Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Quan điểm đạo đức của khổng tử và bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên đại học quốc gia tp hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.65 KB, 42 trang )

ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “KHOA HỌC SINH VIÊN - EURÉKA”
LẦN 9 NĂM 2007
TÊN CƠNG TRÌNH:

QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ VÀ BÀI
HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN
ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
THUỘC NHĨM NGÀNH: KHOA HỌC XÃ HỘI

Mã số cơng trình: ...............................................


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “KHOA HỌC SINH VIÊN - EURÉKA”
LẦN 9 NĂM 2007

TÊN CƠNG TRÌNH:

QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ VÀ BÀI
HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN
ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY


THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn : PGS.TS. Trịnh Dỗn Chính
Nhóm Thực hiện : Pham Thị Dinh (CN)
Đinh Thị Thúy Hạnh
Đinh Thị Thu Hường
Trịnh Thị Nhung
Đỗ Thị Thanh Hương

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007


MỤC LỤC
Trang
TĨM TẮT CƠNG TRÌNH ....................................................................................4

PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................... 5
.......................................................................................................................
Chương 1. QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ .................................9
1.1. Cơ sở xã hội và tiền đề hình thành quan điểm đạo đức của Khổng Tử .9
1.1.1. Thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử...................................................9
1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm đạo đức của Khổng Tử....................12
1.2. Nội dung quan điểm đạo đức của Khổng Tử.........................................14
1.2.1. Đạo đức xã hội..............................................................................15
1.2.2. Đạo đức cá nhân ...........................................................................18
Chương 2. GIÁ TRỊ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC
CỦA KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN ĐẠI
HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ......................29
2.1. Đánh giá quan điểm đạo đức của Khổng Tử .........................................29
2.1.1. Về đạo đức xã hội .........................................................................29

2.1.2. Về đạo đức cá nhân.......................................................................30
2.2. Bài học lịch sử từ quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn
luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay ...........................................................................................................33
2.2.1. Khái niệm sinh viên và vị trí của sinh viên trong đời sống xã hội ...33

2.2.2. Ý nghĩa của quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc rèn
luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay ........................................................................ 35
KẾT LUẬN................................................................................................ 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 42


4

TĨM TẮT CƠNG TRÌNH

Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo cơng trình gồm có
những nội dung chính sau:
-

Cơng trình trình bày khái qt cơ sở xã hội và tiền đề hình thành quan điểm
đạo đức của Khổng Tử.

-

Cơng trình phân tích quan điểm đạo đức của Khổng Tử qua: đạo đức xã hội
và đạo đức cá nhân với các khái niệm và phạm trù đạo đức Nho học như:
chính danh, nhân, trí, dũng…


-

Cơng trình đánh giá quan điểm đạo đức của Khổng Tử. Từ đó nêu lên ý
nghĩa của những tư tưởng tiến bộ trong quan điểm đạo đức của Khổng Tử
đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.


5

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Người xưa có nói:
Có học mà khơng có đức là người ác
Có đức mà thiếu học là người quê.
Lời nói trên cho chúng ta thấy tác dụng của đạo đức trong sự học và đời sống của
con người thật không nhỏ.
Giữa cuộc sống của xã hội đầy phức tạp, việc trau dồi đạo đức là một cơng việc
khó khăn và tế nhị vơ cùng. Chúng ta khơng thể trau dồi đức tính tồn vẹn mà khơng
có đạo đức. Chính đạo đức làm thành mối quan yếu cho đời sống tinh thần của
chúng ta. Phải thẳng thắn nhìn nhận rằng trong hồn cảnh xã hội đời sống con người
có nhiều phức tạp. Những giá trị, những yếu tố đạo đức tích cực ngàn xưa phần nào
đã bị xói mịn vì thế việc huấn luyện và rèn người trở nên vô cùng cấp thiết cho đời
sống hiện nay.
Chúng ta có thể thiếu thốn tiền của nhưng là con người chúng ta không thể thiếu
thốn đạo đức.
Sống trong trường đời chúng ta phải chấp nhận hai mặt của đời sống vật chất và
tinh thần. Về tư tưởng chúng ta phải có những đức tính cần thiết của đạo đức để làm
sức mạnh vạn năng tạo cho mình một thế đứng, một vai trị cấp thiết trong lịch sử.

Để vũ trang tư tưởng và luân lý, thiết tưởng khơng có gì hữu ích hơn là tự trau
dồi lấy đạo đức cho bản thân. Muốn chiến thắng trên đường đời điều kiện tiên quyết
và cũng là điều kiện cuối cùng là chúng ta phải có tư tưởng đạo đức trọn vẹn, ý
nghĩa của cuộc đời có tồn vẹn hay khơng chính là ở đó. Tư tưởng “tồn chân, tồn
thiện, tồn mỹ” cũng phát sinh từ đó mà ra.
Chúng ta đã từng thấy biết bao người công danh lừng lẫy, sự nghiệp oai hùng
nhưng vẫn không tạo được sự kính phục chân thành của mọi người trong xã hội.
Tại sao?
- Chỉ vì những người ấy thiếu đạo đức
Ngược lại, cũng có những người khởi đầu sự nghiệp bằng con số không nhưng
chẳng bao lâu họ được mọi người khâm phục và kết quả sự nghiệp tinh thần cũng
như vật chất đã lưu lại cho người sau lịng kính nể nhiệt thành.
Vì sao?
-Vì họ có thừa đạo đức.
Sinh viên là một lực lượng trí thức của xã hội. Chính vì vậy, bên cạnh việc nâng
cao kiến thức, trình độ khoa học thì việc hồn thiện đạo đức cho đối tượng này là vô
cùng quan trọng đối với vận mệnh của đất nước.
Sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng đã được tiếp cận rất nhiều quan điểm đạo đức của các nhà tư tưởng


6

lớn ví dụ như: Quan điểm đạo đức của Phật giáo, quan điểm đạo đức của Khổng Tử,
quan điểm đạo đức của Lão Tử… Trong đó quan điểm đạo đức của Khổng Tử đã
được các bạn tiếp thu và học tập rất nhiều. Chính vì vậy, chúng tơi muốn nghiên cứu
đề tài này để được biết cụ thể những bài học lịch sử từ quan điểm đạo đức của
Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.


2. Tình hình nghiên cứu
Về tư tưởng và sự nghiệp của Khổng Tử, đến nay đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu, trên tất cả các mặt như triết lý, chính trị xã hội, giáo dục, … Tư tưởng
đạo đức của Khổng Tử cũng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vì
đây là vấn đề xun suốt trong tồn bộ hệ thống triết học của ơng. Trong đó phải kể
đến những tác phẩm: Đạo đức cổ nhân của Nguyễn Hữu Trọng, Nxb. Tổng hợp An
Giang, 1990; Đại cương triết học Trung Quốc của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê,
Nxb. Tp.HCM, 1992; Đại cương triết học phương Đông của Nguyễn Đăng Thục,
trung tâm học liệu Bộ giáo dục, Sài Gòn, 1972; Đạo đức học phương Đông cổ đại,
của tác giả Vũ Tình, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1998; Đại cương triết học Trung
Quốc của các tác giả Dỗn Chính, Trương Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ
Tình, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004.
Đề tài này cũng được nhiều tác giả nghiên cứu riêng qua các bài báo, đăng trên
các tạp chí khoa học như: “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu, “Đơi điều về vai trị
của Nho giáo” và “Truyền thống Nho học và xây dựng con người trong giai đoạn
mới” của Nguyễn Tài Thư, “Nho giáo của chúng ta hơm nay” của Phan Văn Các.
Về sinh viên thì kể từ năm 1980 trở lại đây có rất nhiều đề tài nghiên cứu với
quy mơ và góc độ khác nhau.
Năm 1984, Nguyễn Quốc Bảo và nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu đề tài
“Thái độ và tâm trạng của sinh viên Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh về
các vấn đề chính trị - xã hội và giáo dục”. Đề tài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi
sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và dừng lại ở việc tìm
hiểu thái độ và tâm trạng của sinh viên về các vấn đề: chính trị, xã hội, giáo dục. Đề
tài khơng giải quyết phần lí luận và cũng chưa nghiên cứu vấn đề định hướng giá trị
đạo đức trong sinh viên.
Năm 1994, Thành Đồn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh nghiên
cứu chuyên đề “Công tác sinh viên trong thời kỳ mới: giải pháp của Đồn nhìn từ
góc độ của Đồn Thanh niên Thành phố”. Trên cơ sở khảo sát 1.200 sinh viên của
12 trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đề tài đã nêu một
số nét cơ bản của sinh viên thành phố về nguồn gốc, thành phần xuất thân, thái độ,

tâm trạng ... và đã đề xuất nhiều giải pháp cho công tác giáo dục lý tưởng đạo đức,
lối sống cho sinh viên.
Năm 1995, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị
khoa học về đề tài “Tìm hiểu định hướng giá trị của sinh viên đại học Tổng hợp hiện


7

nay” công bố 14 báo cáo khoa học của các cán bộ giảng dạy, sinh viên khoa Triết
học về định hướng giá trị của sinh viên Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
trên một số lĩnh vực: cuộc sống, nghề nghiệp, giá trị đồng tiền... không giải quyết
phần lý luận và cũng không đi vào vấn đề đạo đức.
“Tổng thuật một số nghiên cứu tri thức và sinh viên Việt Nam” thuộc kết quả
nghiên cứu đề tài cấp nhà nước KX04 - 06 do GS. Phạm Tất Dong làm chủ biên,
trong phần “Phân tích đội ngũ trí thức theo giới tính, dân tộc, nơi cư trú” có mục về
tình hình sinh viên và có đề cập đến việc giáo dục đạo đức sinh viên.
Năm 1995, Viện nghiên cứu và phát triển giáo dục công bố kết quả của đề tài cấp
bộ “Nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện
pháp giáo dục lối sống cho sinh viên”. Đề tài đã nghiên cứu cơ bản những điều kiện
kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lý liên quan tới quá trình hình thành lối sống
trong sinh viên và trình bày những biểu hiện của lối sống sinh viên trong một số lĩnh
vực như học tập, sinh hoạt văn hóa, hoạt động xã hội...
Luận án PTS “Những yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến tư tưởng
chính trị của sinh viên, thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Đình Đức -1995 đã đề
xuất những giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho
sinh viên.
Các bài báo “Quan điểm của V.I. Lênin về giáo dục thanh niên sinh viên”
(Nguyễn thị Mỹ Trang - Nghiên cứu lý luận 9/1998), “Cơng tác giáo dục đạo đức
chính trị cho sinh viên” (Nguyễn Quốc Anh - Tạp chí Cộng sản 2/1997)... cũng đã
đề cập đến đời sống tinh thần của sinh viên ở nhiều góc độ khác nhau.

