Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Vấn đề giáo dục nhân cách con người trong tư tưởng triết học khổng tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.6 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG - 2008

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CON NGƯỜI TRONG
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ

Chủ nhiệm đề tài:
NGUYỄN VĂN BA
SV. NGHÀNH: TRIẾT HỌC
KHOÁ: 2005 – 2009

TP. Hồ Chí Minh – 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG – 2008

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS: VŨ VĂN GẦU
Chủ nhiệm đầ tài:
NGUYỄN VĂN BA
SV. Nghành: Triết học, Khoá: 2005 – 2009
Các thành viên:


LÊ NGỌC ÁNH
SV. Nghành: Triết học, Khoá: 2005 – 2009
NGUYỄN THỊ BÍCH
SV. Nghành: Triết học, Khố: 2005 – 2009
TP. Hồ Chí Minh – 2008


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1:ĐIỀU KIỆN KINH TỀ - XÃ HỘI TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
NỘI DUNG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
KHỔNG TỬ ..................................................................................................... 9
1.1 Điều kiện kinh tế, xã hội Trung Quốc thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc
....................................................................................................................... 9
1.2 Khái quát về thân thế sự nghiệp và tư tưởng triết học của Khổng Tử
..................................................................................................................... 14
1.3 Những tiền đề lý luận............................................................................ 19
CHƯƠNG 2:MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC NHÂN CÁCH TRONG
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA KHỔNG TỬ ............................................. 25
2.1 Khái niệm về nhân cách và quan niệm về nhân cách trong tư tưởng
triết học của Khổng Tử............................................................................... 25
2.2 Nội dung tư tưởng giáo dục nhân cách trong triết học của Khổng Tử
..................................................................................................................... 28
2.3 Phát huy giá trị trong tư tưởng giáo dục nhân cách của Khổng Tử vào
sự nghiệp giáo dục nhân cách con người ở nước ta trong thời kì hội nhập
..................................................................................................................... 62
KẾT LUẬN..................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 79



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Vấn đề con người đã được đề cập đến nhiều trong lịch sử tư tưởng nhân
loại, đặc biệt là ở các triết gia Phương Đông. Từ thời cổ đại các nhà tư tưởng đã
đề cập đến vấn đề bản chất con người, vai trị quan trọng của con người trong thế
giới nói chung, cũng như trong tiến trình lịch sử nói riêng. Chính vì thế ngay từ
thời cổ đại các tư tưởng gia Phương Đông đã đặc biệt chú trọng tới nhân cách
con người, xem vấn đề giáo dục nhân cách con người như một nhiệm vụ chính
yếu trong việc xây dựng một xã hội yên bình, thịnh trị .
Trong giai đoạn hiện nay, với những quốc gia kém phát triển và ít tài ngun
thiên nhiên thì chỉ có phát triển nguồn nhân lực mới là giải pháp tốt và ngắn nhất
để đưa đất nước tiến lên cùng nhân loại và thời đại. Đối với nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt khi chúng ta đã là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO thì vấn đề con người nói chung và vấn đề giáo dục
hồn thiện nhân cách con người nói riêng đã trở thành vấn đề cực kỳ quan trọng
và cấp thiết trong chiến lược sử dụng và phát huy mọi nguồn nhân lực để phát
triển đất nước thời kỳ hội nhập trong đó đặc biệt là vấn đề sử dụng và đào tạo
nguồn nhân lực con người trở thành vấn đề chính yếu và có vai trị quyết định sự
thành bại của chúng ta trong công cuộc xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Do đó vấn đề giáo dục con người nói chung và vấn đề giáo dục nhân cách
nói riêng, ln được Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta quan tâm hàng đầu, xem đó
là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược.
Nhận thức rõ vai trị và tầm quan trọng đặc biệt không thể thiếu được của vấn đề
giáo dục nhân cách con người, Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta đã tập trung huy
động toàn bộ mọi lực lượng xã hội tham gia vào chiến lược giáo dục và đào tạo
con người mới, trong đó việc phát huy truyền thống hiếu học và phát huy một
cách sáng tạo các giá trị tinh hoa của nhân loại luôn được đề cao.



