Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Lịch sử văn minh thế giới: Bài thuyết trình về 7 kì quan thế giới cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 50 trang )

BÀI THUYẾT TRÌNH
Chủ đề: 7 kì quan thế giới cổ đại
Môn học: Lịch sử văn minh thế giới

1


Lời nói đầu
Khi nói đến lịch sử, theo cách giải thích đơn giản nhất thì lịch sử là
những gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Theo cách hiểu
này thì lịch sử bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện nên khó có
thể xác định chính xác và đầy đủ định nghĩa. Vì thế mà đã có rất nhiều các
định nghĩa khác nhau được các nhà nghiên cứu đưa ra.
Định nghĩa ngắn gọn của Ts. Sue Peabody: “Lịch sử là một câu chuyện
chúng ta nói chúng ta là ai”.
Nhà bác học người La Mã Cicéron (106 – 45 TCN) đưa ra quan điểm
“historia magistra vitae” (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt
tới “lux veritatis” (ánh sáng và sự thật)
Và Gs Hà Văn Tấn có viết, lịch sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những
sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch
sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau.
Lịch sử văn minh thế giới là mơn học có nhiệm vụ cung cấp những
kiến thức cơ bản về quá trình ra đời và phát triển của các nền văn minh tiêu
biểu trong lịch sử lồi người. Cho chúng ta có cái nhìn tồn diện về những
nền văn minh lớn của nhân loại trong những buổi ban đầu. Để từ đó chúng ta
biết quý trọng và giữ gìn những sản phẩm mang giá trị vật chất và tinh thần
của văn minh nhân loại, hoàn thiện bản thân mỗi người theo đường lối phát
triển.
Chúng tôi thấy môn học này rất cần thiết và hữu ích cho sinh viên.
Xuất phát từ nhu cầu của mơn học, nhóm chúng tơi chọn đề tài “7 kì quan
thiên nhiên thế giới cổ đại” nhằm đi sâu vào tìm hiểu để có cái nhìn mới và


rõ hơn về các kì quan thiên nhiên thế giới cổ đại. Và sau hàng nghìn năm
lịch sử, bằng bàn tay và khối óc con người ta đã xây dựng được những kiệt
tác mà ngày nay chúng ta gọi là sản phẩm văn hóa.
Trong q trình thực hiện xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới
cô Lê Khánh Ly – Giảng viên bộ môn lịch sử văn minh thế giới trường Đại
học Văn Hóa Hà Nội đã giúp đỡ chúng tơi hồn thiện bài thuyết trình này.
Trong thời gian nghiên cứu, tìm tịi tài liệu và viết bài do nhận thức và
kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên chắc chắn bài thuyết trình khơng tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cơ và
bạn bè để bài thuyết trình được hồn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

2


Thay mặt nhóm 4
Nhóm trưởng
Nguyễn Thị Anh

Kỳ quan thế giới là những cơng trình nghệ thuật tuyệt vời từ bàn tay
tài hoa của con người. Với những vẻ đẹp khác biệt theo những lối kiến trúc
riêng, 7 kỳ quan thế giới cổ đại luôn khiến con người trầm trồ và thán phục.
Như chúng ta đã biết 7 kì quan thế giới cổ đại được thành lập và bầu
chọn vào khoảng thế kỉ thứ 2, theo thời gian chúng có hao mòn về mặt vật

3


chất, song giá trị nghệ thuật cũng như ý nghĩa lịch sử, giá trị tâm linh của nó
vẫn cịn ngun vẹn. Thế nhưng cũng theo dòng chảy của thời gian, vạn vật

sẽ không ngừng biến đổi, và sự ra đời của cái mới phủ định cái cũ đó là quy
luật phát triển khách quan của triết học biện chứng duy vật. Kim tự tháp
Giza là kỳ quan duy nhất trong bảy kỳ quan cổ đại cịn tồn tại đến hơm nay.
Kỳ quan biến mất sau cùng là hải đăng Alexandria. Chúng ta hãy nhìn lại
những kì quan thế giới xưa để hiểu hơn 1 chút về chúng, để cảm nhận sâu
sắc hơn về chúng.
Đây là 7 kì quan thiên nhiên cổ đại mà chúng tôi giới thiệu đến với
các bạn:
1) Kim tự tháp Giza
2) Đền thờ nữ thần Artemis
3) Lăng mộ vua Maussollos
4) Vườn treo Babylon
5) Tượng thần Zeus
6) Tượng khổng lồ của thần mặt trời Helios
7) Ngọn hải đăng Alexandria

4


Phần I: Kim tự tháp Khufu tại Giza
Khu lăng mộ Giza hay Giza Necropolis nằm tại cao nguyên Giza,
ngoại ô Cairo, Ai Cập. Khu lăng mộ cổ này nằm khoảng tám km bên trong
sa mạc từ thị trấn Giza cổ trên bờ sơng Nin, cách 20 km phía tây nam trung
tâm thành phố Cairo. Là một trong những cơng trình cổ nhất và duy nhất còn
tồn tại trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại.