Nhìn chung, các sách, các cơng trình nghiên cứu, các bài báo cáo khoa học nói
trên đã đề cập những vấn đề liên quan đến quan điểm đạo đức của Khổng Tử, đạo
đức của sinh viên nhưng đề tài nghiên cứu về quan điểm đạo đức của Khổng Tử và
bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thì hầu như chưa có. Chính vì vậy nhóm chúng tơi
thực hiện nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, những cơng trình, bài viết trên thực sự là
những nguồn tài liệu bổ ích để chúng tơi tiếp thu, kế thừa.

3. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích của cơng trình là làm rõ quan điểm đạo đức của Khổng Tử. Trên cơ
sở đó đánh giá những hạn chế và giá trị tích cực trong quan điểm đạo đức của
Khổng Tử và tìm ra những bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo đức
sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên cơng trình có nhiệm vụ là:
Làm rõ quan điểm đạo đức của Khổng Tử.
Đánh giá những hạn chế và giá trị tích cực trong quan điểm đạo đức của Khổng
Tử
Tìm ra những bài học lịch sử từ quan điểm đạo đức của Khổng Tử đối với việc
rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


8

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đứng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phương pháp luận biện chứng đồng thời kết hợp hài hòa giữa các phương
pháp khác như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp điều tra xã hội học.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quan điểm đạo đức của Khổng Tử.
- Đề tài tìm ra một số yếu tố đạo đức cịn có những ý nghĩa tiến bộ trong quan
điểm đạo đức của Khổng Tử để sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
tiếp thu và học tập để hồn thiện nhân cách đúng với bản chất của một sinh viên.
- Đề tài là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến các vấn đề về quan
điểm đạo đức của Khổng Tử và bài học lịch sử của nó đối với việc rèn luyện đạo
đức sinh viên.

6. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm hai
chương và bốn tiết.
Chương 1: Cơng trình làm rõ nội dung quan điểm đạo đức của Khổng Tử.
Chương 2: Cơng trình tìm ra những giá trị và bài học lịch sử từ quan điểm đạo
đức của Khổng Tử đối với việc rèn luyện đạo đức sinh viên Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay.


9

NỘI DUNG
Chương 1
QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
1.1. CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM ĐẠO
ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
1.1.1. Sơ lược về thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử
Trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục xưa nay, có
lẽ chưa có một người nào lại có vị trí độc tơn phi phàm như Đức Khổng Tử (551 479 TCN). Mặc dù ông sống cách chúng ta tới 25 thế kỷ, song lớp hậu thế ngàn năm
sau ông, nhất là khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VII (mở đầu bằng việc ra đời của
triều đại nhà Đường ở Trung Quốc (618 - 907) trở về sau, Khổng Tử đã được các
tầng lớp đế vương và Nho gia phương Đông (như Trung Quốc, Việt Nam, Triều

Tiên…) tôn là “vạn thế sư biểu” (tấm gương sáng về người thầy của muôn đời), địa
vị của ông sánh ngang với Đức Thích Ca Mâu Ni của Đạo Phật và Đức Giáo tổ Lý
Đam (của Đạo Lão). Ngay cả khi thế chân kiềng của tam giáo Nho - Phật - Lão đã bị
lung lay thì Nho giáo vẫn cịn khá ổn định và vững chắc cho tới tận cuối thế kỷ XIX.
Tương truyền Khổng Tử người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc ngày nay. Tổ tiên trước kia là người nước Tống, tên là Khổng
Phòng Thúc. Phòng Thúc sinh Bá Hạ, Bá Hạ sinh Thúc Lương Ngột. Lương Ngột
khi đã quá tuổi1 lấy Nhan Thị, hai người cầu tự ở núi Ni Khâu sinh Khổng Tử.
Khổng Tử sinh ở nước Lỗ2 năm thứ 22 đời Lỗ Tương Công. Khi sinh ra trên đầu gồ
giữa lõm cho nên đặt tên là Khâu (tức là cái gò), tên tự Trọng Ni, họ Khổng. Khổng
Khâu sinh được ba năm thì Thúc Lương Ngột chết, chơn ở núi Phịng Sơn. Núi
Phịng Sơn ở phía đơng nước Lỗ. Khổng Tử do đó khơng biết mộ cha ở đâu, vì mẹ
của ơng kiêng khơng nói điều đó. Từ khi Thúc Lương Ngột mất, gia đình Khổng Tử
sống trong bần hàn, nhưng Nhan Thị vẫn quyết chí ni con ăn học. Ngay từ nhỏ,
Khổng Tử đã nổi tiếng là người siêng năng học giỏi và thích chơi trị cúng tế. Đến
khi mẹ chết, Khổng Tử chơn tạm mẹ ở con đường Ngũ Phụ, vì ơng cẩn thận3. Mẹ
của Vãn Phụ, người đất Trâu, nói cho Khổng Tử biết nơi mộ của cha, cho nên về sau
Khổng Tử hợp táng cả cha và mẹ ở núi Phòng Sơn.
Năm 19 tuổi, Khổng Tử lấy vợ sinh một con trai đặt tên là Lý, tự là Bá Ngư.
Khổng Tử làm Ủy Lại coi việc cân đong thóc ở kho và làm Tư Chức lại coi việc
ni bị, để dùng vào việc cúng tế. Năm 22 tuổi, Khổng Tử bắt đầu dạy học, trở
1.

Thúc Lương Ngột khi đã quá sáu mươi tư tuổi mới lấy Nhan Thị. Đàn ông quá sáu mươi tư tuổi lấy vợ, đàn
bà quá bốn mươi chín tuổi lấy chồng là quá tuổi.
2.
Do những biến cố chính trị, gia đình ơng bị mất địa vị q tộc, phải rời sang nước Lỗ trước khi ơng ra đời.
Chính vì vậy mà ơng mới sinh ở nước Lỗ.
3.
Phải chôn tạm sau này biết mộ cha sẽ hợp táng, chơn tạm thì dễ dời.



10

thành thầy giáo dậy từ đầu tiên của Trung Quốc, sau đó học nhạc và đạo. Năm 33
tuổi, Khổng Tử đến nước Chu để khảo sát tế lễ ở miếu Đường. Ít lâu sau trở về nước
Lỗ dạy học và nghiên cứu sách. Năm 53 tuổi, Khổng Tử được vua Lỗ mời ra làm
Trung Đô Tể (quan coi ấp Trung Đơ), thời gian này chính sự của Khổng Tử được rất
nhiều nơi sử dụng làm pháp độ. Chẳng bao lâu Khổng Tử được phong làm Tư
Không, rồi được làm Đại Tư Khấu4, rồi Nhiếp Tướng bộ coi việc hình in, ấn định
luật lệ, phép tắc trong nước. Trong bốn năm nhậm chức, Khổng Tử đã thẳng tay
trừng trị loạn quan, nịnh quan trong triều đình, đem lại trong nước Lỗ cảnh ban đêm
ngủ khơng phải đóng cửa, ban ngày ra đường không ai nhặt của rơi, luân thường đạo
lý được coi trọng, song vua nước Lỗ đam mê tửu sắc, đàn hát ca múa xa hoa, bỏ bê
công việc triều đình nên Khổng Tử chán ngán bỏ qua nước Vệ. Không được vua
trọng dụng ở Vệ, qua Tần, về Vệ, sang Tống, lại qua Tần, về Vệ. Mười bốn năm ông
cùng học trò bôn ba mong gặp người sử dụng học thuyết của mình, song ý nguyện
của ơng đã khơng thành, trở về Vệ lần cuối cùng, ở năm sáu năm ơng mới thấy thật
sự bất lực việc làm chính trị nên trở về nước Lỗ dạy học, san định các sách vở đời
trước5. Tiếng tăm của Khổng Tử lan truyền khắp nơi, nên học trị xin theo học rất
đơng. Sử ký ghi chép ơng có đến 3.000 học trị. Trong đó, có nhiều người là nhà tư
tưởng, là học giả nổi tiếng. Trương Ấm Lâm cho rằng hoài bão lớn nhất của Khổng
Tử là chính trị nhưng thành tựu lớn nhất của ơng lại là giáo dục6. Học trị của Khổng
Tử thường được gọi là nho sĩ. Nho là những người đương thời chuyên về tế lễ.
Người ta cho đất nước có hai việc trọng đại: đó là việc kinh và việc cúng tế. Sĩ trước
thời Xuân thu dùng để chỉ quân đội. Quân lính ra trận mỗi xe có 1.000 sĩ. Nhưng về
sau sĩ dùng để chỉ về văn chứ không chỉ về võ như trước nữa. Vậy Nho sĩ là tầng lớp
trí thức lúc bấy giờ. Học thuyết của Khổng Tử được tầng lớp nho sĩ này truyền bá
nên cũng gọi là Nho gia, hay Nho giáo. Bóng cây cổ thụ Nho giáo đã bao trùm đời
sống văn hóa Trung Quốc suốt hơn 2.000 năm lịch sử. Con cháu của Khổng Tử đến

ngày nay vẫn còn tiếp tục sự nghiệp của ông, khi ông mất trong số những mơn đồ
của ơng có người đã để tang ơng đến năm, sáu năm, hàng trăm người làm nhà, lập
cứ bên phần mộ ông, tạo thành làng Khổng7 .
Khổng Tử san định sách Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của đời trước để lại, viết sách
Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Nhiều quan điểm khác của ơng thể hiện
qua các cuộc đàm đạo mà nội dung của nó sau này được trình bày trong Luận ngữ,
do học trị của ông chép lại. Sau khi Khổng Tử mất và nhất là qua chính sách tàn
khốc “phần thư khanh nho” của Tần Thủy Hồng thì sách của Khổng Tử khơng còn
giữ được bao nhiêu. Khi đạo Nho được phục hưng (đời Hán Vũ Đế, năm 130 trước
Công nguyên). Sách Nhạc chỉ còn một thiên, được đem nhập vào bộ Lễ Ký gọi là

4.