2

Thời kỳ hội nhập và những biến động của nó một mặt đã thể hiện quá trình
phát triển của xã hội nhưng mặt khác nó cũng đang bộc lộ những mặt trái của nó
mà trong đó đặc biệt là mối quan hệ giữa người với người đang bị suy đồi
nghiêm trọng như vấn đề nhân cách, vấn đề đạo đức nhân sinh…Đó thực sự
đang là hồi chng cảnh báo về băng hoại lễ nghĩa cương thường của con người.
Do đó vấn đề giáo dục và hoàn thiện nhân cách, đạo đức nhân sinh cho con
người đang được đặt ra một cách cấp thiết.
Chính vì vậy khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng giáo dục của nhân loại thì bên
cạnh rất nhiều nhà giáo dục lớn, Khổng Tử đã nổi lên với học thuyết giáo dục
con người. Với học thuyết của mình Khổng Tử đã đặt nền móng cho ln lý giáo
dục ở Trung Quốc thời cổ đại với một hệ thống chặt chẽ nhằm đem lại một xã
hội lý tưởng.
Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập thuận lợi có nhiều nhưng khó khăn
cũng khơng ít. Chính vì vậy vấn đề giáo dục nhân cách con người ở Việt Nam là
điều vô cùng quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị nhân văn của dân
tộc và quan trọng hơn hết là có những con người đủ đức và tài nhằm đưa đất
nước tiến lên sánh vai cùng nhân loại và thời đại. Vì vậy Đại hội lần thứ IX
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu tổng quát về đường lối phát triển
là: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
hội nhập quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh
tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện
môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an
ninh” . Cũng trong lời khai mạc hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương

đảng khố (VIII), đồng chí tổng bí thư đã khẳng định: “phấn đấu tạo điều kiện



Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr. 24


3

cho nền giáo dục nước ta đi trước một bước thích hợp so với phát triển kinh tế”.
Do đó nếu chúng ta biết tiếp thu và kế thừa các giá trị trong tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử sẽ là điều rất bổ ích và thiết thực trong chiến lược đào tạo người
Việt Nam mới.
Đó cũng là lý do thúc đẩy chúng tơi nghiên cứu đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Triết học của Khổng Tử nói chung và tư tư tưởng giáo dục của ơng nói riêng
đã được một số nhà khoa học trong nước đề cập nghiên cứu. Có thể khái quát tác
phẩm nghiên cứu thành hai nhóm sau:
Nhóm 1: Đó là các tác phẩm nghiên cứu về lịch sử văn hóa phương Đơng nói
chung và lịch sử triết học Trung Hoa nói riêng, trong đó đề cập đến tư tưởng của
Khổng Tử trong đó có vấn đề giáo dục, các tác phẩm tiêu biểu là:
Tác phẩm Lịch sử triết học phương Đông của Nguyễn Đăng Thục, Nxb.TP. Hồ
Chí Minh, 1991, tập 2 từ chương 2 đến chương 8.Tác giả đã tập chung trình bày
triết lý của Khổng Tử về vũ trụ nhân sinh quan. Tập 4 phần triết trung Nho giáo
tác giả đã khái quát vũ trụ nhân sinh quan, triết học đạo đức trong tư tưởng của
Khổng Tử.
Tác phẩm Đại cương triết học Trung Quốc quyển 1,2 của Giản Chi, Nguyễn
Hiến Lê, Nxb.TP. Hồ Chí Minh, 1992, tác giả đã phân tích một cách sâu sắc
những nguyên lý cơ bản của tư tưởng của Khổng Tử trong sự đan xen, so sánh

giữa các học thuyết triết học Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử.
Tác phẩm Tích hợp văn hóa Đơng Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai
của Nguyễn Hoàng Phương, Nxb giáo dục, Hà Nội, 1995, bằng phương pháp
tiếp cận khoa học đặc biệt là toán học, tác giả đã chứng minh sự huyền bí đặc sắc
của kinh dịch - kho tàng triết học phương Đông. Qua chứng minh trên tác giả
cho thấy sự tích hợp của đa văn hóa Đơng Tây và định hướng cho một số vấn đề
cụ thể trong một chiến lược giáo dục tương lai.


4

Tác phẩm Phương Đơng gợi những điểm nhìn tham chiếu của Cao Xuân
Huy, Nxb.Văn Học, 1995, phần thứ nhất chủ tồn và chủ biệt, hai ngã rẽ trong
triết học Đơng - Tây, tác giả đã trình bày sự khác nhau cơ bản giữa triết học
Phương Đông Và Triết học phương Tây. Phần thứ hai tác giả đã phân tích những
nội dung cơ bản tư tưởng của Khổng giáo thời cổ đại.
Tác phẩm Lịch Sử Triết học Trung Quốc của Hà Thúc Minh, Nxb. TP.Hồ Chí
Minh, 1996, chương 1 phần 2, 4, 6 và chương 2 phần 2, tác giả đã phân tích
những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học của Khổng Tử.
Tác phẩm Đại cương triết học Trung Quốc của Dỗn Chính (chủ biên). Nxb
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1977, chương 2 phần 2, Nho giáo và triết học
Khổng Tử, tác giả đã phân tích những điều kiện lịch sử xã hội làm nảy sinh
những học thuyết triết học Trung Quốc, đồng thời trình bày có hệ thống những
quan điểm triết học của Khổng giáo, sự kế thừa và phát triển của tư tưởng triết
học Khổng Tử qua các giai đoạn lịch sử.
Tác phẩm Đạo Đức Phương Đơng cổ đại của Vũ Tình, Nxb. Chính Trị Quốc
Gia. Hà Nội, 1998, chương 1, phần 1, tác giả đã phân tích những mặt tích cực và
han chế của đạo đức trong tư tưởng triết học của Khổng Tử trong tổng thể đạo
đức chung của Phương Đơng.
Nhóm 2: một số tác phẩm nghiên cứu những nguyên lý cơ bản trong tư