Quang cảnh các Kim tự tháp Giza nhìn từ trên khơng

Khu lăng mộ Giza đã được Unesco cơng nhận là di sản văn hóa thế
giới vào năm 1979. Hàng năm, khu lăng mộ Giza thu hút hàng trăm nghìn

du khách đến tham quan nét kiến trúc Ai Cậpcổ độc đáo và hàng loạt phế
tích có giá trị trong khuôn viên này.
Khu lăng mộ Giza là nơi tập trung các cơng trình kim tự tháp vĩ đại –
biểu tượng của nền văn hóa Ai Cập cổ xưa rất độc đáo và giá trị. Nơi đây có
3 kim tự tháp lớn là Khufu, Khafre và Menkaure, hiện nay duy nhất chỉ có
kim tự tháp Khafre vẫn cịn giữ được một phần kiến trúc bên ngoài và trên
đỉnh, mặc dù đã bị mai một đi khá nhiều, nhưng những cơng trình này vẫn
5


khiến du khách chống ngợp bởi kích thước khổng lồ đáng ngạc nhiên của
các kim tự tháp.

I.

Vài nét về kim tự tháp Ai Cập

Kim tự tháp Ai Cập là các cơng trình cổ đại hình chóp bằng đá ở Ai
Cập Có tất cả 138 kim tự tháp đã được khám phá ở Ai Cập tính đến năm
2008. Hầu hết đóng vai trị là lăng mộ cho cácPharaon và hồng hậu trong
hai thời kỳ Cổ vương quốc và Trung vương quốc. Những kim tự tháp Ai Cập
đầu tiên được biết đến nằm ở Saqqara, phía tây bắc Memphis. Trong số
đó, Kim tự tháp Djoser là lâu đời nhất, được xây dựng vào khoảng từ năm
2630 đến năm 2611 trước công nguyên ở Vương triều thứ ba. Kim tự tháp
này cũng như khu phức hợp xung quanh do kiến trúc sư Imhotep thiết kế, và
được xem là những cơng trình bằng đá nguyên khối cổ nhất thế giới. Số
lượng nhân công để xây các kim tự tháp được ước tính vào khoảng từ vài
nghìn, 20 nghìn cho tới 100 nghìn người.

Kim tự tháp Ai Cập


Những kim tự tháp Ai Cập nổi tiếng nhất nằm ở Giza, ngoại ô Cairo.
Một số kim tự tháp Giza được xem là nằm trong số những công trình vĩ đại

6


nhất từng được xây. Kim tự tháp Khufu tại Giza là kim tự tháp Ai Cập lớn
nhất và là kỳ quan thế giới cổ đại duy nhất cịn tồn tại
• Ý nghĩa tượng trưng của kim tự tháp Ai Cập
Hình dạng của kim tự tháp Ai Cập được cho là tượng trưng cho mô
đất nguyên thủy mà người Ai Cập tin là từ đó Trái Đất được tạo ra, cũng như
những tia nắng mặt trời chiếu xuống. Bề mặt của hầu hết các kim tự pháp
được lát bằng đá vôi trắng đánh bóng để tạo nên một vẻ ngồi lộng lẫy khi
quan sát từ xa. Tên của các kim tự tháp cũng có liên hệ tới ánh sáng mặt trời.
Chẳng hạn như Kim tự tháp Cong tại Dahshur có tên là Kim tự tháp Tỏa
sáng ở phía Nam, cịn kim tự tháp Senwosret ở el-Lahun có tên là Senwosret
đang Tỏa sáng.
Mặc dù kim tự tháp được công nhận là các cơng trình mai táng, có
nhiều ý kiến bất đồng về những nguyên lý thần học cụ thể đã dẫn đến việc
xây dựng chúng. Một giả thuyết cho rằng chúng được thiết kể như một "cỗ
máy hồi sinh."
Người Ai Cập tin rằng vùng tối trên bầu trời về đêm, nơi tất cả các
ngơi sao có vẻ như đều xoay quanh, chính là cánh cổng lên thiên đường. Một
trong những lối đi hẹp bắt nguồn từ buồng mai táng hướng thẳng tới trung
tâm vùng tối này. Điều này cho thấy kim tự tháp có thể đã được thiết kế để
đưa linh hồn vị pharaon đã mất lên nơi ở của các vị thần.
Tất cả các kim tự tháp Ai Cập đều được xây trên tả ngạn sông Nile,
nơi mặt trời lặn và được xem là có liên quan tới thế giới của người chết
trong thần thoại Ai Cập


7


II.