Tư Không coi việc xây dựng, tư khấu coi việc pháp luật.
Nguyễn Văn Thọ: Chân dung Khổng Tử, Nhà sách Khái Trí xuất bản Sài Gịn.
6.
Nguyễn Văn Thọ: Chân dung Khổng Tử, Nhà sách Khái Trí xuất bản Sài Gòn.
7.
Nguyễn Văn Thọ: Chân dung Khổng Tử, Nhà sách Khái Trí xuất bản Sài Gịn.
5.


11

Thiên Nhạc ký. Những sách khác được người đương thời sưu tầm, bổ sung tạo thành
năm kinh là Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Kinh Dịch, nguyên là sách giải thích sự vận hành của vũ trụ dùng để bói những
điểm lành, dữ trong đời sống của con người. Theo người Trung Hoa thượng cổ, trời
đất có âm, dương tương tác với nhau tạo sự sinh hóa. Song, do quỷ thần can thiệp
vào nên âm, dương lúc ẩn lúc hiện. Con người phải dùng mai rùa hoặc cỏ thi để xem

ý của quỷ thần thế nào mà hành động cho thuận lợi. Khổng Tử đã dành rất nhiều
thời gian để nghiên cứu dịch. Truyền rằng, ông đọc sách dịch làm cho dây da buộc
các thẻ tre đứt đến ba lần. Khổng Tử đã giải thích các ý nghĩa của sách dịch và viết
thêm một số thiên, tạo nên cơ sở nhân sinh quan của Kinh Dịch.
Kinh Thư, là bộ sách về sử các vua chúa từ đời Nghiêu đến đời Tần Mục Công
(khoảng từ năm 2350 trước Công nguyên đến năm 620 trước Công nguyên). Bộ sách
này trình bày tỉ mỉ hành động đường lối và tư tưởng của người cổ về tiếp nhận xử
thế, đề cao phương pháp trị vì thiên hạ bằng đạo lý, thuận thiên thời, thuận thủy thổ,
thuận nhân tâm, thuận lòng dân mà các vương Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang ngày xưa
đã sử dụng.
Kinh Thi, là bộ sách chép lại những bài ca dao (những bài hát có vần điệu dùng
vào việc tế lễ, hiếu hỉ và những bài hát truyền miệng ở các vùng thôn dã) của người
Trung Hoa cổ đại. Những bài ca dao vừa bộc lộ niềm tin vào thượng đế, ước nguyện
sâu xa của thánh hiền thời cổ được phối kết với siêu nhiên, vừa phác họa mọi khía
cạnh của cuộc sống và các hạng người trong xã hội. Đây là những cảnh trai thanh
gái lịch mượn hoa lá, trăng sao để nói nên tình u thương thiết tha hay sầu bi khắc
khoải, những cảnh thanh bình gia đình đồn tụ hay chinh chiến phân ly, những cảnh
minh qn một lịng vì nước hay bạo chúa loạn dâm, những tấm gương về dâu hiền,
con thảo, anh em cốt nhục vẹn tình, vợ chồng keo sơn gắn bó, v.v… Khổng Tử san
định Kinh Thi để mong người đời hiểu điều hiếu trung, biết thương biết ghét và mở
mang tri thức. Ơng thường nói với học trị rằng: Kinh Thi làm cho mình hứng tâm
khởi trí, nhờ nó mà mình biết hợp quần xã hội, kẻ đọc Kinh Thi, gần thì biết thờ
cha, kính mẹ, xa thì biết phụng sự quốc vương cho hết nghĩa tôi thần, lại biết thêm
được nhiều giống như cầm, thảo, mộc (Luận ngữ , Dương hóa, 9).
Kinh Lễ, gồm ba bộ: Chu Lễ, Nghi Lễ và Lễ Ký. Trong đó, Chu Lễ nói về cách tổ
chức hành chính, chính trị xã hội thời Chu; Nghi Lễ quy định thể thức lễ nghi trong
cuộc sống; cịn Lễ Ký là phần do các mơn đệ của Khổng Tử bình về các phong tục;
Kinh Lễ là sự vận dụng các quan điểm về vũ trụ vào cuộc sống để quy mọi cử chỉ
hành vi, bổn phận của chủ nhiệm người từ tấm bé cho đến khi nhắm mắt, tắt hơi. Có
thể nói Kinh Lễ là bộ sách lý luận và biện pháp tổ chức xã hội mà Khổng Tử rất tâm

đắc, theo ông con người nhất nhất phải hành động theo lễ, khơng nghe, khơng nhìn,
khơng nói, khơng làm những gì trái lễ thì mới mong thiên hạ được thái bình (Luận
Ngữ, Nhan Uyên, 1).
Kinh Xuân Thu, là bộ kinh mà qua đó, như Khổng Tử tự thấy, người đời có thể
ghi danh ơng hoặc buộc tội ông (Mạnh Tử, Đằng Văn Công hạ, 9). Xuân Thu là bộ


12

sách Khổng Tử viết về chuyện nước Lỗ, từ đời Lỗ Ẩn Công (khoảng năm 722 trước
Công nguyên) đến đời Lỗ Ai Công (khoảng năm 480 trước Công nguyên), là chuyện
về nhà Chu cùng các nước chư hầu khác. Có thể coi đây là bộ biên niên sử mà
Khổng Tử trong khi tránh đụng chạm đến các thế lực đang cầm quyền đã dùng nó để
vạch ra nguyên nhân loạn lạc của xã hội đương thời. Mạnh Tử nhận xét rất đúng
rằng khi đó đời càng ngày càng suy, đạo càng ngày càng yếu, tà thuyết, bạo hành
khắp nơi nổi dậy. Những chuyện tôi giết vua, con giết cha xảy ra hằng ngày. Trước
sự suy bại và loạn nghịch ấy Khổng Tử lấy làm lo sợ nên mới viết Xuân thu để khen
thiện, chê ác và dạy phép trị vì thiên hạ cho các Thiên Tử, ( Mạnh Tư, Đằng Văn
Cơng hạ, 9). Phép trị vì nước này là thuyết “chính danh” - thuyết xuyên suốt sách
Xuân thu mà trọn đời Khổng Tử tuân theo.
Triết học của Khổng Tử được lý giải khác nhau qua nhiều triều đại. Đến thế kỷ
thứ II trước Công nguyên, những quan điểm của Khổng Tử được danh Nho nhà Hán
là Đổng Trọng Thư thần bí hóa và biến nó thành một hệ thống đạo đức, tơn giáo,
chính trị thống trị trong đời sống tinh thần ở Trung Quốc.
Trong triết học của mình, Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào các vấn đề xã hội, nhưng
ở các tác phẩm của ông và sách vở do học trị ghi lại, ơng cũng đã đề cập đến mọi
lĩnh vực của triết học, thể hiện quan điểm của ông về thế giới, về chính trị xã hội, về
luôn lý đạo đức và cuộc sống con người.

1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm đạo đức của Khổng Tử

Trong tư tưởng triết lý đạo đức nhân sinh của Nho giáo nói chung và của triết
học Khổng Tử nói riêng, quan điểm về đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật.
Tại sao vấn đề đạo đức trở thành vấn đề được các nhà triết học cổ đại quan tâm? Để
trả lời câu hỏi đó, chúng ta khơng thể khơng nghiên cứu những đặc điểm của lịch sử
xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ đại - tiền đề làm nảy sinh những tư tưởng triết học hết
sức đa dạng phong phú ở Trung Quốc.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, quá trình phát sinh và phát triển của
tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại tất yếu phải phản ánh và bị chi phối bởi những
điều kiện lịch sử xã hội của Trung Quốc cổ đại. Triết học Trung Quốc hình thành và
phát triển trong thời kỳ xã hội phong kiến đang có sự chuyển biến hết sức căn bản
và lớn lao. Đó là thời kỳ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế
độ “tông pháp” nhà Chu đã suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành - thời
Xuân thu - Chiến quốc. Đây là thời kỳ giao thời giữa hai chế độ từ chế độ tông tộc
chuyển sang chế độ gia trưởng, những giá trị tư tưởng đạo đức được xác lập trên nền
tảng chiếm hữu nô lệ đã bị băng hoại, nhưng những giá trị tư tưởng mới cịn đang
manh nha, đang trong q trình hình thành. Thời kỳ này diễn ra một sự biến đổi hết
sức sâu sắc trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị tạo điều kiện cho sự giải
phóng tư tưởng của con người thoát khỏi thế giới quan mang tính chất thần bí, ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển tư tưởng của triết học.
Thời kỳ Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương (năm 771 trước
Cơng ngun) dời đơ về phía đơng đến Lạc Ấp (Lạc Dương tỉnh Hà Nam bây giờ).


13

Thời kỳ này nhờ vào sự phát triển của công cụ đồ sắt và kỹ thuật khai thác than đã
làm cho đất đai được mở rộng và hệ thống thủy lợi được cải thiện, người ta cảm thấy
rằng, giờ đây công xã giao hẳn ruộng đất cho từng hộ gia đình nơng nơ cày cấy
trong một thời gian lâu dài đã làm cho năng suất lao động tăng lên, cho nên chế độ
tỉnh điền khơng cịn phù hợp nữa. Chính điều này đã làm cho chế độ tư hữu về