tưởng triết học của Khổng Tử, quá trình du nhập tư tưởng của Khổng giáo vào
Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam như :
Tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu, Nxb. Anh Minh, Huế,
1957. Tác giả đã đúc kết những tinh hoa của Khổng Học và nêu rõ những bước
thăng trầm của Khổng học qua các triều đại Trung Quốc. Đồng thời chứng minh
bản thân tư tưởng Khổng Học mang tính nhân bản sâu sắc.


5

Tác phẩm Nho giáo của Trần Trọng Kim, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992.
Tác giả đã trình bày có hệ thống những nội dung cơ bản của triết học Khổng Tử
từ thời Khổng Tử đến thời kỳ nhà Thanh.
Tác phẩm Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, Nxb. Văn Hóa, 1994, tác
giả đã phân tích khá sâu sắc những nội dung cơ bản của tư tưởng Khổng Giáo và
ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.
Tác phẩm Nho giáo và phát triển nho giáo ở Việt Nam của Vũ Khiêu, Nxb.
khoa học xã hội, 1997, tác giả đã phân tích rõ sự du nhập và phát triển của
Khổng giáo ở Việt Nam, đặc biệt là vấn đề cần phải khai thác Khổng giáo trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay, qua đó chỉ rõ kinh nghiệm vận dụng Khổng giáo của
các nước Nhật Bản và Singapore.
Tác phẩm Nho học và nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư, Nxb. Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội, 1977, tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản của Nho
học và vai trị của nó trong lịch sử và hiện tại ở Trung Quốc, Việt Nam. Tác giả
nêu rõ cần phải phát huy truyền thống Khổng học để xây dựng con người trong
giai đoạn cơng nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Tác phẩm một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam của Phan Đại Dỗn, Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1998, tác giả phân tích rõ sự tồn tại và phát triển
của Khổng Giáo ở Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX đồng thời vạch rõ
những yếu tố hợp lý của nó cần được tiếp tục khai thác, phát huy trong quá trình

xây dựng xã hội mới.
Ngồi ra cịn nhiều tác phẩm của các nhà khoa học nước ngoài nghiên cứu về
tư tưởng triết học của Khổng Tử như:
Tác phẩm Lịch sử văn minh Trung Hoa của Will Durant, Trung Tâm Thông
Tin Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, 1990, (Nguyễn Hiến Lê dịch), trong
chương một phần hai, tác giả đã lý giải những tư tưởng của Khổng Tử, coi đó là
sự đóng góp quý báu trong lịch sử văn minh Trung Quốc.


6

Tác phẩm Nho giáo với Trung Quốc ngày nay của Vi Chính Thơng (sách
tham khảo), Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996, tác giả đã phân tích những
nguyên lý cơ bản của Khổng Giáo đồng thời vạch rõ mặt tích cực và hạn chế của
nó trong xã hội Trung Quốc hiện nay.
Tác phẩm Đại cương triết học sử Trung Quốc của Phùng Hữu Lan (Pung Yu
Lan) , (bản dịch Nguyễn Văn Đương), Nxb. Thanh Niên, trung tâm nghiên cứu
quốc học, 1999, trong chương 4 tác giả đã phân tích những quan niệm cơ bản
của Khổng Tử. Ngồi ra cịn một số tác phẩm khác nữa .
Các tác phẩm của các nhà khoa học trong và ngoài nước thường chỉ dừng lại ở
các vấn đề như : Nội dung cơ bản của học thuyết triết học của Khổng Tử hoặc đi
sâu vào một số vấn đề cụ thể hoặc tìm hiểu ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo
trong từng giai đoạn lịch sử của xã hội Việt Nam .Trong đó vấn đề nhân cách và
giáo dục hoàn thiện nhân cách con người chưa được đề cập hoặc đề cập không
chuyên sâu, do đó đề tài khơng mong muốn sẽ bao quát toàn bộ nội dung tư
tưởng của Khổng Tử mà chỉ làm rõ quan niệm của Khổng Tử về giáo dục và
hồn thiện nhân cách con người .Từ đó xem xét và liên hệ với Việt Nam để có
giải pháp thiết thực hơn .
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Mục đích của đề tài: làm rõ quan niệm của Khổng Tử về vấn đề giáo dục

