-1967 ở miền Nam cũng như
chiến công của quân và dân miền Bắc đánh thắng chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của Mỹ. Đặc biệt chủ nghĩa anh hùng cách
mạng thể hiện trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu
thân (1968), quân và dân ta đã giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan
trọng tạo bước ngoặt buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh; chấp nhận
ngồi vào bàn đàm phán.
Thông qua công tác giáo dục, tuyên truyền đã đẩy mạnh phong trào thi
đua “quyết tâm đánh thắng giặc mỹ xâm lược” của các lực lượng vũ trang,
phối hợp nhịp nhàng với các phong trào “ba sẵn sàng” của thanh niên, “ba
đảm đang” của phụ nữ... tất cả hợp thành khí thế “xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước”. Đó là những cuộc vận động chính trị rộng lớn và sâu sắc thúc


13

đẩy quân và dân cả hai miền phát huy cao độ lịng u nước, tình cảm
Bắc-Nam ruột thịt, lịng căm thù quân xâm lược và bè lũ tay sai, tạo nên
sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn để vượt qua mọi hy sinh gian khổ, khó
khăn, phát huy tinh thần sáng tạo trong chiến đấu làm nên những thành
tích kỳ diệu ở cả tiền tuyến và hậu phương.
Đối với bộ đội miền Bắc, công tác tư tưởng đã làm cho bộ đội nhận rõ

mục đích, âm mưu đánh phá miền Bắc của địch, tin vào khả năng bắn rơi
máy bay hiện đại bằng các loại vũ khí có trong tay. Xây dựng tinh thần
“nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “địch vào là biết, địch đến là diệt”, không
sợ phản lực “thần sấm, con ma”, từ già, trẻ, gái, trai ai cũng có thể bắn
được máy bay Mỹ. Phong trào thi đua bắn máy bay Mỹ sôi nổi khắp các
địa phương, đến cuối năm 1960 đã có 45 đơn vị, 43 cán bộ, chiến sĩ được
tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trước tình hình quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam, công tác tư tưởng
đề ra u cầu khơng để xảy ra tình trạng “bị chững lại về tinh thần, tư
tưởng”. Tập trung nỗ lực vào việc xây dựng quan điểm đúng đắn về so
sánh lực lượng địch ta, trên cơ sở đó xây dựng quyết tâm đánh thắng Mỹ,
đánh thắng ngay từ trận đầu, giữ vững và phát huy mạnh mẽ chiến lược
tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến và địch vận, vừa đánh vừa rút
kinh nghiệm tìm cách tiêu diệt gọn từng đơn vị bộ binh Mỹ. Quán triệt và
thực hiện chỉ thị của Trung ương cục “Kéo địch ra khỏi hang ổ mà đánh,
chen vào địch mà đánh, căng địch ra mà đánh, luồn sâu vào hậu phương
địch mà đánh”. Từng đơn vị thi đua giành danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”,
“Dũng sĩ diệt xe cơ giới”, “Dũng sĩ diệt máy bay”. Xuất hiện nhiều anh
hùng, chiến sĩ thi đua lập nhiều chiến công trong chiến đấu. Với nhiệm vụ
liên minh chiến đấu với lực lượng vũ trang nhân dân Lào anh em, công tác
tư tưởng đã làm thấu suốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nước


14

bạn tức là tự giúp mình”, xây dựng tinh thần quốc tế vơ sản chân chính,
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hồn thành nhiệm vụ.
Tuy nhiên, cơng tác tư tưởng trong Tổng tién công và nổi đậy Tết Mậu
Thân (1968) còn biểu hiện chuẩn bị tư tưởng một chiều, chỉ thấy khả năng
dứt điểm, thiếu chuẩn bị đối phó với tình huống khó khăn khi địch phản