ruộng đất phát triển mạnh mẽ, làm cho một số người giàu có vốn xuất thân từ nơng
dân muốn được tham gia vào chính sự, địi quyền lợi về chính trị - xuất hiện một
giai cấp mới đó là giai cấp địa chủ.
Hơn nữa đồ sắt ngày càng nhiều, càng làm tăng năng suất lao động, thủ công
nghiệp đạt tới mức độ cao hơn, các nghề mộc, nghề đúc, nghề rèn ... phát triển
mạnh, tạo ra một tầng lớp thợ thuyền tuy nhiều nhưng do trình độ thấp nên chưa có
ảnh hưởng lớn trong xã hội. Trên cơ sở tiểu thủ công nghiệp phát triển, thương
nghiệp càng phát triển mạnh hơn, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Do
nhờ bn bán mà thành giàu có, trong xã hội hình thành một lớp thương nhân ngày
càng có thế lực. Với tình trạng cát cứ như đầu thời Xuân thu, các thương nhân muốn
bn bán được thì trước hết phải quen biết, giao kết với các quan đại phu công thần,
đồng thời bản thân họ phải là người tháo vát nhanh nhẹn và có lịng quả cảm, chính
điều này mà giới thương nhân cũng gây ra những ảnh hưởng đối với chính trị đương
thời. Nhờ vào sự xuất hiện của thương nghiệp đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội
thêm một tầng lớp mới. Tầng lớp này dần dần hình thành một loại quý tộc mới với
thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên dành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, thời Tây Chu chế độ tông pháp “phong hầu kiến địa” vừa có
ý nghĩa ràng buộc về kinh tế vừa có ý nghĩa ràng buộc về chính trị. Chính điều này
đã làm cho nhà Chu hưng thịnh trong một thời gian dài. Nhưng đến thời Xuân thu
chế độ tông pháp nhà Chu khơng cịn được tơn trọng, sự ràng buộc giữa “Thiên tử”
và các nước chư hầu bị lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu
khơng cịn được xem là chuẩn mực. “Thiên tử” nhà Chu bây giờ chỉ còn là hư danh,
các nước chư hầu mượn danh “Thiên tử” để thơn tính lẫn nhau mưu cầu lợi ích cá
nhân, mong làm chủ thiên hạ. Để tập trung tất cả tài lực và sức lực cho các cuộc
chiến tranh, các quốc gia này đều thi hành chính sách “bá đạo” dựa trên sức mạnh và
ra sức bóc lột nhân dân và các nước khác, hồn tồn khác với chính sách nhân nghĩa
“vương đạo” của thánh nhân xưa. Người dân nghèo phải đi chiến trận, thực hiện các
cuộc chinh phạt, còn chịu sưu thuế, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường
xuyên xảy ra, nạn cướp bóc nổi lên, cuộc sống nhân dân trăm bề khổ sở.
Với chính sách dựa vào sức mạnh, gây chiến tranh và thơn tính lẫn nhau khơng

chỉ dẫn đến hậu quả là hàng loạt nước nhỏ bị tiêu diệt mà còn làm cho trật tự lễ
nghĩa nhà Chu bị băng hoại, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Đặc biệt là những
nghi lễ chặt chẽ tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hưng thịnh
chế độ tông pháp nhà Chu đến nay bị xem thường. Tình trạng lễ nghĩa, cương
thường đảo lộn, đạo đức suy đồi, nước lớn bắt nước nhỏ phải cống nạp cho mình.
Trong xã hội loạn lạc, cảnh tơi giết vua, con hại cha, anh em, vợ chồng chia lìa


14

thường xun xảy ra. Tình trạng đó theo Khổng Tử khơng phải xảy ra một sớm một
chiều mà nó âm ỉ mục ruỗng từ lâu. Việc “tang viếng, tế lễ, chúc mừng” trở thành
một thủ đoạn ngoại giao chứ không còn là lễ nghĩa của quan hệ gia tộc và trật tự xã
hội nữa.
Thời Chiến quốc đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, các ngành nghề cũng
có bước phát triển nhất là kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp và thủy lợi. Các đô
thị sầm uất xuất hiện, thương nghiệp và giao thông phát triển điều này càng làm cho
sự phân hóa giữa địa chủ và quý tộc mới với quý tộc cũ nhà Chu ngày càng gay gắt
hơn. Cho nên các cuộc chiến tranh thơn tính lẫn nhau với quy mô ngày càng lớn và
càng thảm khốc hơn, đời sống nhân dân ngày càng cơ cực, lầm than hơn, Mạnh Tử
đã viết: “Đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành; đánh nhau giành
đất, giết người thây chết đầy đồng” (Mạnh Tử, Luy Lâu thượng). Sự phát triển của
kinh tế hàng hóa và chiến tranh loạn lạc triền miên làm cho chế độ công xã nông
thôn càng mau tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành
quan hệ sở hữu thống trị. Việc mua bán ruộng đất được tự do và sự phổ biến của chế
độ tư hữu đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít lãnh chúa. Đa
số nơng dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi làm tá điền. Chế độ bóc lột bằng phát
canh thu tơ xuất hiện. Trong lịng xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản
xuất mới đó là chế độ phong kiến quận huyện. Tất cả những yếu tố này góp phần
đưa chế độ chiếm hữu nô lệ và tông pháp nhà Chu lao nhanh đến giờ phút cáo

chung. Và sự thật nhà Tần đã thống nhất được Trung Quốc để bắt đầu xây dựng một
kiểu nhà nước mới đó là nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền.
Chính thời đại lịch sử đầy biến động đó đã dẫn tới những thay đổi sâu sắc ở
nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật .... đã kích thích lịng người,
khiến cho những người tài giỏi đương thời tìm cách lý giải và tìm ra phương pháp để
cứu đời, cứu người. Thời kỳ này đã làm nảy sinh hàng loạt những nhà tư tưởng lớn
với các học thuyết khác nhau. Là một người luôn quan tâm tới giá trị con người và
chế độ chính trị, nên Khổng Tử chủ trương dùng đạo đức để giáo hóa con người đi
tới ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử đã đề ra học thuyết triết học lấy tư tưởng “chính
danh” làm nịng cốt và một lý thuyết về đạo đức có tính nhân văn cao tạo thành một
nét riêng trong hệ thống tư tưởng của ông.

1.2. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử chịu sự chi phối của thế giới quan mà ông đã
hấp thụ của người Trung Quốc cổ đại. Đó là: Vũ trụ lúc đầu chỉ là cõi hỗn mang
mênh mông, mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái Lý gọi là Thái Cực. Thái cực vơ
hình, huyền diệu chứa đựng hai mặt tiềm ẩn đối lập nhau là Âm và Dương. Âm Dương tương tác, chuyển hóa, dẫn đến mọi sự biến đổi vô cùng, vô tận gọi là Đạo.
Theo Đạo, Âm - Dương tạo ra thanh khí và trọng khí. Thanh khí làm Trời, trọng khí
làm Đất, cịn sự điều hịa Âm - Dương sẽ sinh ra con người và vạn vật. Như vậy,
tính đa dạng của vũ trụ đều có chung nguồn, chung gốc mà Khổng Tử gọi là “nhất dĩ


15

quán chi” (một đầu mối). Cái đầu mối giải quyết mọi vấn đề của xã hội loạn lạc
đương thời, theo Khổng Tử chính là đạo đức. Ơng nói: “Nếu nhà cầm quyền chuyên
dùng pháp luật mà dẫn dắt, chuyên dùng hình phạt mà trị vì thì dân sợ mà khơng
phạm pháp, còn nếu nhà cầm quyền dùng đức hạnh mà dẫn dắt, dùng lễ tiết mà trị,
thì chẳng những dân tự biết xấu hổ với mình mà trước hay sau họ cũng được cảm
hóa (Luận ngữ, Vi Chính, 3). Đức hạnh và lễ tiết, theo Khổng Tử là những tiêu

chuẩn về đức tính, là những quy định về giao tiếp, lễ nghi mà con người phải có,
phải tn theo. Vì vậy, “người dùng đạo đức để làm chính trị chẳng khác gì ngơi sao
Bắc Đẩu chỉ đứng một chỗ mà các ngôi sao khác đều phải hướng về” (Luận ngữ, Vi
chính,1).
Vấn đề ở đây là Khổng Tử quan niệm như thế nào là đạo đức? Tuy thể hiện quan
điểm của mình ở nhiều chỗ khác nhau, nhưng nhìn chung tư tưởng về đạo đức của
Khổng Tử được phân thành hai mảng tương đối rõ nét: đạo đức xã hội và đạo đức cá
nhân.

1.2.1. Đạo đức xã hội
Từ quan điểm vạn vật đều có chung nguồn gốc, cái phức tạp biến sinh từ cái giản
dị, Khổng Tử cho rằng sự thay đổi của xã hội làm cho thiên hạ rối ren không phải là
nguyên nhân một sớm một chiều mà là một quá trình bắt nguồn từ sự sa đọa của các
thế lực cầm quyền, làm cho “danh” khơng được “chính”, tức là “danh” không phù
hợp với “thực”. Khi Quý Khương Tử (người đã chiếm ngôi vua nước Lỗ) hỏi Khổng
Tử về cách cai trị, Khổng Tử giảng giải: “chính sự là làm cho mọi việc ngay thẳng,
công minh. Nếu ngài đi đầu trong dân chúng về việc này thì ai còn dám ăn ở hai
lòng, hai dạ?” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 16), hoặc “Ngài là người cầm quyền, nếu
ngài không tham dục thì sao trong dân có tà đạo nảy sinh?” (Luận ngữ, Nhan Un,
17). Vì quan niệm “danh” khơng được “chính” làm cho xã hội loạn lạc, phép tắc kỷ
cương xáo trộn, danh phận không rõ ràng, nên để khôi phục trật tự xã hội, Khổng Tử
đã chủ trương thực hành thuyết “chính danh”.
Khổng Tử cho rằng mỗi người và mỗi vật trong xã hội đều có một cơng dụng
nhất định. Nằm trong mối quan hệ nhất định mỗi vật, mỗi người đều có một địa vị,
bổn phận nhất định và tương ứng với nó là một “danh” nhất định. Mỗi “danh” đều
có tiêu chuẩn riêng. Vật nào, người nào mang “danh” nào phải được thực hiện và
phải thực hiện bằng được những tiêu chuẩn của danh đó, nếu khơng phải gọi bằng
“danh” khác. Đó là “chính danh”. Khổng Tử giải thích học thuyết “chính danh” của
mình rằng: “Chính là làm cho mọi việc ngay thẳng” (Luận ngữ, Nhan Un, 16).
Chính danh là: “vua cho ra vua, tơi cho ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con”.