hoàn thiện nhân cách con người từ đó xem xét vai trị và ảnh hưởng của nó đối
với xã hội Việt Nam.
Nhiệm vụ: Lý giải quan niệm của Khổng Tử về vấn đề giáo dục nhân cách
con người. Xem xét Khổng Tử đã giải quyết vấn đề giáo dục nhân cách con
người ra sao? Từ đó nhóm tác giả cố gắng chỉ ra những yếu tố tích cực nhằm vận
dụng vào giải quyết một số thực trạng nhân cách, đạo đức ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:


7

Để nghiên cứu đề tài nhóm tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đặc biệt là lý luận về vấn đề nhân
giáo dục nhân cách con người.
Phương pháp nghiên cứu: Dùng phương pháp sưu tập, so sánh, phân tích,
tổng hợp nhằm tìm hiểu quan niệm của Khổng Tử về vấn đề giáo dục nhân cách
con người.
5. Đóng góp mới của đề tài:
Luận giải quan điểm giáo dục nhân cách của Khổng Tử để trên cơ sở đó
phân tích và xem xét những mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử tạo cơ sở cho việc xây dựng chính sách và đường lối giáo dục thích
hợp hơn ở nước ta hiện nay.
Từ thực trạng xã hội ta qua phân tích sẽ xem xét vai trị và ý nghĩa của tư
tưởng đó nhằm vận dụng vào chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới.
6 . Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
Lý Luận: Góp phần làm rõ quan niệm của Khổng Tử về vấn đề giáo dục
nhân cách của con người, ảnh hưởng của vấn đề này đối với xã hội Việt Nam
mới.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về triết học, xã hội
học, giáo dục học…

Thực Tiễn: Từ lý luận trên nhóm tác giả sẽ cố gắng chỉ ra những vấn đề góp
phần tạo ra nội lực nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội thơng qua việc giải
quyết đúng đắn vai trị và ảnh hưởng của vấn đề giáo dục nhân cách con người
trong tiến trình xây dựng đất nước.


8

7 . Kết cấu:
Phù hợp với mục đích và nhiệm vụ đã nêu đề tài được kết cấu gồm: Phần
mở đầu, 2 chương, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phần phụ lục.


9

CHƯƠNG 1:ĐIỀU KIỆN KINH TỀ - XÃ HỘI TIỀN ĐỀ HÌNH
THÀNH NỘI DUNG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH TRONG TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ
Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì tư tưởng con người cũng được
xem như là biểu trưng của tinh hoa, tinh thần của thời đại đó. Sự ra đời của một
học thuyết một tư tưởng đều khơng phải là sự ngẫu nhiên mà chính là kết quả
phản ánh những điều kiện lịch sử xã hội và cũng chính là sự kế thừa của những
học thuyết lý luận trước đó nó khơng ra đời trên mảnh đất trống không mà bao
giờ cũng trên mảnh đất hiện thực kế thừa những giá trị hợp lý tinh túy của thời
đại củ. Ph. ĂngGhen đã nhận xét: Tư tưởng lý luận của thời đại là sản phẩm của
một thời kì lịch sử do đó trong những thời đại khác nhau thì nó cũng có hình
thức hồn tồn khác nhau chính vì vậy mà cũng có nội dung hồn tồn khác
nhau.
Như vậy có thể nói rằng tư tưởng của con người chính là sản phẩm của thời
đại, là sự phản ánh thời đại lịch sử nhất định. Nó chịu sự quy định và chi phối

của thời đại và triết học của Khổng Tử cũng khơng nằm ngồi sự quy định ấy,
chính vì vậy để tìm hiểu tư tưởng giáo dục nhân cách của Khổng Tử thì chúng ta
khơng thể khơng tìm hiểu những điều kiện kinh tế chính trị xã hội và tiền đề lý
luận tôn giáo cho sự ra đời của tư tưởng giáo dục nhân cách trong triết học
Khổng Tử.
1.1 Điều kiện kinh tế, xã hội Trung Quốc thời kì Xn Thu - Chiến Quốc
Lịch sử xã hội ln là tiền đề quan trọng để cho những tư tưởng triết học
phát triển. lịch sử triết học Trung Quốc luôn gắn liền với dòng lịch sử xã hội
Trung quốc. Lịch sử triết học cổ đại Trung Quốc cũng là lúc xã hội Trung Quốc
bước vào thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Đây cũng là thời kỳ tan rã của chế độ
chiếm hữu nô lệ bắt đầu thời kỳ phong kiến sơ kỳ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã
tồn tại và phát triển từ triều nhà Hạ sang thời nhà Thương đến cuối thời Tây Chu
thì bắt đầu khủng khoảng và tan rã. Xã hội Trung Quốc trải qua thời kỳ giao thời
chuyển từ chế độ tông tộc sang chế độ gia trưởng, giá trị tư tưởng, đạo đức cũng