cơng, nên khi cuộc chiến đấu diễn biến phức tạp, không thuận lợi, lực
lượng tổn thất, đã xuất hiện tư tưởng hữu khuynh, bi quan, dao động,
không thống nhất về đánh giá thắng lợi của ta, không tin vào thắng lợi
cuối cùng.
Từ năm 1969 đến năm 1972 là giai đoạn cuộc chiến tranh bước vào
thời kỳ ác liệt, khó khăn, phức tạp nhất. Đế quốc Mỹ thất bại nặng nề,
buộc phải xuống thang, phải chấm dứt không điều kịên việc ném bom phá
hoại miền Bắc, nhưng vẫn tiếp tục phản kích điên cuồng ở miền Nam, mở
rộng chiến tranh sang Lào và Cămpuchia, thực hiện chiến lược “Việt nam
hoá chiến tranh”, rút dần quân Mỹ ra nhưng đảm bảo để chính quyền Sài
gòn vẫn đứng vững, Việt nam vẫn bị chia cắt.Trong lúc cuộc chiến tranh
ác liệt như vậy, một tin đau xót đối với tồn Đảng, tồn qn, tồn dân ta
là ngày 2 tháng 9 năm 1969 Bác Hồ muôn vàn kính u của chúng ta đã
qua đời.
Trong tình hình đó, công tác tư tưởng đã tập trung củng cố quyết tâm,
kiên trì đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hồn toàn. Toàn quân tiến
hành đợt sinh hoạt học tập quán triệt các nghị quyết của Bộ Chính trị
(4/1969), Nghị quyết Trung ương 18 (1971), Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh ngày 20 tháng 7 năm 1969 và nghị quyết của Quân uỷ Trung
ương về tình hình nhiệm vụ, làm rõ thắng lợi tổng tiến công Tết Mậu Thân
là rất to lớn, làm cho ý chí xâm lược của Mỹ đã lung lay rõ rệt, thực lực
của Nguỵ đã giảm sút, đưa cách mạng miền Nam giành thắng lợi quyết


15

định. Đồng thời, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã mở đợt
sinh họat chính trị lớn trong Đảng, trong nhân dân và các lực lượng vũ
trang “Học tập và làm theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Qua đó đã
dấy lên phong trào hành động cách mạng lập công đền ơn Bác, tạo nên

được chuyển biến mới về nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sĩ.
Khẩu hiệu “Sống, chiến đấu và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại’ trở
thành mục tiêu phấn đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ, một phong trào sơi nổi
trong tồn qn.
Đối với nhiệm vụ đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ hai, đập tan
cuộc tập kích chiến lược bằng B.52 vào Thủ đô Hà Nội và Hải Phòng.
Tháng 10 năm 1972, Đảng uỷ Quân chủng Phòng không - Không quân ra
nghị quyết về tăng cường giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng làm cho
cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng nhận thức sâu sắc quyết tâm chiến lược
của Trung ương Đảng, kiên quyết khắc phục khó khăn, phát huy tinh thần
tập thể, sáng tạo, xây dựng quyết tâm bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay, kể cả
B.52, bắt sống giặc lái. Quân chủng mở hội nghị chuyên đề về công tác tư
tưởng, động viên cán bộ, chiến sĩ tích cực học tập rèn luyện, phát động
phong trào học tập khoa học kỹ thuật, khắc phục “nhiễu” và tìm cách đánh
tốt. Thơng qua đó cơng tác tư tưởng đã giải quyết tốt cả hai hiện tượng
không đúng: Một là, cho rằng chỉ có “nhiễu” về tư tưởng chứ khơng có
“nhiễu” về kỹ thuật, tức là chỉ giải quyết về tư tưởng chứ không đi vào
khoa học và kỹ thuật. Hai là, khơng tin vào vũ khí trang bị hiện có, cho
rằng khơng thể đánh được B.52. Kịp thời củng cố giữ vững niềm tin cho
bộ đội trong suốt q trình chiến đấu, tích cực di sâu một bước vào khoa
học kỹ thuật quân sự hiện đại, chịu khó tìm tịi sáng tạo, khắc phục
“nhiễu” và đã bắn rơi hàng nghìn máy bay địch, trong đó có nhiều máy
bay B.52.