Lịch sử kim tự tháp Giza

Theo các nghiên cứu khoa hoc, các kim tự tháp này được xây trong
khoảng 20 năm từ năm 2560 TCN vào khoảng thế kỉ 26 trước Công nguyên,
là một tổng thể gồm 3 kim tự tháp với chiều cao đỉnh kim tự tháp cao nhất là
145,75 m. Kim tự tháp Cheops trong quần thể kim tự tháp Giza, do một
Pharaoh Vương triều thứ tư (tên là Khufu) xây dựng để làm mộ cho mình, đã
huy động hơn 100.000 người lao động trong 30 năm, sử dụng hơn 230 vạn
phiến đá nặng 6 tấn. Nếu ngày nay dùng xe lửa chuyên chở thì cần đến 60
vạn toa xe. Kim tự tháp Khufu được xây dựng để làm lăng mộ cho Pharaoh
Khufu, người trị vì Triều Đại thứ 4 của Ai Cập cổ đại, Kim tự tháp Khufu
hay cịn gọi là Đại Kim Tự Tháp là cơng trình xưa nhất và lớn nhất trong số
ba kim tự tháp ở vùng Giza, Cairo, Ai Cập.

Một trong 3 kim tự tháp nổi bật, lớn nhất tại đây là kim tự tháp Khufu - nơi yên
nghỉ của pharaoh Ai Cập Khufu của vương triều thứ 4.

8


III. Kiến trúc kim tự tháp Giza

Sơ đồ các Kim tự tháp Giza
Khi xây dựng, Đại kim tự tháp cao 280 cubit hoàng gia Ai Cập (146,5 mét hay 481 ft),

nhưng vì bị ăn mịn và bị mất trộm phiến đá trên đỉnh (chóp tháp) chiều cao hiện tại là
455,21 ft, tương đương 138,75 m. Như đã được chứng minh trong nhiều văn tự trên giấy cói
mỗi cạnh đáy thời xưa dài 440 (20,63 inch) cubit hồng gia. Vì thế, cạnh đáy nguyên thủy
dài 231 m mỗi phía và chiếm khoảng diện tích xấp xỉ 53.000 mét vng với góc 51,7 độ—
gần mức lý tưởng cho một kết cấu kim tự tháp ổn định. Ngày nay mỗi cạnh dài khoảng
230,36 mét. Kích thước giảm và vẻ ngồi thơ hiện nay vì nó đã mất những tấm đá bóng ốp
bên ngồi, một số tấm có kích thước lên tới hai mét rưỡi chiều dày và nặng hơn 15 tấn. Độ
nghiêng của các mặt bên Kim tự tháp vào khoảng 51,5 độ. Chiều cao của mặt nghiêng là 195 m. Bốn mặt
của Kim tự tháp nhìn về 4 hướng: chính bắc, chính nam, chính đơng và chính tây. Kim tự tháp của vua
Chephren nằm phía sau kim tự tháp của Khufu và phía trước là kim tự tháp của Mycerinus

Trong thế kỷ 14 (năm 1301), một trận động đất lớn đã làm nhiều tấm đá ốp ngồi rơi
ra, sau đó chúng bị Vua Hồi giáo Bahri An-Nasir Nasir-ad-Din al-Hasan mang đi năm 1356
để xây dựng các đền thờ Hồi giáo và các pháo đài tại Cairo gần đó; tới ngày nay, vẫn có thể

9


thấy các tấm đá đó tại các cơng trình đó. Những nhà thám hiểm sau này đã thông báo về
nhiều đống vật liệu vụn nát ở đáy các kim tự tháp hậu quả của sự sụp đổ tấm ốp sau đó và
cuối cùng chúng đã bị dọn dẹp cho các cuộc khai quật. Tuy vậy, hiện nay ta vẫn thấy nhiều
tấm đá ốp quanh đáy Đại kim tự tháp cho thấy tài nghệ xây dựng và ở đúng vị trí như đã
được miêu tả trong hàng thế kỷ trước đó.
Những đo đạc kim tự tháp chính xác đầu tiên được Sir Flinders Petrie tiến hành năm
1880–82 và xuất bản trong cuốn Các kim tự tháp và các đền Gizeh. Hầu như tất cả các báo
cáo đều dựa trên những con số này. Petrie khám phá rằng kim tự tháp được định hướng 4'
Tây bắc và kim tự tháp thứ hai cũng được định hướng tương tự. Petrie cũng khám phá ra
sự định hướng khác biệt giữa lõi và vỏ ngoài (– 5'16" ± 10"). Petrie cho rằng việc tái xác định
phương bắc đã được tiến hành sau khi hoàn thành phần lõi và bị lỗi, vì thế vỏ ngồi được
xây theo hướng khác. Sự lệch hướng bắc này của lõi, tương đương với vị trí của các sao bUrsae Minoris và z-Ursae Majoris khoảng 3.000 năm trước, đã tính đến sự tiến động của