10

bị băng hoại, nhưng giá trị tư tưởng còn manh nha và đang trên con đường xác
lập. sự biến đổi toàn diện trong xã hội trên tất cả các mặt về kinh tế, văn hóa,
chính trị đã tạo tiền đề cho con người thoát khỏi sự chi phối của thế giới thần
thoại tơn giáo, thần bí truyền thống, cũng chính bởi vậy mà những tư tưởng triết
học cũng bị ảnh hưởng và chịu sự chi phối.
Lịch sử Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu có nhiều chuyển biến sâu sắc xảy ra ở
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nền kinh tế thời kỳ này chuyển biến từ
thời đại đồ đồng sang thời kỳ đồ sắt, có nhiều tiến bộ trong việc cải tiến công cụ
và kỹ thuật sản xuất nơng nghiệp. Trong nơng nghiệp có nhiều cải tiến về kỹ
thuật cũng như phương pháp canh tác và kỹ thuật thủy lợi nên năng suất lao
động đã tăng lên. Chế độ tỉnh điền đã bị thay thế bằng chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, cùng với nó là những chính sách thuế mới. Cơng cụ sắt trở nên phổ

biến, việc mở rộng quan hệ sản xuất trong thủ cơng nghiệp đã đạt mức chun
mơn hóa cao, thúc đẩy các nghành thủ cơng nghiệp phát triển. Ngồi nơng
nghiệp và thủ cơng nghiệp phát triển thì thương nghiệp cũng phát triển hơn
trước, tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội hình thành thêm tầng lớp thương nhân
ngày càng có thế lực, sự hình thành của thương nghiệp đã tạo ra trong xã hội một
tầng lớp mới. Từ tầng lớp này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới với thế lực
ngày càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Tình hình chính trị xã hội có nhiều thay đổi. nếu như thời Tây chu chế độ
tông pháp, “phong hầu kiến địa” vừa có giá trị ràng buộc về kinh tế vừa có giá trị
tích cực làm cho nhà Chu giữ được một thời kỳ dài hưng thịnh thì đến thời kỳ
Xn thu chế độ tơng pháp nhà Chu khơng cịn được coi trọng, mối quan hệ giữa
thiên tử với các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, quan hệ huyết thống ngày
càng xa trật tự lễ nghĩa nhà Chu không cịn được như trước. Các nước chư hầu
mượn cớ khơi phục địa vị tông pháp nhà Chu đề ra khẩu hiệu “ tôn vương bài
di”, đua nhau động binh để mở rộng thế lực đất đai, bờ cõi, thơn tính các nước
nhỏ, tranh nhau giành bá chủ thiên hạ. Trong hàng ngàn nước lớn nhỏ thì nổi lên
mạnh nhất là các nước Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngơ, Việt, Tần. Tình hình chính trị
thời Xn thu có nhiều rối ren, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ngày càng


11

nhiều, thêm vào đó là các lãnh chúa ra sức bóc lột nhân dân, nhân dân phải chịu
phu phen nơ dịch thuế khóa nặng nề, cộng thêm thiên tai hồnh hành làm cuộc
sống người dân trở nên điêu đứng cùng cực, khốn đốn, người dân phải sống lưu
vong “ đồng trong ruộng ngồi bỏ hoang” khơng cịn xa lạ.
Xã hội thời kỳ này có nhiều rối ren, mâu thuẫn trong xã hội ngày trở lên gay gắt,
chế độ tông pháp nhà chu cũng bị coi thường. Việc các nước thôn tính lẫn nhau
cũng như sự bóc lột của các lãnh chúa tàn khốc nhân dân không chỉ dẫn sự diệt
vong của các nước nhỏ mà còn dẫn đến sự phá hoại lễ nghĩa tông pháp nhà Chu,