16

Đối với các chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn và nhiệm vụ
phối hợp trên chiến trường Lào và Cămpuchia, công tác tư tưởng đã dựa
trên quyết tâm chiến lược của Đảng làm cho bộ đội có quan điểm toàn cục,

hiểu rõ thế, lực của ta và địch, ý nghĩa, mục đích, yêu cầu của chiến dịch.
Đồng thời công tác tư tưởng đã khắc phục những nhận thức, quan điểm
không đúng: Đánh giá địch quá cao, sợ ác liệt, làm cho mỗi người hiểu
được nhiệm vụ, vai trò, tác dụng của từng bộ phận, từng người trong việc
giành thắng lợi chung, khắc phục mọi khó khăn, khơng quản gian khổ, hy
sinh, đồn kết hiệp đồng, lập cơng tập thể, chấp hành nghiêm các quy định
về chính sách trong chiến đấu. Tuy nhiên, việc quán triệt các quan điểm tư
tưởng quân sự của Đảng trong việc vận dụng nghệ thuật qn sự, xử lý
tình huống cịn chưa nhạy bén. Việc phát huy dân chủ quân sự để góp phần
xây dựng chủ trương và cách đánh còn hạn chế. Khi Mỹ huy động ồ ạt
không quân và hải quân để cứu nguy cho qn ngụy, có chiến trường vẫn
khơng kịp thay đổi cách đánh. Khi cần thiết phải tổ chức chiến đấu phịng
ngự thì lúng túng, chưa phân biệt rõ tư tưởng chiến lược tiến công với
cách đánh cụ thể trong chiến dịch , chiến đấu.
Từ năm 1973 đến năm 1975 là giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh.
Thắng lợi oanh liệt của quân và dân ta đã buộc đế quốc Mỹ phải ký “Hiệp
định về chấm dứt chiến tranh ở Việt nam” (27-1-1973), đơn phương rút
quân về nước. Nhưng chúng vẫn ngoan cố duy trì nguỵ quyền, tăng thêm
vũ khí và trang bị cho nguỵ quân, âm mưu kéo dài chiến tranh, thực hiện
chế độ thực dân mới. Ta tuy thắng lợi nhưng địch chưa bị đánh bại hoàn
toàn, cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục. Song đây là thời cơ lớn, tương quan lực
lượng đã thay đổi căn bản rất có lợi cho ta, mặc dù qn nguỵ cịn đơng,
trang bị cịn mạnh.


17

Công tác tư tưởng trong giai đoạn này tập trung quán triệt Nghị quyết
21 Ban chấp hành Trung ương và các Nghị quyết Bộ chính trị, làm cho
tồn qn hiểu được “Con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo

lực cách mạng... Bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ,
giữ vững đường lối tiến công”2. Từ đó xây dựng tinh thần triệt để cách
mạng, nâng cao ý chí và sức mạnh chiến đấu tồn diện, kiên quyết giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cơng tác tư tưởng làm cho mọi
người hiểu được âm mưu của đế quốc Mỹ là không hề thay đổi, bản chất
của chính quyền nguỵ là phản cách mạng, phản dân tộc, khẳng định copn
đường tiến lên của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng.
Ta đấu tranh trên tất cả các mặt trận, lấy thắng lợi trên chiến trường quyết
định con đường chính trị, ngoại giao. Đồng thời với giáo dục xác định
quyết tâm, công tác tư tưởng đã phê phán và khắc phục có hiệu quả các
biểu hiện tiêu cực, mơ hồ về bản chất phản động của Mỹ-Nguỵ, ảo tưởng
dùng thương lượng hồ bình để giải quyết tình hình. Kịp thời phổ biến
kinh nghiệm của các đơn vị điển hình trong việc khắc phục những nhận
thức lệch lạc, hữu khuynh tiêu cực, nâng cao tinh thần chiến đấu, chủ động
tiến công địch giữ vững thành quả đã giành được (kinh nghiệm Quân khu
9).
Để thực hiện mục tiêu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”
công tác tư tưởng đã đi sâu quán triệt, động viên cán bộ, chiến sĩ đồn 559
vượt qua khó khăn gian khổ để đảm bảo vận chuyển người, cơ sở vật chất
đáp ứng cho các hướng của chiến trường. Mặt khác, Quân uỷ và Bộ tư
lệnh Miền đã mở cuộc vận động nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình dộ
sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, đặc biệt là bộ đội chủ lực, qua