(Luận ngữ, Nhan Un, 11). “Nếu danh bất chính thì lời nói sẽ khơng đúng đắn, lời
nói khơng đúng đắn thì dẫn tới việc làm sai. Khi đó người với người trong xã hội sẽ
khơng cịn kính trọng nhau, khơng cịn hịa khí, pháp luật lỏng lẻo và người dân sẽ
mất nơi trông cậy nhờ vả” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Khi “dân khơng có chỗ trơng cậy,


16

nhờ vả thì dân sẽ khơng cịn tin ở bậc cầm quyền, lúc đó dù muốn hay khơng xã tắc
cũng khó tránh bề suy sụp”. (Luận ngữ, Nhan Un, 7).
Vì cho “chính danh” là quan trọng nhất nên khi Tử Lộ hỏi nếu được vua Vệ mời
tham gia chính sự thì Khổng Tử sẽ làm gì, ơng đáp: “ắt phải chính danh trước đã”
(Luận Ngữ, Nhan Uyên, 6). Khổng Tử viết sách Xuân thu thực chất là tuyên truyền
học thuyết chính danh của ơng, bằng sự khen chê người đời trước để làm gương cho
người đời sau với quan điểm nhắc chuyện xưa để răn dạy người đời nay phải sống
trung chính và đúng đạo của mình. Trong “Tư tự” (tự mình viết) của cuốn Sử ký, Tư
Mã Thiên đã dẫn lời Đổng Trọng Thư nói về mục đích của Khổng Tử khi soạn kinh
Xuân Thu rằng: Kinh Xuân Thu trên làm sáng tỏ đạo của Tam Vương8, dưới phân
biệt phép tắc của người, biện bạch điều hiềm nghi, soi sáng điều phải trái, quyết định
điều còn do dự, chê điều dở, nối lại cái đã đứt, vá lại cái đã rách, dựng lại cái đã bỏ.
Đó là điều lớn của một đạo vương.
Theo tư tưởng “chính danh” khi viết sách Xuân Thu, Khổng Tử rất thận trọng
dùng từ ngữ, chữ nghĩa để phân biệt đúng đắn các hiện tượng xã hội. Chẳng hạn cái
chết của Thiên tử được ông gọi là “băng”, cái chết của vua chư hầu ghi là “hoăng”,
của vua cướp ngôi ghi là “tồ”, của quan liêm chính là “tốt”, của kẻ nịnh thần là “tử”,
v,v...
Như vậy, khi đề cập ra học thuyết “chính danh”, Khổng Tử đã cố gắng thể hiện
nó qua hành động của mình. Nó cũng phản ánh thái độ tơn trọng tơn ti trật tự, phép
tắc của Khổng Tử. Tôn ti này trong quan hệ giữa người với người, Khổng Tử gọi là
“luân”. “Luân” được sách Thuyết văn cho là “con đường”, sách Khúc lễ giảng giải là

“loại”, còn Mạnh Tử ghi là “trật tự”9 (Một số nhà nghiên cứu sau này giải thích là
“thứ bậc”, là “đạo cư xử”). Có thể hiểu trong xã hội “mỗi một thứ quan hệ là một
luân”.
Trong các mối quan hệ xã hội, Khổng Tử xác định năm mối quan hệ cơ bản và
thông thường của mỗi đời người trong thiên hạ, gọi là “ngũ luân”, gồm quan hệ vua
- tôi , cha - con, chồng - vợ, anh - em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ,
bằng hữu) (Trung dung, 20). Mỗi quan hệ lại có tiêu chuẩn riêng cho từng đối
tượng, như cha hiền con thảo, anh tốt em ngoan, chồng biết tình nghĩa vợ nghe lẽ
phải, bề trên từ hiếu, bề dưới kính thuận, vua nhân từ tơi trung thành (Lễ vận,
chương VIII, 11, 9). Đây là xương sống về tư tưởng đạo đức xã hội của người sáng
lập ra Nho gia.
Trong “Ngũ luân” lại có ba mối quan hệ cơ bản nhất, Khổng Tử gọi đó là “tam
cương” (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương), song Khổng Tử
nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi và cha con.

1.

Tam vương là ba đời của nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu.
Hồ Thích: Trung Quốc Triết học sử, Nhà sách Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr. 242, Nxb. Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987, tr. 320.
9.


17

Đối với quan hệ vua tôi, trước hết Khổng Tử chống ngơi vua duy trì theo kiểu
cha truyền con nối. Ông lên án việc chức tước truyền theo huyết thống, dịng dõi,
mặc dù trong xã hội đương thời vẫn có ba kiểu lên ngôi được thừa nhận, như: lên
ngôi do cha truyền lại, lên ngôi do vua trước truyền lại và lên ngôi do đổi mệnh
vua10.

Khổng Tử cho rằng người cầm quyền phải có đức, có tài mà khơng cần tính đến
đẳng cấp xuất thân của họ. Ơng nhận xét Trọng Cung, người mà ông tin cậy 11,
truyền cả thiên đạo cho, khơng được đắc dụng chỉ vì Cung thuộc lớp thường dân.
Ơng ví Trọng Cung như con bị tơ sắc đỏ, sừng tốt (con bị có đủ những điều kiện tốt
nhất để dùng vào việc thiêng liêng nhất là tế thần), nhưng vì mẹ nó lang, nên người
ta khơng dùng vào việc cúng bái, trong khi thần không hề xem xét kẻ như thế nào đã
đẻ ra nó (Lụân ngữ, Ung Giã, 4). Theo ông, Trọng Cung không những đáng cử làm
quan mà thậm chí có thể làm vua, vì một ơng vua đồng thời cũng phải là một người
thầy của dân (Luận ngữ, Tử Lộ, 1, 2), phải là người nhân đức nhất trong những
người nhân đức. Khổng Tử cho rằng Trọng Cung là người có đủ những tiêu chuẩn
này.
Khổng Tử đã nêu ra những đòi hỏi với người đứng đầu của một quốc gia mà bao
hàm nhất là người đó phải đạt được nhân đạo và thiên đạo - những yêu cầu để trở
thành một minh quân, một bề trên chính trực.
Về những yêu cầu cụ thể đối với vua, Khổng Tử chủ trương: Vua phải đảm bảo
cho dân được no ấm, phải xây dựng được lực lượng quân sự hùng hậu và đặc biệt là
phải chiếm được lịng tin của dân. Vì vậy, khi Tử Cống hỏi đến cách cai trị xã hội,
Khổng Tử đáp: “Nhà cầm quyền cần ba điều: lương thực dồi dào, binh lực mạnh mẽ
và được lòng tin của dân”. Tử Cống hỏi tiếp: “ Trong ba điều ấy, nếu bất đắc dĩ phải
bỏ đi một điều thì bỏ điều nào?” - “ Bỏ binh lực”. “Nếu bất đắc dĩ phải bỏ đi một
điều nữa?” - “Bỏ lương thực vì từ trước tới nay nếu thiếu cái ăn chỉ đói chứ khơng
mất nước, cịn nếu thiếu lịng tin của dân thì sớm muộn chính quyền sẽ sụp đổ”
(Luận ngữ, Nhan Uyên, 7). Không những thế, vua phải biết làm sao cho dân giàu và
biết giáo hóa dân. Truyền rằng Khổng Tử đến nước Vệ, Nhiễm Hữu12 đánh xe ra
hầu, Khổng Tử khen: “Dân nước Vệ đông thay”. Nhiễm Hữu hỏi: “Dân đã đơng,
nhà cầm quyền phải làm gì cho họ nhờ?” - “Phải giúp họ giàu có”. “Họ đã giàu rồi,
nhà cầm quyền phải làm gì nữa?” - “Phải giáo hóa họ” (Luận ngữ, Tử Lộ, 9).
Ngồi ra vua cịn phải biết trọng dụng người đức độ và có năng lực làm việc,
phải biết rộng lượng đối với những người cộng sự của mình. Ơng dạy rằng: “Nhà
cầm quyền nên thi hành ba việc này: 1) Trước hết nên phân phát công việc cho

10.

Lên ngôi do đổi mệnh vua bằng cách giết vua đang cầm quyền. Việc này theo xã hội đương thời là hợp đạo
lý khi người giết vua là thuận ý trời và thuận ý dân.
11.
Trọng Cung, Nhiễm Ung, học trò của Khổng Tử người nước Lỗ, được hậu thế phong là Bất Kỳ Công, xếp
hàng thứ ba trong “Thập triết” của Nho gia.
12.

Nhiễm Hữu, tức Hữu Cầu, người nước Lỗ, học trị của Khổng Tử có tài chính trị đoan chính nhưng thiếu tự
tin, được hậu thế phong hàng thứ sáu trong “ Thập triết” của nho gia.


18

những quan chức dưới quyền của mình, họ làm xong thì xem xét lại; 2) Những ai
phạm lỗi nhỏ thì dung thứ cho họ; 3) Cử dùng những người hiền đức và tài cán”
(Luận ngữ, Tử Lộ, 2).
Dân đối với vua, theo Khổng Tử phải coi như cha mẹ của mình (Đại học, 10).
Trong quan hệ giữa dân và vua, dân vì vua là “trung”, vua vì dân để được lòng dân
tin cũng là “trung” vậy. “Trung” của Khổng Tử chỉ đòi hỏi sự hết lòng và thành tâm
thật ý trong quan hệ với nhau.
Nhìn chung, dù ở góc độ luân lý hay luận lý, chính danh của Khổng Tử là chính
danh hai chiều trong quan hệ mà trước hết nó đặt trách nhiệm vào bề trên. Đây là
chính danh với “Quân minh - thần trung” nó khác hẳn với quan điểm “Quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung” để dẫn đến ngu trung mà hậu thế đã khai thác lệch lạc nó.
Chính danh là nền tảng mà trên đó tư tưởng đức trị và những tư tưởng khác về xã
hội của Khổng Tử được hình thành và phát triển. Chính danh cũng là cơ sở để định
hình những nội dung cơ bản của đạo đức đối với mỗi cá nhân.