phá hoại trật tự triều hội, triều cống. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên đỉnh
điểm, sự rối loạn trong xã hội ngày càng tăng, tình trạng lễ nghĩa cương thường
bị suy đồi biểu hiện thành những tệ nạn xã hội như “tiếm ngơi việt vị” cùng với
đó là chế độ triều cống cũng bị các nước chư hầu tự ý phá bỏ. Thậm chí các nước
lớn mượn danh hiệu thiên tử bắt các nước nhỏ cống nạp và lệ thuộc vào mình.
Trong xã hội cùng cực của người dân đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa nông dân
và nô lệ để chống lại sự bóc lột của các vương hầu lãnh chúa. Cuộc sống của
người dân thì ngày càng cùng cực trong khi đó thì cuộc sống của các lãnh chúa
q tộc quá xa hoa điều này đã đẩy mâu thuẫn xã hội lên cao, đưa chế độ chiếm
hữu nô lệ Trung Quốc lao nhanh đến giờ phút cáo chung. Trong thời kỳ Xuân
Thu ngoài các cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực giữa các nước nhỏ thì
trong nước cũng thường xuyên xảy ra những cuộc tranh giành quyền lực giữa
các quý tộc. Ở nước Tấn năm 403 TCN ba dòng họ Hàn, Trệu, Ngụy đã phế bỏ
vua Tấn lập lên ba nước Hàn, Triệu, Ngụy vào thời kỳ Chiến Quốc. Ở Trung
Quốc đã diễn ra cục diện thất hùng, bao gồm các nước Tề, Sở, Yên,Tần, Hàn,
Triệu, Ngụy thường xuyên diễn ra tranh chấp, thậm chí những cuộc chiến cịn
diễn ra khốc liệt hơn thời Xuân Thu, các nước tiến hành tranh giành bá chủ
thiên hạ.
Trong xã hội thời Chiến Quốc đã có nhiều bước phát triển về kinh tế, nghề luyện
sắt đạt tới trình độ cao, có nhiều trung tâm luyện sắt sản xuất thủ công nghiệp
cũng phát triển, tiền tệ ra đời, trao đổi bn bán hàng hóa rất hưng thịnh có nhiều
thành đơ sầm uất, tuy nhiên chiến tranh diễn ra liên miên càng làm cho đời sống


12

nhân dân trở lên cùng cực. Sự phát triển kinh tế hàng hóa đã làm cho cơng xã
nơng thơn tan rã, chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quyền
thống trị. Ruộng đất tập trung vào tay lãnh chúa và địa chủ giàu có, người dân
bây giờ chỉ là người làm thuê, mâu thuẫn giai cấp mâu thuẫn xã hội ngày càng

trở nên gay gắt, giai cấp thống trị đã đưa ra những biện pháp nhằm ngăn chặn
nguy cơ đảo lộn trật tự xã hội, chính vì vậy mà đã diễn ra phong trào biện pháp ở
một loạt các nước như Ngụy, Triệu, Hàn, Tề, Tần… suốt thời Chiến Quốc.
Trong thời Chiến Quốc khoảng năm 362TCN, nước Tần đã nổi là nước mạnh
nhất trong thất hùng với một nền chính trị vững mạnh và chế độ cai trị Pháp trị.
Tần Hiếu Công chú trọng phát triển nông nghiệp và chuẩn bị binh bị. Những
cuộc cải cách của Thương Ưởng vào những năm từ 359 – 350 TCN về tất cả các
mặt kinh tế, tổ chức hành chính, pháp luật, tiền tệ, thuế má, chế độ khen thưởng
đã làm cho quan hệ gia trưởng và công xã nơng thơn ở nước Tần hồn tồn tan
rã. Cục diện thời Chiến Quốc nảy ra những thủ đoạn quân sự ngoại giao giữa các
nước để đối phó với nhau gọi là thuật “ hợp tung” và “ liên hoành . Nước Tần lần
lượt đánh bại sáu nước chư hầu vào năm 221 TCN – Đế Chế Tần – hình thành
nhà nước trung ương tập quyền đây cũng là nhà nước trung ương tập quyền đầu
tiên ở Trung Quốc, chế độ chính trị của nước Tần gắn liền với tư tưởng triết học
lúc bấy giờ là trường phái Pháp Gia, đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử. Nhà Tần đã
thống nhất Trung Hoa. Nhà Tần đã thực hiện nhiều chính sách chính trị hà khắc
để đạt được mục đích thống nhất về tư tưởng, chính trị trong xã hội, chủ trương
thực hiện chôn Nho đốt sách ( phần thư khanh Nho) cấm tất cả các sách, học
thuyết đương thời chỉ cho giữ lại và truyền bá những sách về y học, chim tinh,
nơng học. Chính vì vậy mà những sách của Nho gia hầu hết đã khơng cịn. Nhà
Tần áp dụng hầu hết các chính sách bạo lực tàn bạo, cùng với những cuộc chinh
chiến liên miên, xây dựng thành lũy nhà Tần đã dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng.
Cùng với thực tiễn lịch sử xã hội, những tri thức về khoa học, văn hóa phát triển
khá phong phú của nhân dân Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc như thiên
văn, địa lý, cơ học, y học, sinh vật học, văn học …đã góp phần khơng chỉ thúc