2

Nghị quyết 21 Ban chấp hành TW (7/1973)


18


đó chất lượng chiến đấu của bộ đội được nâng lên đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới.
Trước những thắng lợi to lớn và dồn dập của cuộc tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân 1975 đã đẩy địch đến nguy cơ sụp đổ hồn tồn. Bộ
Chính trị thơng qua kế hoạch tiến cơng giải phóng Sài gịn-Gia định mang
tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cơng tác tư tưởng đã quán triệt cho cán bộ,
chiến sĩ trên các mặt trận nắm vững quyết tâm của Bộ Chính trị “Nắm
vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo,
tổng khởi nghĩa, bất ngờ, chắc thắng” và đề ra kế hoạch giải phóng miền
Nam trong thời gian sớm nhất, không thể để chậm sau tháng 4 năm 1975.
Trên cơ sở đó, Đảng uỷ các cấp đã lãnh đạo chặt chẽ công tác giáo dục,
làm rõ ý nghĩa to lớn của của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thấy rõ
những thuận lợi khó khăn, phát huy cao độ ý thức tổ chức kỷ luật, chấp
hành mệnh lệnh, các quy định hiệp đồng bảo đảm và các chính sách trong
chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Nhờ đó đã góp phần củng cố quyết tâm
chiến đấu cho bộ đội, tạo sự nhất trí cao với các chủ trương của Đảng và
cấp trên. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí chiến đấu cao, vượt
qua khó khăn gian khổ, chủ động, sáng tạo trong hành động, giành được
những thắng lợi quyết định, giải phóng hồn tồn miền Nam, thông nhất
Tổ quốc. Tuy nhiên, công tác tư tưởng của các đơn vị chưa giáo dục và
chuẩn bị chu đáo trong nhiệm vụ tiếp quản các thành phố, các cơ sở của
địch. Có nơi bng lỏng lãnh đạo, chỉ huy nên có những vụ vi phạm chiến
lợi phẩm. Ở một số nơi quan hệ giữa lực lượng vũ trang với các tổ chức
địa phương có phần lủng củng.
1.3. Những bài học kinh nghiệm khi tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.


19


Qua thực tiễn tiến hành công tác tư tưởng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, những thành công cũng như những tồn tại, khuyết
điểm đã rút ra được những bài học kinh nghiệm sau:
Một là, công tác tư tưởng tập trung quán triệt sâu sắc đường lối chính
trị của Đảng,. trên cơ sở đó xây dựng ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược cho cán bộ, chiến sĩ.
Có qn triệt tốt đường lối chính trị của Đảng mới có cơ sở để tiếp tục
tiếp thu đường lối quân sự, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, hướng
mọi hoạt động của các cấp, các đơn vị vào thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ được giao, tăng cường sự nhất trí về chính trị, củng cố vững chắc niềm
tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng
chiến.
Quán triệt đường lối chính trị của Đảng trước hết là quán triệt những
quan điểm tư tưởng, những nội dung cơ bản của đường lối, nhằm nâng cao
giác ngộ chính trị cho tồn qn. Đồng thời, với giáo dục, quán triệt đường
lối chính trị, phải giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin làm cơ sở để tiếp thu sâu sắc đường lối của Đảng. tiếp tục chủ
động đánh bại chiến tranh tâm lý của địch. Thực tế chứng minh rằng, nhờ có
trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin, đã làm cho cán bộ có khả năng vận dụng vào
việc xem xét, so sánh đúng đắn lực lượng địch, ta trên chiến trường, tuy có
lúc tình hình phức tạp, địch phản kích ác liệt, nhưng vẫn thấy được thế thắng,
thế đi lên của cuộc kháng chiến, giữ vững niềm tin, kiên trì quyết tâm chiến
đấu.
Hai là, công tác tư tưởng phải làm cho cán bộ nắm chắc tình hình
địch, phân tích rõ kẻ thù, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, ta.
“Biết địch, biết ta trăm trận không mguy”. Một thành công nổi bật về
chỉ đạo chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ , cứu nước là Đảng