1.2.2. Đạo đức cá nhân
1.2.2.1. Quan điểm của Khổng Tử về chữ nhân
Kinh thi, trong phần Nhã và Tụng13, ngay những bài hát ca tụng đức của các tiên
vương đời Chu, cũng tuyệt nhiên không thấy dùng chữ nhân (nhân ái). Sách thượng
thư, trong các thiên “Kim văn” không nói đến đức nhân; trong các thiên cổ văn14
chữ nhân chỉ xuất hiện có bốn, năm lần. Cịn trong những sách tài liệu chép về chính
trị mà viết trước đời Khổng Tử, ta chỉ thấy dùng chữ khoan, chẳng hạn Thiên Thuấn
Điển khen tổ nhà Ân lấy lòng khoan mà dậy dân, vỗ về dân.
Đọc tới bộ Luận ngữ, ta mới thường gặp chữ nhân (có 58 chỗ đề cập đến quan
niệm về Nhân với cả thảy là 109 chữ Nhân), mới thấy đức nhân được đưa nên hàng
quý nhất, được coi là cái “đạo lớn của nhân sinh” (Nhân sinh chi đạo). Vậy chúng ta
có thể tin rằng nếu Khổng Tử không phát minh ra quan niệm về nhân, thì ít nhất ơng
cũng đã có cơng bổ túc, hồn thiện nó, làm cho nó thành cái cơ sở của giáo dục
chính trị và một phần lớn nhờ ơng mà triết học Trung Hoa có một sắc thái riêng,
khơng giống Âu Tây, cũng không giống Ấn Độ.
Xét quan niệm nhân của Khổng Tử, chúng ta thấy rằng “nhân” không chỉ riêng
một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính. Người có nhân đồng nghĩa với người
hồn thiện nhất, nên nhân làm nghĩa rộng nhất của đạo làm người. Đạo làm người có
hàng ngàn, hàng vạn điều nhưng chung quy lại chỉ là những điều đối với mình và
đối với người, nên nhân có thể hiểu là cách cư xử với mình và cách cư xử với người.
13.

Kinh thi gồm ba phần: Phong (các ca dao của bình dân), Nhã (các bài hát dùng trong yến tiệc, tế lễ), Tụng
(các bài ca tụng đức các vua đời trước)
14.
Sau vụ đốt sách ở đời Tần, tới đời Hán, các học giả theo những kinh của bọn bác sĩ nhà Tần truyền lại gọi
là kim văn. Rồi Lỗ Cung Vương, con Cảnh Đế, tìm thấy một bộ kinh thư viết bằng cổ văn ở trong vách nhà cũ
của Khổng Tử, Khổng An Quốc, cháu 12 đời của Khổng Tử đem so với bộ Kinh Thư kim văn mà soạn lại,
thành ra thêm một phái nữa: phái cổ văn. Đến cuối đời Tây Hán, bọn Lưu Hâm đặt ra Thi cổ văn, Lễ Cổ văn,
Xuân thu cổ văn nhưng người ta cho rằng giả dối không đáng tin.



19

Đối với mình, người có nhân “trước hết phải làm những việc khó, sau mới hưởng
thành quả, mới có thể gọi là nhân” (Luận ngữ, Ung giã, 20). Khác với những người
“bất nhân” - những người không cam chịu cảnh khốn quẫn và cũng khơng thể hưởng
lâu dài khối lạc, người nhân sẵn sàng vui vẻ sống trong bất kỳ hồn cảnh nào, dù
đấy là vinh hoa hay đói nghèo, túng thiếu. Người có nhân cái cao cả nhất là đức
nhân của mình (Luận ngữ, Lý ngân, 2), có thể vì nhân mà sát thân chứ khơng phải vì
thân mà hại nhân, vì có đức nhân con người sẽ tự kìm chế được mình để tuân theo lễ
tiết của xã hội (Luận ngữ, Nhan Uyên, 1), để vững vàng trầm tư như núi trước mọi
thử thách của cuộc đời (Luận ngữ, Ung giã, 21), v.v.. Với mỗi người khác nhau,
Khổng Tử đã nói về những mặt khác nhau của đức nhân. Nhan Uyên hỏi về nhân,
Khổng Tử đáp: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”. Ơng giảng giải tiếp “Điều gì khơng hợp
với lễ thì đừng nhìn, điều gì khơng hợp với lễ thì đừng nghe, điều gì khơng hợp với
lễ thì đừng nói, điều gì khơng hợp với lễ thì đừng làm”. Nhân chung quy lại, như
Khổng Tử đã nói với Tử Trương là: “Người có đức nhân là người phải biết nghiêm
trang tề chỉnh, rộng lượng, khoan dung, đức tín, lịng thành, siêng năng, cần mẫn và
biết thi ân bố đức” (Luận ngữ, Dương hóa, 6). Về những điều này, ông lý giải
“Nghiêm trang tề chỉnh sẽ làm người khác không giám khinh nhờn, rộng lượng
khoan dung sẽ làm người khác bị thu phục, đức tín lịng thành sẽ làm người khác tin
cậy, thi ân bố đức sẽ làm người khác bị sai khiến và cần mẫn siêng năng sẽ đem lại
nhiều điều bổ ích” (Luận ngữ, Dương hóa, 6).
Đối với người, nguyên tắc suốt đời của người có nhân phải theo là “thương yêu
người khác” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 21). Giải thích điều này Khổng Tử dạy: Người
nhân muốn tự lập lấy mình, thì phải lo lập cho người, muốn thành đạt cho mình thì
cũng lo cho người thành đạt. Người nhân ứng xử với mình như thế nào thì cũng ứng
xử với người như thế” (Luận ngữ, Ung giã, 28). Cho nên khi Tử Cống hỏi: “Có chữ
nào mà trọn đời người nhân phải theo chăng?” - Khổng Tử đã đáp: “Có, chữ thứ,

nghĩa là việc gì mình khơng muốn đừng có làm cho người khác” (Luận ngữ, Vệ
Linh Công, 23). Tất nhiên đối với Khổng Tử khơng phải bất cứ người nào người có
đức nhân cũng thương yêu đùm bọc. Đạo lý của xã hội luôn là tiêu chuẩn để phân
định, đánh giá và tỏ thái độ của mình đối với người khác, nên người có đức nhân
phải dựa vào tiêu chuẩn này để biết yêu thương hay ghét bỏ. Ơng nói: “Duy có bậc
nhân mới biết thương người và ghét người một cách chính đáng mà thơi” (Luận ngữ,
Lý nhân, 3).
Đánh giá về vai trị của đức nhân, Khổng Tử cho rằng: nếu tâm của con người
ln hướng về nhân thì khơng bao giờ con người nghĩ đến chuyện phản loạn, do đó
miệng khơng nói bậy và thân không dấn vào việc ác tà (Luận ngữ, Lý Nhân, 4).
Chính vì vậy, đối với dân, đức nhân cần thiết hơn tất cả những gì cần thiết khác
(Luận ngữ, Vệ Linh Công, 34). Đối với những người cầm quyền đức nhân như một
thành trì để giữ gìn và bảo vệ những gì họ đã đạt được (Luận ngữ, Vệ Linh Công,
32).


20

Khao khát cho con người đạt tới đức nhân và còn vươn lên thành thánh nhân.
Khổng Tử chia những người có đức nhân thành bậc thánh và bậc nhân. Bậc thánh là
“những người thi ân bố đức cho khắp dân gian và thường trợ giúp cho đại chúng”
(Luận ngữ, Ung Giã, 28).
Với quan điểm nhắc đến chuyện xưa để răn dạy đời nay, nhìn lại lịch sử Khổng
Tử đã xếp những người như Nghiêu, Thuấn, Vũ, v.v…, vào bậc thánh (Luận ngữ,
Thá Bá, 18, 19), những người như Bá Di, Thúc Tề, Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can, Quản
Trọng vào bậc nhân, để người đương thời học tập (Luận ngữ, Hiến vấn, 18)15. Phạm
trù nhân có nội dung khá phong phú và thâm nhập tất cả các lĩnh vực của cuộc sống.
Có lẽ nó là sự kết tinh rực rỡ nhất và cũng phản ánh rõ nét nhất quan điểm đạo đức
của Khổng Tử, xong nhân chỉ dừng lại ở nguyên tắc mang tính phổ quát. Cái cụ thể
của nguyên tắc này là hiếu.

Chữ hiếu được người Trung Quốc nói đến rất sớm. Những bản kim văn như: Đại
Khắc Đỉnh, Trung Đôn, Quốc Khương Ân, Đỗ Bá Sở đã đề cập đến chữ hiếu. Kinh
thi cũng nói về trung hiếu, khắc hiếu, v.v… Ở đây chữ hiếu đã đề cập đến quan hệ
giữa người với người, song nó thuộc đời sống chính hệ, nó như sợi dây nối liền bề
dưới với bề trên, nối liền con người với tổ tiên thần thánh; cịn hiếu với tính cách là
chuẩn mực đạo đức thì như các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã khẳng định, đến đời
Khổng Tử mới hoàn toàn rõ nét16.
Theo Khổng Tử, hiếu có lúc là cội nguồn của nhân và cũng có lúc hiếu với nhân
là một.
Sách Luận ngữ có ghi lại lời của Hữu Tử17 phản ánh tư tưởng hiếu là cội nguồn
của nhân như sau: “Bậc quân tử luôn chú vào việc gốc. Cái gốc vững vàng thì đạo lý
từ đó mà sinh ra. Hiếu, đễ chính là cái gốc của đức nhân đó chăng”
Hiếu theo Khổng Tử là vô vi, vô cải.
- Vô vi là phụng sự cha mẹ không trái với lễ. Cụ thể là “phận làm con khi cha
mẹ còn sống phải phụng sự theo lễ, khi cha mẹ qua đời phải chôn cất theo lễ, khi thờ
cúng phải làm theo lễ”.
- Theo lễ trước hết phải có tâm, có lịng thành. Khơng có tâm, có lịng thành
khơng thể gọi là theo lễ, khơng thể gọi là hiếu. Khổng Tử đã từng nói: “đời nay, hễ
1.

Bá Di và Thúc Tề là con vua nước Cô Trúc, Bá Di là con cả, Thúc Tề là con út. Vua Cô Trúc rất yêu Thúc
Tề nên khi chết đã di chúc nhường ngôi cho ông. Quốc dân tn theo di chúc, nhưng Thúc Tề khơng chịu, vì
theo ông ngôi vua phải truyền cho con cả. Bá Di cũng khơng chịu vì tn theo lời cha. Hai anh em nhường
nhau mãi, cuối cùng đều lên núi để sống. Dân phải lập người con giữa lên.
Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can đều là người nhà Ân. Khi nhà Ân sắp mất Vi Tử là con cả nên sợ mất dịng, khơng
có người nối dõi tơng tộc, đã bỏ nước ra đi. Cơ Tử giả điên để giữ khí tiết chờ ngày nhà Ân được khôi phục,
Tỉ Can bị Trụ Vương kết án tử hình.
Quản Trọng và Thiệu Hốt là gia thần của cơng tử Củ (em vua Tề Hồn Cơng). Khi Tề Hồn Cơng giết cơng tử Củ
để cướp ngơi thì Thiệu Hốt thắt cổ tự tử chết theo, cịn Quản Trọng giúp Hồn Cơng bình định được thiên hạ, khôi phục
lại trật tự xã hội, nên Khổng Tử đã xếp ông vào bậc nhân, làm gương cho người đời soi rọi.