trục Trái Đất. Một cuộc nghiên cứu do nhà Ai Cập học Kate Spence tiến hành cho thấy
những sự thay đổi về hướng của 8 kim tự tháp tương đương với những sự thay đổi vị trí của
các ngơi sao đó theo thời gian. Điều này giúp xác định niên đại bắt đầu xây dựng kim tự
tháp là năm 2467 TCN.
Trong bốn thiên niên kỷ đây là cơng trình cao nhất thế giới, và tiếp tục giữ vị trí này
cho tới khi tháp Thánh đường Lincoln cao 160 mét được hồn thành năm 1300. Độ chính
xác trong xây dựng của kim tự tháp đạt tới mức bốn cạnh đáy có độ lệch trung bình chỉ là
50 mm chiều dài, và 12 giây góc so với một hình vng chuẩn. Các cạnh hình vng gần
thẳng hàng với bốn điểm la bàn thứ tự tới trong 3 phút cung và dựa trên cực bắc thực chứ
không phải cực bắc từ.
Kim tự tháp được xây dựng bằng những khối đá vôi, bazan hay hoa cương đã được
đẽo gọt. Lõi được làm phần lớn bằng những khói đá vơi thơ chất lượng thấp khai thác từ mỏ
phía nam kim tự tháp Kheops. Những khối đá này nặng trung bình từ hai tới bốn tấn. Ước
tính 2,4 triệu khối đã được sử dụng cho cơng trình. Các khối đá vơi chất lượng cao được sử
dụng làm tấp ốp ngoài, một số khối có trọng lượng tới 15 tấn. Đá vơi được lấy từ Tura,
khoảng 8 dặm từ phía bên kia sơng Nil. Mỏ đá hoa cương có khoảng cách gần 500 dặm tại
Aswan với những khối nặng tới 60-80 tấn, được sử dụng cho các cánh cổng và các căn
phòng.
Tổng khối lượng kim tự tháp được ước tính khoảng 5,9 triệu tấn với thể tích (gồm cả
một đồi nhỏ bên trong) khoảng 2.600.000 mét khối. Kim tự tháp là cơng trình lớn nhất Ai Cập
và cao nhất thế giới (một kết cấu mới được khám phá ở Bosna có thể cao hơn). Chỉ Đại kim
tự tháp Cholula tại Puebla, Mexico có trọng lượng nhỏ hơn, nhưng có thể tích lớn hơn.

10


Khi hoàn thành, Đại kim tự tháp được ốp ngoài bởi các phiến 'đá ốp' trắng– nghiêng,
nhưng có đỉnh phẳng, được mài rất trắng. Nhờ vậy cơng trình tỏa sáng rực rỡ dưới ánh mặt
trời và thậm chí cả trong đêm với ánh trăng mọi người cũng quan sát thấy nó từ các ngọn
núi phía nam Ai Cập, với khoảng cách 200 dặm (300 km). Hiển nhiên ngày nay mọi thứ còn

lại chỉ là lõi kim tự tháp kiểu bậc thang, nhưng nhiều phiến đá ốp vẫn có thể được thấy xung
quanh đáy. Các phiến đá ốp Đại kim tự tháp và Kim tự tháp Khafre (được xây dựng ngay
bên cạnh) được cắt chính xác tới mức trên tồn bộ diện tích bề mặt chúng chỉ lệch khỏi mặt
phẳng thực 1/50 inch. Chúng được gắn vào nhau hoàn hảo tới mức tới tận ngày nay ta cũng
không thể nhét được một mũi dao vào giữa khe nối.
Đại kim tự tháp có cách bố trí bên trong khác với các kim tự tháp khác trong vùng.
Số lượng đường đi và phòng lớn nhất, các chi tiết được hoàn thiện tinh vi, độ chính xác
trong xây dựng đều là những điểm phân biệt giữa chúng. Các bức tường trong toàn bộ kim
tự tháp đều trơn và khơng được khắc chữ, nhưng có những câu khắc — hay nói chính xác
hơn là chữ viết trên tường — được cho là do các công nhân viết lên các phiến đá trước khi
chúng được ráp với nhau. Tất cả năm phòng phụ (relieving chamber) đều có khắc chữ.
Đoạn nổi tiếng nhất là đoạn nhắc tới tên Kheops; viết "năm 17 triều Kheops". Dù một số học
giả lại đưa ra ý kiến khác, bởi khi xét đến vị trí tạm thời của nó thì khó có thể tin rằng nó đã
được khắc sau khi xây dựng; thậm chí Graham Hancock đã chấp nhận điều này, sau khi
Tiến sĩ Hawass cho phép ông nghiên cứu đoạn văn. Một đoạn khác nói về "những người
bạn của Kheops", và có thể từng là tên của một trong những tốn thợ. Dù nó khơng phải là
một bằng chứng khơng thể phủ nhận về việc Kheops là người đầu tiên ra lệnh xây dựng Đại
kim tự tháp, tuy nhiên nó thật sự xóa bỏ nghi vấn về việc ít nhất ơng có tham gia vào một số
cơng đoạn xây dựng (hay những cơng việc sửa chữa cơng trình sau này) trong thời cai trị
của mình.
Có ba phịng bên trong Đại kim tự tháp. Chúng đều được bố trí ở vị trí trung tâm,
trên trục đứng của kim tự tháp. Phòng thấp nhất ("phịng chưa hồn thiện") được đục vào đá
xây kim tự tháp. Phịng này là phịng lớn nhất, nhưng hồn tồn chưa hồn thành, chỉ mới
được đục thơ vào đá.
Phịng giữa, hay Phịng Nữ hồng, là phịng nhỏ nhất, có kích thước khoảng 5,74 ×
5,23 mét, và cao 4,57 m. Bức tường phía đơng phịng có một ơ cửa góc hay hốc tường lớn,
và hai ống thông hơi hẹp, chỉ rộng khoảng 20 cm, kéo dài từ phòng này đến bề mặt ngoài
kim tự tháp, nhưng bị các "cánh cửa" đá vôi chặn ở nhiều đoạn. Nhà Ai Cập học Mark
Lehner tin rằng Phịng Nữ hồng được dự định dùng làm một serdab— một cấu trúc được
tìm thấy trong nhiều kim tự tháp Ai Cập khác— và rằng hốc tường có lẽ đã từng chứa một