20


ta đã chỉ ra rất sớm kẻ thù chủ yếu của nhân dân ta là đế quốc Mỹ. Làm
cho toàn qn nhận rõ kẻ thù, có lịng căm thù giặc sâu sắc, đánh giá đúng
so sánh lực lượng giữa ta và địch, thấu suốt quan điểm “Đế quốc Mỹ giàu
nhưng không mạnh”, làm rõ chỗ yếu cơ bản của Mỹ, xây dựng quyết tâm,
lòng tin dám đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ba là, quán triệt đường lối quân sự của Đảng, phát động quần chúng
sáng tạo cách đánh, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và phát triển lực lượng.
Đường lối quân sự là một bộ phận của đường lối cách mạng của Đảng,
gắn bó hữu cơ với đường lối chính trị. Đường lối chính trị, đường lối quân
sự của Đảng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng vũ trang. Vì
vậy, quán triệt đường lối quân sự của Đảng là một nhiệm vụ cơ bản của
cơng tác tư tưởng qn sự trong tồn qn, làm cho bộ đội nắm được mục
tiêu chiến lược, nhiệm vụ của qn đội, của từng chiến trường. Thơng qua
đó phát huy dân chủ quân sự, sáng tạo cách đánh. Vừa chiến đấu, vừa xây
dựng và phát triển lực lượng, vừa hồn thiện phương thức tác chiến.
Bốn là, cơng tác tư tưởng phải thường xuyên bám sát vào thực tiễn
chiến trường, vào cuộc sống hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “chính trị của các chú biểu hiện ra
trong lúc đánh giặc”. Mục đích của công tác tư tưởng là làm cho bộ đội
nắm vững được đường lối chính trị, quân sự của Đảng, đối tượng tác
chiến, nhiệm vụ quân đội, đặc điểm tình hình mọi mặt chi phối đến hoạt
động quân sự, từ đó xác định ý chí quyết tâm, khắc phục khó khăn hồn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Nếu khơng bám sát thực tiễn chiến trường,
vào đời sống thực tế của bộ đội thì cơng tác tư tưởng dễ bị “lạc hậu” với
sự phát triển của tình hình, tính thuyết phục hạn chế và hiệu quả của công
tác tư tưởng sẽ không cao.