16.
Xem Vi Chính Thơng: Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.249251.
17.
Hữu Tử: Họ Hữu, tên Nhược, tự Tử Nhược, học trò của Khổng Tử.


21

thấy ai ni được cha mẹ, thì người ta khen là người có hiếu nhưng những giống
cầm thú như chó, như ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Chỉ nuôi cha mẹ mà
khơng thành kính thì có khác gì như ni chó ngựa, làm sao có thể gọi là lịng hiếu
thảo” (Luận ngữ, Vi Chính, 7).
Theo lễ là khi cha mẹ cịn sống phận làm con phải ln vui vẻ, không được đi xa,
khi cha mẹ chết, phận làm con tang phải để ba năm, ba năm ấy phải đau khổ đến ăn
không ngon, ngủ không yên và ngay cả trong yến tiệc, hội hè cũng khơng tìm thấy
niềm vui khuây khỏa. Đặc biệt, quan điểm về hiếu của Khổng Tử không phải là
quan điểm một chiều, không phải con cái nhất nhất nghe theo lời cha mẹ. Ông
thường dạy rằng, phận làm con thấy cha mẹ lầm lỗi phải can dán một cách nhẹ
nhàng (Luận ngữ, Bát dật, 18), hoặc quan điểm “cha ra cha, con ra con” của ông
cũng đòi hỏi cha mẹ đối xử với con cái cho đúng đạo của mình.
- Vơ cải là nối chí, nối nghiệp cha, là “ khi cha còn sống phải xem cái chí của
cha, khi cha mất rồi phải xem việc làm của cha để ba năm không được đổi hướng
việc làm ấy…”.
Kẻ có nhân là người tình cảm chân thực, hết lịng vì nghĩa, cho nên có nhân thì
bao giờ cũng hiếu đễ, lễ nghĩa, trung thứ, kẻ bất nhân thì đầy những trí thuật, rất
khơn khéo, linh lợi mà tình cảm đơn bạc khơng thành thực, chỉ vì lợi khơng có lễ
nghĩa, dối trá, gian ác, phản loạn, lừa trên gạt dưới. Bởi thế, Khổng Tử nói rằng:
“Cương, nghị, mộc, nột, cận nhân” (Luận ngữ, Tử Lộ), còn những kẻ “xảo ngơn,
lịnh sắc tiễn hỹ nhân (nói khéo, sửa nét mặt hình dáng bề ngồi là ít có nhân vậy)
(Luận ngữ, Học nhi, 1).

Thông qua việc hướng dẫn con người thực hiện đức nhân, trước hết Khổng Tử
đã chú ý đến việc tự khẳng định mình của mỗi thành viên trong xã hội. Nó cũng cho
thấy một số quan điểm về tính tích cực, về vai trị tự ý thức và tự giáo dục của chủ
thể trong cuộc sống cộng đồng. Việc xác định những nguyên tắc trong quan hệ xã
hội cùng với cách phân loại “luân” thể hiện cái nhìn sắc sảo của Khổng Tử về sợi
dây liên kết nội tại của những con người cá thể với nhau, với gia đình và xã hội.

1.2.2.2. Quan điểm về trí
Trong quan điểm về trí, khi Phàn Trì hỏi về trí Khổng Tử đáp: “Trí là biết
người”. Phàn Trì chưa hiểu thấu, Khổng Tử giảng: “Là dùng người trực, bỏ kẻ gian.
Như vậy có thể giáo hóa kẻ gian thành trực” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 21). Khổng Tử
còn dạy học trị rằng: “Kẻ tìm chỗ ở khơng biết dựng nhà nơi lý18 tốt sao có thể gọi
là người có trí?” (Luận ngữ, Lý nhân,1). Có lần Tể Dư, một mơn đệ của ơng quan
niệm người có đức phải sẵn sàng xả thân cứu người hoạn nạn, hỏi: “Giả sử người
nhân biết có kẻ ngã xuống giếng, nên nhảy xuống cứu chăng?”. Khổng Tử đáp: “
Nên đến đó để tìm cách cứu chứ đừng nhảy xuống mà thiệt thân. Hãy để bị lừa gạt
bởi những điều có lý chứ đừng để bị mê hoặc bởi những điều đần độn” (Luận ngữ,
Ung Giã, 24).
1.

Lý là một nơi khu dân cư có 25 gia đình sinh sống.


22

Như vậy, trí được hiểu như sự minh mẫn nói chung để phân biệt, đánh giá con
người và tình huống, qua đó tự xác định cho mình cách ứng xử cho phải đạo. Nói
chung, theo Khổng Tử phải có trí con người mới vươn tới được đức nhân, nên
không thể là người nhân mà thiếu trí.
Đề cập đến trí, Khổng Tử một mặt tin vào mệnh trời cho rằng tri thức bẩm sinh

là tri thức thượng thặng, là thượng trí, trời sinh ra đã có và khơng biến đổi (Luận
ngữ, Quý Thị, 9). Mặt khác, là thầy của ba ngàn học trị và là người đã xếp trí vào
một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của con người hoàn thiện, Khổng Tử lại
nói rất nhiều đến nguồn gốc khác của trí. Ơng cho rằng trí khơng phải ngẫu nhiên
mà có, nó là kết quả của q trình học hỏi trong đời sống, “Học tức là đến gần với
trí” (Trung Dung, 20). Nếu khơng học thì dù có thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu
muội, phóng đãng, lầm lạc, phản loạn làm biến chất. Ông đã lý giải điều đó cho Tử
Lộ: “Ưa làm điều nhân mà khơng ưa học thì mối hại che lấp là sự ngu muội; ưa trí
xảo mà khơng ưa học thì cái hại che lấp là sự phóng đãng, lầm lạc; ưa dũng cảm mà
khơng ưa học thì mối hại che lấp là sự phản loạn; ưa cương thường mà khơng ưa học
thì mối hại che lấp là sự cuồng bạo” (Luận ngữ, Dương Hóa, 8). Cho nên, để thực
hiện được những điều mong muốn nói trên và để trở thành con người hồn thiện thì
tất phải học.
Mục đích cao nhất của học, theo Khổng Tử là để nhậm chức của triều đình, tham
gia gánh vác công việc quốc gia và để biết kỷ cương của xã hội mà tuân theo. Trong
lúc xã tắc rối ren không ra làm quan không phải là người trí, khơng ra giúp đời
khơng phải là người nhân (Luận ngữ, Dương Hố, 1). Vì vậy, ơng thuờng nói: “Đời
xưa vì mình mà học, cịn đời nay vì người mà học” (Luận ngữ, Hiến vấn, 25). “Giáo
trình” cơ bản của Khổng Tử dùng để khai sáng là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân
thu. Ông quan niệm, bước chân vào một quốc gia có thể biết nền giáo dục ở đó như
thế nào. Nếu dân ơn nhu, đơn hậu thì đó là nền giáo dục đã theo tinh thần của Thư;
nếu dân khiêm nhường, trang trọng thì đó là nền giáo dục đã theo tinh thần của Lễ;
nếu dân cởi mở, sinh hoạt nhẹ nhàng thì đó là nền giáo dục đã theo tinh thần của
Nhạc; nếu dân sống thuận theo đạo trời thì đó là nền giáo dục đã theo tinh thần của
Dịch và nếu dân biết phán xét việc đời thì nền giáo dục đã theo tinh thần của Xuân
thu (Lễ ký, Kinh giải, XXIII, 1, 2, 3)19.
Học trò ông cũng ghi lại nhiều tư tưởng của ông về vai trị của những sách này.
Theo ơng, Thi sẽ giúp người diễn đạt tư tưởng của mình, biện luận với người (Luận
ngữ, Q Thi, 13). Khơng học Thi thì khác nào người đứng quay mặt vào tường, chỉ
thấy bế tắc của đường đi chứ không thấy cái sống động mênh mang của cuộc sống

(Luận ngữ, Dương Hoá, 10). Lễ giúp con người nắm được các quy tắc cư xử, “Ngày
nào mà mình khắc kỷ, phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ cảm hoá mà theo
về đức nhân” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 1).

1.

Xem Nguyễn Văn Thọ: Chân dung Khổng Tử, Nhà sách Khai Trí xuất bản Sài Gịn, 1971, tr. 265 – 267.


23

Vì vậy, nhất thiết phải theo lễ, cái gì khơng hợp với lễ thì khơng nghe, khơng
nhìn, khơng nói và khơng làm. Nhạc thì giúp con người điều hồ tinh khí, di dưỡng
tinh thần (Luận ngữ, Thái Bá, 9).
Là một nhà giáo dục lớn, một mặt Khổng Tử chủ trương dạy cho tất cả mọi
người không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, chủng tộc, “hữu giáo vô loại” (Luận
ngữ, Vệ Linh Công, 30), nhưng mặt khác, ông lại chủ trương đối với dân việc gì cần
thiết thì sai khiến chứ khơng nên giảng giải vì dân khơng có khả năng hiểu ý nghĩa
cơng việc mình làm (Luận ngữ, Thái Bá, 10). Chủ trương giáo dục này xuất phát từ
quan điểm cho rằng nhân cách không phải bẩm sinh, bởi bản chất ban đầu của mọi
người đều giống nhau, song do tác động của môi trường, của điều kiện sống nên thói
quen đem lại cho người tính lành, kẻ tính ác. Vì vậy, giáo dục có thể cải hố tất cả,
trừ những người gọi là thượng trí và những kẻ hạ ngu (Luận ngữ, Dương Hố,3).
Chính vì vậy, Nho gia chủ trương “hữu giáo vô loại” - coi đối tượng giáo dục của
mình là mọi tầng lớp người trong xã hội, không phân biệt sang hèn quý tiện.
Thời này, ở Trung Quốc, muốn có thầy để được dạy dỗ, người xin học phải sắm
lễ vật ra mắt thầy. Lễ vật đã làm khốn khổ nhiều người ham học. Với Nho gia, lễ vật
không thể bỏ qua nhưng: kẻ nào xin nhập môn chỉ cần dâng lên một thúc nem (mười
chiếc) là đủ. Do quan niệm rằng học để làm quan trị vì thiên hạ, nên nội dung giáo
dục của Khổng Tử không đi vào các nghề làm ruộng, làm vườn, cầm quân, đánh trận