pho tượng. Người Ai Cập cổ đại tin rằng tượng sẽ được dùng làm một con tàu "dự trữ"
cho Ka (linh hồn) của pharaoh, nếu xác ướp bị phá huỷ. Tuy vậy, mục đích thực sự của căn
phịng vẫn cịn là điều bí ẩn.

11


Ở cuối hoàng loạt những lối dài dẫn vào trong kim tự tháp là cấu trúc của phịng
chính Phịng Hồng đế. Phịng này ban đầu có kích thước 10 × 20 × 5V5 cubit, hay khoảng
17 × 34 × 19 ft, gần kiểu hình khối kép.
Các đặc điểm chính khác của Đại kim tự tháp gồm Phòng trưng bày lớn, quan tài
được tìm thấy trong Phịng Hồng đế, cả các lối lên và lối xuống, và phần thấp nhất của
"phòng chưa hồn thiện" bên trên.
Phịng trưng bày lớn (49 × 3 × 11 m) có đặc điểm ở thiết kế kiểu tay đòn đỡ khéo léo
và nhiều "khoảng trống" được đặt cách quãng đều dọc theo chiều dài mỗi phía đáy với một
"rãnh" chạy dọc chiều dài sàn phòng. Những khoảng trống này được dùng làm gì hiện vẫn là
điều bí ẩn. Kim tự tháp Đỏ tại Dashur cũng có các phòng trưng bày lớn và thiết kế tương tự.
Quan tài trong phịng Hồng đế được kht trong một phiến đá granit Aswan đỏ và
quá lớn để được mang vào qua đường đi bên trong. Quan tài có được dự định đựng xác
hay không vẫn là điều chưa được biết, nhưng nó quá ngắn đề đặt một người có tầm vóc
trung bình vào trong mà khơng gập cong chân lại (một kỹ thuật không được áp dụng trong
nghi lễ tang Ai Cập) và nắp của nó cũng khơng được tìm thấy.
"Phịng chưa hồn thiện" nằm 90 feet sâu dưới đất và cịn ở tình trạng thơ, thiếu tính
chính xác như các phịng khác. Phịng này khơng được các nhà Ai Cập học xem xét bởi vì
đơn giản đó chỉ là một sự thay đổi kế hoạch, những người thiết kế đã dự định dùng nó làm
phịng chơn cất nhưng sau này Vua Kheops đã thay đổi ý kiến và muốn được chơn trong
một phịng ở cao hơn. Nếu xét đến sự chính xác tuyệt đối trong việc lập kế hoạch cũng như
xét đến bất kỳ một giai đoạn xây dựng nào của Đại kim tự tháp thì kết luận này cũng là một
điều có vẻ khá đáng ngạc nhiên.
Hai nhà Ai Cập học không chuyên người Pháp, Gilles Dormion và Jean-Yves

Verd'hurt, vào tháng 8 năm 2004 đã tuyên bố rằng họ đã khám phá ra một phòng chưa từng
được biết tới trước đó dưới mặt đất Phịng nữ hồng bên trong kim tự tháp sau khi sử dụng
radar tìm kiếm và phân tích kiến trúc. Họ cho rằng phịng này vẫn chưa bị xâm phạm và có
thể đang chứa thi thể nhà vua. Họ cũng cho rằng Phịng Hồng đế, phòng thường được cho
là nơi yên nghỉ ban đầu của Kheops khơng phải được xây dựng với mục đích làm phịng
chơn cất.

12


Tìm thấy chữ tượng hình viết bằng mực đỏ trên tường của“Phịng
chưa hồn thiện" tại kim tự tháp Kheops. (Ảnh: Discovery)

13


Tượng Nhân Sư Sphinx

14


Phần II: Đền thờ nữ thần Artemis
15


“Nghệ thuật Hy Lạp và sự giàu có của châu Á đã kết hợp tạo dựng
nên một cơng trình kiến trúc thần thánh và nguy nga”.
Edward Gibbon (khoảng 1776)
Đền thờ nữ thần Artemis nằm trong số Bảy kỳ quan bởi tính tráng lệ
về kiến trúc và kích thước khác thường. Đền thờ nữ thần Artemis không

những là một trong số những ngơi đền Hy Lạp đồ sộ nhất, mà cịn là một
trong những cơng trình được xây dựng tồn bằng đá cẩm thạch lâu đời nhất.