21


Trải qua kinh nghiệm thực tiễn chiến đấu, công tác tư tưởng cần phải
bám sát vào mọi hoạt động của bộ đội trên chiến trường, qua các giai đoạn
chiến tranh, nhất là những bước ngoặt chuyển hướng giai đoạn để có thể
nắm bắt tình hình động viên tư tưởng kịp thời, tránh tư tưởng “tả”, “hữu”
khuynh trong nhận thức của cán bộ, chiến sĩ. Cơng tác tư tưởng cịn đi sâu
vào từng mặt công tác, đi vào hoạt động của các quân, binh chủng để có
nội dung sát thực, động viên bộ đội quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Năm là, phải kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng và công tác tổ
chức, phát huy đồng bộ sức mạnh của cả tư tưởng và tổ chức.
Công tác tư tưởng và công tác tổ chức là hai nội dung cơ bản của cơng
tác đảng, cơng tác chính trị. Hai mặt đó phải kết hợp chặt chẽ với nhau thì
mới phát huy được hiệu lực của công tác đảng, công tác chính trị. Tư
tưởng tốt đến đâu cũng khơng thay thế được tổ chức, cũng như tổ chức mà
khơng có tư tưởng tốt thì cũng khơng mạnh và khơng phát huy được hiệu
lực. Tư tưởng và tổ chức có kết hợp chặt chẽ với nhau mới thành sức
mạnh. Giải quyết thông suốt tư tưởng đi đôi với giải quyết về tổ chức, đó
là biện pháp làm cho q trình cơng tác tư tưởng và công tác tổ chức gắn
vào nhau.
Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã rút ra bài học
là khi tiến hành công tác tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ, đồng thời phải
kiện toàn tổ chức, biên chế, sắp xếp cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ,
có ưu tiên cho các trận đánh chính, mũi tiến cơng chính, vừa đánh giặc,
vừa củng cố tổ chức, lực lượng, chăm lo xây dựng tổ chức đảng, tổ chức
chỉ huy, tổ chức quần chúng trong sạch, vững mạnh, quan tâm đến đời
sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, giải quyết tốt chế độ chính
sách ngồi chiến trường và hậu phương qn đội. Có như vậy, mới tạo
thành sức mạnh tổng hợp, động viên được tinh thần bộ đội, xây dựng tổ



22

chức chặt chẽ, vững chắc là cơ sở xây dựng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược.
2. Vận dụng sáng tạo kinh nghiệm tiến hành công tác tư tưởng
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với sự nghiệp xây dựng quân
đội hiện nay.
2.1. Phương hướng, yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn hiện
nay.
Quân đội nhân dân Việt nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ
chức giáo dục và rèn luyện, trải qua thực tiễn của các cuộc chiến tranh đã
tôi luyện cho quân đội bản lĩnh kiên trung, lòng trung thành tuyệt đối, là
chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ngày nay bước
sang thời kỳ mới, toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là
thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta ở trong tình hình chủ nghĩa xã hội ở Liên
xô và Đông Âu sụp đổ, kẻ địch đang dùng chiến lược “Diễn biến hồ
bình” để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Bằng mọi thủ đoạn,
chúng đang thực hiện âm mưu “Phi chính trị hố quân đội”, nhằm tách
quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới vơ hiệu hố qn đội. Mặt
khác, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự quản lý của Nhà nước,
bên cạnh những mặt tích cực cịn có những mặt tiêu cực, đang hàng ngày,
hàng giờ tác động đến nhận thức tư tưởng, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội.



23

Đứng trước đặc điểm tình hình như vậy, nhiệm vụ của quân đội có
bước phát triển mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định
“Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội và nền văn hoá’ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc” 3. Nội
dung nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc rất rộng, ở mọi khía cạnh góc độ có bước
phát triển mới. Cái mới ở nội dung này là “bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc”. Bất cứ hành động nào đe doạ đến an ninh và lợi ích quốc gia, dân tộc
Việt nam đều bị chúng ta phản đối, đấu tranh chống lại, dù hành động đó
diễn ra bên trong hay bên ngoài lãnh thổ chúng ta. Trách nhiệm đối vơi
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là của toàn Đảng, toàn dân ta, của cả hệ thống
chính trị, trong đó qn đội là lực lượng nòng cốt.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, quân đội phải không ngừng nâng cao
sức mạnh chiến đấu tổng hợp, trong đó lấy xây dựng quân đội về chính trị làm
cơ sở. Về phương hướng xây dựng quân đội thời gian tới nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Xây dựng quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có trình độ văn hố, kiến thức ngày càng cao, quý trọng và hết lòng phục vụ
nhân dân, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, có phẩm
chất đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ
vang, có năng lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi trong bất kỳ tình huống nào; có
trình độ sẵn sàng chiến đấu, và sức chiến đấu ngày càng cao, kịp thời đập tan
mọi âm mưu và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và an
. Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia
Hà Nội, 2001, tr 39-40.
3