mà chuyên dạy cách làm người, dạy đạo lý, dạy nghĩa vụ cuộc đời, dạy tu dưỡng
tinh thần, trau truốt nhân cách và ít nhiều dạy văn chương, nhạc nghệ. Khi Phàn Trì
xin ơng dạy cách trồng cây, thì ơng đã trách rằng: “Gã Phàn Trì chí nhỏ hẹp lắm
thay!”. Người bề trên chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín, thì dân chúng bốn phương sẽ đem
con đến phục dịch mình. Cần chi phải học nghề cày cấy” (Luận ngữ, Tử Lộ, 4). Ông
cho rằng, nghề cày cấy là những nghề nghiệp tầm thường của những người bậc dưới.
Ơng cũng thường giận dữ khi có người muốn bàn về binh đao, chiến trận. (Luận
ngữ, Vệ Linh Công, 1).
Trong q trình giáo dục, Khổng Tử khun học trị nên tự tin ở mình, “khơng
ốn trời, khơng trách người. Về đạo lý thì … khởi học từ mức thấp đến mức cao”
(Luận ngữ, Hiến vấn, 37), và phải biết nghe nhiều, học nhiều để qua đó tìm những
điều hay để học, thấy những điều dở để tránh.
Phương pháp giáo dục của Khổng Tử thể hiện qua một loạt những nguyên tắc
đòi hỏi cả thầy lẫn trò - cả chủ thể giáo dục lẫn khách thể giáo dục phải thực hiện.
Có thể rút ra một số nguyên tắc giáo dục đạo đức cơ bản của Khổng Tử sau đây.
 Nguyên tắc làm gương
Người thầy phải là tấm gương soi để học trị tự mình nhìn lại mình. Những buổi đàm
đạo về chính sự với quan lại triều đình, những lời khun học trò đã đề cập đến và
phần nào đã phản ánh được điều ấy. Sử sách ghi chép về thân thế và sự nghiệp của
Khổng Tử cũng đã chứng minh rằng, trong khi dạy người đời “khắc kỷ, phục lễ vi
nhân”, ơng đã trọn đời theo nó. Trong Tứ thư và những tài liệu đáng tin cậy khác,
Khổng Tử không xuất hiện như một hiền triết siêu phàm mà là một người bình dị, dễ


24

hiểu. Ơng cũng có những lúc mềm yếu, cũng đầy những thành kiến và tham vọng,
nhưng ông kiềm chế để tn theo những phép tắc mà chính ơng truyền giảng.
 Nguyên tắc “thuyết giáo tùy nghi”
Thuyết giáo tùy nghi tức là tùy từng đối tượng, tùy từng hoàn cảnh mà thực hiện

giáo dục. Thực hiện điều này, trước hết Khổng Tử đòi hỏi phải hiểu đối tượng. Hiểu
từ tâm lý, tình cảm đến trình độ, khuynh hướng, v.v. của mỗi người để trên cơ sở đó
xác định nội dung giáo dục cho phù hợp. Hẳn là không phải ngẫu nhiên khi ông
truyền thiên đạo cho Trọng Cung, truyền nhân đạo cho Phàn Trì.
 Ngun tắc định hướng
Ơng địi hỏi sự nỗ lực của người học đi theo hướng của thầy đã vạch ra. Về địi
hỏi này, thơng thường trong khi dạy, Khổng Tử giảng giải từng bước một, trả lời
cho những câu hỏi từng bước một, từ chung chung đến cụ thể tùy theo sự hiểu biết
của người học. Chính điều này tạo điều kiện cho người học phát huy được khả năng
suy lý của mình, như lời bình trong Lễ ký viết: “Thầy dạy chỉ thúc đẩy, chỉ mở lối
soi đường nhưng sự không bức bách, không dẫn dắt đến cùng ấy lại làm cho học trò
thư thái và biết nghĩ, biết suy” (Lễ ký, Học ký XVI,13).
Ơng địi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp của người học để nắm vững phần quan
trọng nhất của vấn đề đã đặt ra. Lời giảng: “Này, Tứ20, sự thông suốt mọi nhẽ của ta
chẳng phải ở chỗ ta học nhiều mà ở chỗ ta để tâm tìm ra đầu mối”, khơng phải chỉ
dành riêng cho Tử Cống mà là yêu cầu đối với tất cả những ai muốn “thông suốt
mọi nhẽ” như ơng. Khổng Tử cũng tìm cách xố bỏ sự thụ động của người tiếp thu
tri thức. Ơng nói: “Kẻ nào khơng cố cơng tìm kiếm, ta chẳng chỉ vẽ. Kẻ nào khơng
bộc lộ được tư tưởng của mình, ta chẳng khai sáng cho. Kẻ nào ta dạy một mà
không biết hai ta chẳng dạy nữa” (Luận ngữ, Thuật nhi, 8). Ơng cho rằng ai khơng
biết tự hỏi: “ Ta phải làm sao? Ta phải làm bằng cách nào? Thời chẳng thể dạy cho
thành đạt” (Luận ngữ, Vệ Linh Công, 15). Ơng bắt học trị phải suy nghĩ, nghiền
ngẫm, “Học mà khơng suy nghĩ thì vơ ích. Suy tư mà khơng học thì kết quả cũng chỉ
bằng khơng” (Luận ngữ, Vi Chính, 15). Ơng thường tâm sự: “Trước đây ta trầm tư
mặc tưởng đến trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ mà cái lợi chẳng đáng là bao”
(Luận ngữ, Vệ Linh Công, 2).
 Nguyên tắc thống nhất giữa học với hành
Học trước hết là để tu thân, để “gần thì biết thờ cha mẹ cho trọn đạo làm con, xa
thì biết thờ đế vương cho trọn đạo quân thần” nên Khổng Tử rất quan tâm đến việc
áp dụng kiến thức sách vở vào trong cuộc sống đời thường của mỗi người. Khổng

Tử ln dạy học trị khơng nên quan tâm đến những vấn đề phi thực tế mà phải đào
sâu, hướng chí vào những điều có liên quan đến cuộc sống của mình. Ơng nói: “Như
có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh Thi, thì được bậc quốc trưởng trao
quyền hành chính cho mình, nhưng cai trị chẳng xuôi; được phái đi sứ đến các nước

1.

Tên của Tử Cống, học trò của Khổng Tử.


25

ở bốn phương, nhưng tự mình chẳng có tài ứng đối, người ấy dẫu học nhiều cũng trở
nên vơ ích” (Luận ngữ, Tử Lộ).
Ngoài những nguyên tắc giáo dục nêu trên, Khổng Tử cũng khuyên con người
nên “ôn cổ tri tân” và phải xác định học hành là công việc trọn đời, không được lúc
nào ngưng nghỉ.
Lịch sử ghi nhận Khổng Tử là một trong những người đầu tiên ở Trung Quốc mở
trường dạy học. Với quan điểm giáo dục của mình, Khổng Tử đã thu hút được số
lượng học trị mà đương thời khơng một nhà tư tuởng hay một trường phái nào có
nổi. Con số ba ngàn học trị của Khổng Tử mà Tư Mã Thiên nói đến trong Sử ký,
không đơn thuần nhằm chỉ một số lượng cụ thể mà chính là để chỉ số lượng học trị
khổng lồ mà ít nhiều đã qua trường ấy.
Từ đối tượng, nội dung đến phương pháp giáo dục của Khổng Tử không phải lúc
nào và ở đâu cũng được trọng dụng, nhưng nhìn chung dấu ấn của nó cịn in đậm
trong lịch sử Trung Quốc cổ đại nói riêng và tồn bộ lịch sử Trung Quốc nói chung.

1.2.2.3. Quan điểm của Khổng Tử về phạm trù dũng
Với phạm trù dũng, Khổng Tử cho đó là lịng can đảm, là sức mạnh để làm chủ
tình thế của con người. Ơng nói rằng: “bậc trí giả chẳng mê hoặc, bậc nhân chẳng lo

rầu, bậc dũng chẳng sợ sệt” (Luận ngữ, Tử Hãn, 27). Học trò của Khổng Tử cho
biết: Đức Khổng Tử không giảng về bốn việc: “quái dị, dũng lực, phản loạn, quỷ
thần” (Luận ngữ, Thuật nhi, 20), vì bàn về qi dị khiến người ta bỏ lẽ thơng
thường, nói về dũng lực tức xúi dục người ta gây gổ, luận về phản loạn khiến người
ta sinh tâm phản nghịch và nói đến quỷ thần ắt đưa người ta đến ám muội, đam mê.
Tuy nhiên, đối với ai đủ phân biệt phải trái thì chính dũng giúp họ thực hiện được lẽ
cơng bằng, nên Khổng Tử để nhân, trí, dũng khơng tách rời nhau. Ơng nói: “Bậc trí
chẳng mê hoặc, nghi lầm, bậc nhân chẳng lo rầu, bậc dũng chẳng sợ sệt” (Luận ngữ,
Tử Hãn, 27), và nếu “thấy việc nghĩa mà chẳng làm, ấy là người khơng có khí dũng”
(Luận ngữ, Vi Chính, 24).
Một tư tưởng rất quan trọng khác trong quan điểm về đạo đức của Khổng Tử là
tư tưởng về mẫu người “quân tử”. Khái niệm “quân tử” khơng xa lạ với người Trung
Hoa cổ đại. Nó có từ thời Chu (khoảng 1100 trước Công nguyên) nhằm chỉ những
người nắm quyền hành trong xã hội. Đối lập với quân tử là “tiểu nhân”, khái niệm
chỉ nhân dân lao động.
Khổng Tử đã dùng hai khái niệm quen thuộc này để xây dựng mẫu người lý
tưởng của mình. Là người sáng lập ra học thuyết “chính danh” và khao khát con
người vươn đến “nhân” để thực hiện được thuyết “chính danh” ấy nên mẫu người lý
tưởng của Khổng Tử chịu sự chi phối của “chính danh” nói chung và của đức nhân
nói riêng.
Với Khổng Tử, quân tử và tiểu nhân cũng đối lập với nhau, song quân tử không
chỉ thuần túy chỉ địa vị xã hội mà chủ yếu chỉ phẩm chất đạo đức mà người đó đã


×