Đền thờ Artemis

I.

Truyền thuyết về nữ thần Artemis

16


Trong 12 vị thần mà nhân dân Hy Lạp tôn thờ, mỗi vị thần đều có một
vẻ đẹp riêng, nhưng thầnArtemis là một nữ thần có một vị trí khá đặc biệt.
Nữ thần Artemis cũng tức là thần Diana theo tiếng gọi của người La Mã là
con gái của vị thần tối cao Zeus và nữ thần Leto, và là em song sinh của
thần Apolo.

Artemis – nữ thần săn bắn và là thần bảo hộ của các thiếu nữ.

Artemis là nữ thần trong trắng và tươi trẻ nhất vùng đất Olympus. Nữ
thần Artemis có biểu tượng là vầng trăng khuyết và cây nguyệt quế, xuất
hiện dưới hình ảnh một trinh nữ xinh đẹp mặc áo đi săn, mang cung bạc và
đeo ống tên vàng. Nàng bắn cung rất giỏi và là vị thần săn bắn, cứ mỗi
đêmArtemis lại vào rừng săn bắn, ln có một bầy các tiên nữ đi theo nàng
và họ chẳng bao giờ trở về tay không.

II.

Lịch sử và quá trình xây dựng đền Artemis

17


Đền thờ Artemis là đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, còn được gọi là
đền thờ Diana được xây dựng từ đá cẩm thạc bởi kiến trúc sư Chersiphron
và con là Metagenes. Đền được xây dựng để tôn vinh nữ thần săn bắn của
Hy Lạp. Ngày nay, cơng trình thuộc thành phố cổ Ephesus gần thị trấn
Selcuk, cách thành phố Izmir (Thổ Nhĩ Kỳ) 50km về phía Nam.
Đền được bắt đầu xây dựng từ năm 550 TCN. Trải qua quá trình dài
xây dựng và mở rộng, năm 430 TCN đền đã hoàn thành sau 120 năm. Lúc
đầu, người ta chỉ xây ở đây một đền thần rất nhỏ, đặt tượng thần trong một
thân cây rỗng. Nhưng cùng với sự hưng thịnh từng ngày của Ephesus, vào
khoảng năm 550 TCN, người ta đã xây dựng lại ngôi đền nguy nga tráng lệ
này với sự giúp đỡ tài chính của Croesus, một vị vua nổi tiếng giàu có thuộc
vương quốc Lydia lân cận.
Thế nhưng, vào năm 356 TCN (chính là năm mà Alexander Đại Đế
chào đời), cơng trình kiến trúc nguy nga này đã bị một kẻ điên cuồng phóng
hỏa thiêu hủy. Trong vòng vài thập niên sau, người ta dựng lại ngơi đền mới,
theo hình dáng của ngơi đền ban đầu. Ngơi đền mới trùng tu vẫn cịn tồn tại
dưới thời kỳ La Mã, khi ấy người La Mã đã ngạc nhiên trước kích thước và
việc xây dựng ngơi đền. Đặc biệt là vị trí cửa sổ ở giữa tạo ra một khoang hở
giúp những người viếng đền có thể nhìn thấy vị nữ thần Artemis trên nơi
thờ.
Cơng trình này do kiến trúc sư Chersiphron đảm nhận. Chắc chắn
những người thợ xây Hy Lạp đã sử dụng những kiểu "cần cẩu" thơ sơ mới
có thể xây dựng được cơng trình phức tạp này vì phần lớn các tảng đá trong
đền thờ nữ thần Artemis đều khá nặng. Ngoài việc đưa lên cao còn đòi hỏi
người thợ phải đặt những tảng đá này đúng vị trí của nó. Muốn thế ơng đã
xây dựng một đường dốc làm bằng các bao cát, cao hơn vị trí muốn lắp đặt
một ít. Khi kéo tảng đá lên đường dốc, người ta tháo phần đáy bao cát để cát

chảy ra sao cho mặt phẳng của đường dốc lún xuống dần sao cho đến khi
tảng đá được đặt đúng vị trí u cầu. Cơng trình đã buộc những người thợ
xây thể hiện khả năng cao nhất của mình.
Đá cẩm thạch dùng trong cơng trình được lấy từ mỏ đá cách đấy 11km
nên việc vận chuyển đi lại rất khó khăn, khoảng cách xa xơi đã gây rất nhiều
khó khăn cho việc vận chuyển những khối đá lớn hơn 40 tấn, đương nhiên là
xe bị khơng thể làm nhiệm vụ này. Chersiphron đã nghĩ ra một giải pháp đó
là: khối đá hình lăng trụ dùng để lắp cột được các chết ở tâm giữ cố định
trong một khung bằng gỗ sao cho chúng có thể quay vịng như một chiếc xe
18


lu khổng lồ chuyển động bằng sức kéo nhiều con bò. Ý tưởng này do con
trai của Chersiphron là Metagenes đề xuất, sao cho các tảng đá trang trí đầu
cột vng góc có thể di chuyển theo cách tương tự, mỗi đầu cột đều bọc
trong bánh xe bằng gỗ khổng lồ.