13

đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển mà cịn là những tiền đề cho sự hình

thành những tư tưởng triết học.
Về Thiên Văn: Từ rất sớm người Trung Quốc đã biết được 800 vì sao cùng với
việc sử dụng La bàn phát hiện được các hành tinh. Theo vị trí mặt trời đối chiếu
với các
“ túc” người ta phân biệt được các tiết của một năm: Lập xuân, xuân phân, lập
thu, thu phân, lập hạ, hạ chí, lập đơng, đơng chí.
Trên Lĩnh Vực Y Học: Thời kỳ này các bác sỹ Trung Quốc đã biết giải phẫu cơ
thể, biết hệ thống tuần hoàn và cơ quan nội tạng khá rõ. Đồng thời biết áp dụng
các phương pháp như châm cứu, bấm huyệt, sắc thuốc bằng lá cây, các thuật giữ
gìn sức khỏe …phát triển sớm.
Về Tốn Học: Tốn học phát triển khá sớm biết tổng bình phương cạnh huyền
bằng tổng bình phương hai cạnh góc vng, và tính được diện tích các hình, biết
các phép trước.
Về Nơng Học Và Sinh Vật Học: Người Trung Quốc đã tìm hiểu được rất nhiều
loại cây, sự hiểu biết tri thức sinh học rất phong phú – Trong nông nghiệp người
trung quốc đã sớm có những phương pháp chuyên canh, kỹ thuật canh tác sản
xuất như: cải tạo đất, dẫn thủy nhập điền.
Về Văn Học: Thời nhà Tần đã có nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng trong đó phải
kể đến các tác phẩm: kinh thi, sở từ. Những tác phẩm văn học đã phản ánh tình
hình chính trị, kinh tế, phong tục tập quán, đời sống, tính chất, nguyện vọng của
người dân Trung Quốc.
Sử Học: Người Trung quốc đã sáng tạo ra nhiều bộ sử có giá trị như bộ Xuân
Thu, bộ biên niên sử xưa nhất thế giới có nhiều giá trị cả về mặt lịch sử và triết
học. Đương thời có nhiều nhà sử gia nhưng tiêu biểu đó là Tư Mã Thiên (146 –
86 TCN). Bộ sử ký của ông đã tường thuật lại xã hội Trung Quốc thời Xuân
Thu – Chiến Quốc một cách sinh động và hiện thực. Ngồi ra bộ sử ký cịn cho


14


thấy được giá trị về mặt triết học đó là giúp chúng ta thấy và hiểu được sự tồn tại
và phát triển của các trường phái triết học cổ đại Trung Hoa lúc bấy giờ.
Trên đây là những tiền đề để hình thành và phát triển của những tư tưởng triết
học Trung Hoa nói chung và triết học Khổng Tử nói riêng. Tư tưởng của Khổng
Tử được hình thành ở thành ở thời kỳ Xuân Thu, khi đó xã hội Trung Quốc chưa
có nhiều mâu thuẫn, nền chính trị vẫn cịn là lễ trị chưa có pháp trị nên có điều
kiện để thuận lợi để phát triển. Hầu hết những tư tưởng của Khổng Tử đều phù
hợp với nền chính trị lúc bấy giờ, những tư tưởng này đều được các nho sĩ đương
thời học hỏi, Đạo Nho phát triển và trở thành luân lý xã hội lúc bấy giờ.
1.2 Khái quát về thân thế sự nghiệp và tư tưởng triết học của Khổng Tử
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh năm 551 TCN (đời Chu
Linh Vương) tại làng Xương Bình huyện Khúc Phụ, nước Lỗ. Cha ông là Thúc
Lương Ngột, một võ quan già, triều nước Lỗ. Mẹ là Nhan Trưng hay còn gọi là
Nhan Thị. Cha ông mất từ khi ông lên 3 tuổi. Từ khi cha mất gia đình ơng sống
trong cảnh bần hàn. Thưở nhỏ ngài thích chơi đồ cúng tế, biểu lộ bản tính trọng
lễ nghĩa. Ngài chú trọng vào việc học ngay từ lúc 15 tuổi và nổi tiếng là người
học giỏi, học rộng biết nhiều. Năm 19 tuổi ông lấy vợ và sinh một con trai. Ông
làm ủy lại coi việc cân đong thóc trong kho và làm Tư chức lại coi việc ni bị,
dê để dùng việc cúng tế. Năm 22 tuổi, Khổng Tử bắt đầu dạy học. Năm 33 tuổi,
Khổng Tử đến nước Chu để khảo sát tế lễ ở miếu đường. Ít lâu sau lại trở về
nước Lỗ, gặp lúc loạn lạc Khổng Tử bỏ qua Tề, ít lâu sau lại trở về nước Lỗ.
Năm 53 tuổi, Khổng Tử được vua Lỗ ra làm Trung đơ tế (quan coi ấp Trung đơ).
Thời gian này chính đạo của Khổng Tử được rất nhiều nơi sử dụng làm pháp độ.
Về sau Khổng Tử được phong làm đại tư khấu rồi nhiếp tướng bộ coi việc hình
yên, ấn định luật lệ, phép tắc trong nước trong bốn năm nhậm chức Khổng Tử đã
thẳng tay trừng trị bọn loạn quan, nịnh quan trong triều đem lại trong nước Lỗ
cảnh “ban đêm ngủ khơng phải đóng cửa, ban ngày ra đường không ai nhặt của
rơi, luân thường đạo lý được coi trọng”. Nhưng vua nước Lỗ đam mê tửu sắc,
đàn hát ca múa sa hoa, bỏ bê việc triều chính nên Khổng Tử chán nản bỏ qua