24

ninh quốc gia; ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội,
bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội.”4
Từ phương hướng xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, yêu cầu xây dựng quân đội trước hết phải làm cho mọi
cán bộ, chiến sĩ đều có sự thống nhất cao về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ;
thật sự tinh nhuệ về mặt chính trị, đủ sức đập tan mọi luận điệu tuyên
truyền phản động của kẻ thù nhằm thực hiện “Phi chính trị hố qn đội”.
Do đó, phải làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ không ngừng nâng cao nhận thức
về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường bản chất giai
cấp công nhân, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc,
củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng. Nhận thức rõ nhiệm vụ
chính trị trong thời kỳ mới, nhất là sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, làm
kinh tế-quốc phịng, giữ vững trật tự an tồn xã hội, phịng chống và khắc
phục hậu quả thiên tai, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng “Thế
trận lịng dân”, góp phần xây dựng nền quốc phịng tồn dân ngày càng
vững mạnh. Từng bước đổi mới, hiện đại hoá vũ khí trang bị kỹ thuật,
đồng thời nâng cao tri thức hiện đại cho cán bộ, chiến sĩ.
Tranh thủ thời cơ, tập trung huấn luyện tại đơn vị theo hướng cơ bản,
thiết thực, vững chắc, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát
thực tế chiến đấu, sát đối tượng tác chiến, sát yêu cầu nhiệm vụ, địa bàn
hoạt động của từng lực lượng, từng đơn vị, phù hợp với tổ chức, biên chế,
khả năng trang bị hiện nay và những năm tới, phù hợp với nghệ thuật quân
sự, kinh nghiệm chiến đấu và cách đánh truyền thống Việt nam. Huấn
luyện bộ đội tác chiến giỏi bằng vũ khí trong biên chế, cũng như khi được
tăng cường binh khí kỹ thuật, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng các
quy mô và ba thứ quân.

4

Sđd, tr 40-41.


25

Quân đội phải thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, dự kiến
chính xác các tình huống có thể xảy ra, tổ chức chỉ huy các lực lượng vũ
trang sẵn sàng đối phó, chủ động phối hợp với các lực lượng khác và nhân
dân đấu tranh để giành thắng lợi trong mọi tình huống.
2.2. Vận dụng sáng tạo kinh nghiệm tiến hành công tác tư tưởng trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nâng cao hiệu quả công tác tư
tưởng trong giai đoạn hiện nay.
Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những năm
qua công tác tư tưởng trong quân đội đã bám sát tình hình quốc tế, khu
vực và trong nước, đi sâu nghiên cứu diễn biến tình hình tư tưởng của cán
bộ, chiến sĩ, đề ra những chủ trương giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, xử lý kịp
thời, có hiệu quả những vấn đề đặt ra, tạo sự thống nhất cao về tư tưởng và
hành động, bảo đảm cho quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị đất nước,
ứng phó thắng lợi với mọi tình huống xảy ra. Các hoạt động của cơng tác
tư tưởng đều tập trung xây dựng cho mọi cán bộ, chién sĩ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định, mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa, có ý
chí vươn lên mạnh mẽ, có phẩm chất đạo đức lối sống trong sáng, có niềm
tin vững chắc vào thắng lợi của công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, thời gian qua cơng tác tư tưởng trong qn đội cịn có một
số mặt chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn đổi mới của đất nước, của
quân đội, của cuộc chiến tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng hiện nay.

Trình độ nhận thức, khả năng hoạt động thực tiễn của một số cán bộ, đảng
viên còn hạn chế, những băn khoăn, lúng túng trong tư tưởng, nhận thức
của bộ đội chưa được giải quyết triệt để, chưa thấy hết được tính chất gay
go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong thời kỳ


×