Phương pháp của Metagenes dùng để vận chuyển những tảng đá khổng lồ trang
trí đầu cột

Ngày nay, mặc dù đã được khôi phục nhưng đền Artemis cũng chỉ lưu
giữ được một phần kiến trúc nguy nga, đồ sộ xưa kia.

III. Kiến trúc Đền Artemis
Ngôi đền này là một trong Bảy kỳ quan tráng lệ nhất thế giới về nghệ
thuật kiến trúc cũng như kích thước khác thường. Cơng trình được xây dựng
hoàn toàn bằng đá cẩm thạch.
Đền thờ Hy Lạp cổ đại có đặc điểm là nhiều cột chạy vịng phía bên
ngồi, hay nói vui là "bị ám ảnh bởi các loại cột". Các loại hình đền đài này
có những dạng nhất định, tùy vào mức độ "dày đặc" của cột.

Ba mươi sáu cột nằm ở phía trước lối ra vào đều trang trí bằng các tác
phẩm chạm nổi, một đặc điểm khác thường đối với các ngôi đền Hy Lạp,
chính bản thân các cột đều chạm trổ từ 40 đến 48 đường rãnh máng khoét
sâu ở thân cột tạo nên những hình ảnh sinh động.

19


Cổng đền Artemis

20


Toàn cảnh đền Artemis với các cột chạm trổ

Ba cửa sổ lớn được trổ thẳng xuyên qua mái, cửa sổ ở giữa tạo ra một
khoang hở giúp những người viếng đền có thể nhìn thấy vị nữ thần Artemis
trên bàn thờ. Chính bàn thờ cũng là một cơng trình có dãy cột thật tráng lệ ở
bên phía, đặt ở phía trước ngơi đền. Đền ngun thuỷ có kích thước 55 x 110
m tính ở bậc thang phía trên, ba phía là một dãy cột gồm hai hàng bao
quanh, một chiếc cổng có mái che với hàng cột sâu phía trước lối ra vào.

21


Cận cảnh cột của đền Artemis

Khi ngôi đền được trùng tu vào thế kỷ 4 TCN, thì nền móng của một
số kiến trúc thượng tầng của ngôi đền nguyên thuỷ được tận dụng, nhưng
ngày nay chỉ cao khỏi mặt đất khoảng 2m, tấm móng được một hàng cầu

thang bao quanh. Quanh ngơi đền phía trên các cây cột, có một trụ ngạch,
trong khi các máng xối đều chạm hình đầu sư tử. Với khoảng cách giữa các
cột khơng có trụ đỡ thường vượt quá 6,5 m, bao gồm các tảng đá dài đến
8,75 m.
Bên trong đền thờ được trang trí bằng nhiều tượng đồng, trong đó nổi
tiếng nhất là 4 bức tượng đồng Amazon cổ. Các tác phẩm nghệ thuật điêu
khắc đỉnh cao này đều do những nghệ sỹ danh tiếng lúc bấy giờ sáng tạo nên
như: Pheidias, Polycleitus, Kresilas và Pheadmon. Ngồi ra, Artemis cịn
được trang trí bởi nhiều bức tượng mạ vàng và những tác phẩm hội họa nổi
tiếng khác.

22


Một số hình điêu khắc trong đền

Ngơi đền lớn nhất của thế giới cổ đại, Đền Artemis một lần đứng như
những thành tựu tuyệt vời nhất của nền văn minh Hy Lạp và văn hóa Hy
Lạp, được xây dựng như là một cống nạp cho Artemis – nữ thần Hy Lạp của
hunt, tình nhân của thiên nhiên, người bảo vệ loài thú hoang dã và em gái
của Apollo. Đền Artemis đã được đặt trong Ê-phê-sô (trong Thổ Nhĩ Kỳ hiện
đại ngày), nó đã trở thành cảng biển giàu có nhất ở Tiểu Á.
Ngày nay, đền Artemis là một trong những cơng trình kiến trúc cổ vĩ
đại nhất cịn sót lại. Mặc dù không giữ được trọn vẹn những nét đẹp xưa
nhưng Artemis vẫn thu hút hàng triệu du khách trên tồn thế giới mỗi năm.
Bởi khi đến đây, họ tìm lại được phần nào những tinh hoa kiến trúc của thời
kỳ xa xưa cịn sót lại.

Phần III: Lăng mộ vua Maussollos tại
Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic

Lăng mộ Maussollos, hay Lăng Halicarnassus là một lăng mộ được
xây dựng giai đoạn 353 TCB–350 TCN tại Halicarnassus (Bodrum, Thổ Nhĩ
Kỳ hiện nay). Ngơi mộ cổ khổng lồ với diện tích hơn 1.000 m2 do Hoàng
hậu Artimise xây dựng cho phu quân Mausolos - Vua xứ Caria. Nó nằm bên
23


bờ biển tây nam Thổ Nhĩ Kỳ và nhằm cất giữ những gì cịn lại của
Mausolus.

Lăng mộ Maussollos

Nó được hai kiến trúc sư Hy Lạp Satyrusvà Pythius thiết kế và mỗi
mặt đều được trang trí bởi một trong bốn nhà điêu khắc nổi tiếng HyLạp:
Bryaxis, Leochares,Scopas và Timotheus.
Ngôi mộ đồ sộ của ơng hồn tất sau khi ơng mất năm 353 TCN. Đây
đúng nghĩa là một cơng trình tưởng niệm, vượt xa tất cả các ngôi mộ khác
cùng thời về kích thước và tầm vóc: chiều cao gần 45 m, chiếm một diện
tích hơn 1.216 m2. Mặc dù hiện nay những gì cịn lại của ngơi mộ khơng
nhiều, nhưng người ta biết được ít nhiều về cơng trình này qua các ghi chép
lịch sử và khai quật khảo cổ.
Khi hoàn thành cơng trình được coi là một thành cơng lớn về nghệ thuật tới
mức Antipater đã coi nó là một trong bảy kỳ quan thế giới. Từ lăng
(mausoleum) từ đó được sử dụng chung với nghĩa là một ngôi mộ lớn, dù
nguyên nghĩa "Mausol–eum" là "để vinh danh Mausol".

24


I.


Cuộc đời của Mausolus và Artemisia

Năm 377 TCN, Halicarnassus là thủ đô của một vương quốc nhỏ dọc
theo bờ biển Địa trung Hải của Anatolia. Trong năm này, vị vua của vùng
đất, Hecatomnus xứ Mylasa, qua đời để lại quyền cai quản vương quốc cho
con trai là Mausolus. Hecatomnus, một vị phó vương của người Ba Tư, có
nhiều tham vọng và đã chiếm quyền kiểm soát nhiều thành phố cũng như
các tỉnh xung quanh. Ngồi Mausolus và Artemisia ơng cịn có nhiều con
khác: Ada (được chấp nhận là mẹ của Alexander Đại Đế), Idrieus,
và Pixodarus. Trong thời mình, Mausolus đã mở rộng lãnh thổ tới mức cuối
cùng nó bao gồm hầu hết phía tây nam Tiểu Á. Maussollos, với hồng
hậu và chị mình là Artemisia đã cai trị Halicarnassus và những lãnh thổ xung
quanh trong 24 năm. Dù có nguồn gốc địa phương, Maussollos nói tiếng Hy
Lạp và rất ngưỡng mộ phong cách sống cũng như cách thức tổ chức chính
phủ Hy Lạp. Ơng đã thành lập nhiều thành phố theo kiểu Hy Lạp dọc theo
bờ biển và khuyến khích các truyền thống dân chủ Hy Lạp.
Maussollos đã quyết định xây dựng một thủ đô mới, một thành phố
với hệ thống phịng thủ mạnh mẽ và tráng lệ. Ơng đã chọn thị trấn
Halicarnassus. Nếu chiến thuyền của Mausolus phong tỏa một con kênh nhỏ,
họ có thể buộc các tàu chiến địch khơng thể vào thành phố. Ơng đã bắt đầu
biến Halicarnassus trở thành thủ đơ cho một vị hồng tử chiến binh. Những
người thợ của ông đào sâu cảng của thành phố và sử dụng số cát lấy lên
được làm vũ khí bảo vệ phía trước kênh. Trên mặt đất, họ bố trí các quảng
trường có lát đá, các đường phố, và các ngơi nhà cho người dân, phía bên kia
cảng, họ xây một pháo đài-lâu đài lớn cho Mausolus, nó có vị trí tối ưu quan
sát được tồn bộ mặt biển và những quả đồi sâu trong đất liền - những nơi kẻ
địch dùng phát động tấn công. Những người thợ đã xây dựng những bức
tường và các tháp canh ở phía trong đất liền và xây một nhà hát kiểu Hy
Lạp và một đền thờ Ares, vị thần chiến tranh Hy Lạp. Mausolus và

Artemisia đã chi phần lớn số thuế thu được để trang hoàng thành phố. Họ
dựng những bức tượng, những đền, những tòa nhà bằng đá mable trắng. Ở
trung tâm thành phố, Mausolus dự định xây mộ cho ông sau khi qua đời.
Đây sẽ là nơi thể hiện sự giàu có của ơng và nữ hồng cho người đời sau.
Sau đó Mausolus qua đời năm 353 TCN để lại Artemisia với trái tim tan vỡ.
(Theo phong tục tại Caria các vị vua cai trị sẽ lấy chị/em gái của chính mình.
Một lý do của những cuộc hơn nhân đó là để giữ vững sự giàu có và quyền
lực của gia đình.) Như một cống vật dành cho ông, bà quyết định xây dựng
một lăng mộ tráng lệ nhất từng có trên thế giới. Nó trở thành một cơng trình
nổi tiếng đến mức tên của Mausolus ngày nay đã gắn liền với mọi lăng mộ
nguy nga trong thế giới hiện đại với từ mausoleum (lăng mộ - tiếng Anh).
25


×