15

nước Vệ, không được trọng dụng ở Vệ, qua Tần, về Vệ, sang Tống, qua Tần rồi
lại về Vệ. Mười bốn năm ơng cùng học trị bơn ba mong gặp người sử dụng học
thuyết chính trị của mình nhưng ý nguyện của ông không thành. Trở lại nước Vệ
lần cuối cùng ở năm sáu năm ông mới thực sự thấy bất lực việc làm chính trị, sau
ơng đã trở về nước Lỗ dạy học san định các sách vở thời trước. Tương truyền
rằng học trị của ơng đến ba ngàn người và khi ơng mất có người đã để tang ông
sáu năm, hàng trăm người làm nhà lập cứ bên phần mộ của ông, tạo thành làng
Khổng. Đương thời Khổng Tử chú trọng vào việc giáo hóa con người từ cá nhân
sang lĩnh vực gia đình, xã hội.
Con người Khổng Tử rất mực khuôn phép, nghiêm chỉnh, đức độ, luôn biết quan
tâm chia sẻ nỗi buồn với người khác, yêu thương mọi người. Đối với chính mình
ln ham học, biết nhận xét khả năng của mình chăm chỉ tu tâm và sống theo
mệnh trời. Như vậy mà Khổng Tử rất khiêm tốn, khơng bao giờ nhận mình là
thánh nhân. Nhược thánh dữ nhân, tắc ngộ khởi cảm, ức vi chi bất yến, hối nhân
bất quyện, tắc kha vi văn nhi dĩ kỳ: “Vi là bằng thánh, là nhân, thì tơi khơng
dám, làm theo đó khơng chán, dạy người khơng mơi, có thể được như thế mà
thơi” (Thuật Nhi).
Kinh sách của Khổng Tử
Đương thời Khổng Tử san định sách Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của đời trước để
lại và viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Nhiều quan điểm của
ông được thể hiện qua các cuộc đàm đạo mà nội dung của nó sau này được trình
bày trong luận ngữ do học trị của ơng chép lại. Sau khi Khổng Tử mất thì kinh
sách của Khổng Tử khơng cịn được giữ lại bao nhiêu bởi chính sách: “Phần thư
khanh nho” của Tần Thủy Hoàng. Sách của được người đương thời bổ sung tạo
thành Ngũ kinh, Kinh dịch, nguyên là sách giải thích sự vận hành của vũ trụ
dùng để bói những điềm lành, dữ trong cuộc sống của con người. Theo người
Trung Hoa thượng cổ, trời đất có âm dương tương tác tạo ra sự sinh hóa, do quỷ

thần can thiệp nên âm dương lúc ẩn lúc hiện. Con người phải dùng mai rùa hay
cỏ thi để xem ý của quỷ thần như thế nào mà hành động cho thuận lợi. Khổng Tử


16

đã mất nhiều thời gian để nghiên cứu dịch, sách dịch, giải thích ý nghĩa của sách
dịch, viết thêm một số thiên, tạo nên cơ sở tương sinh quan của kinh dịch.
Kinh Thư: là bộ sách về lịch sử các vua chúa từ đời Nghiêu đến đời Tần Mục
Công (khoảng năm 2350 TCN – 620 TCN). Bộ sách này trình bày tỉ mỉ hoạt
động đường lối tư tưởng người cổ về tiếp nhân xử thế, đề cao phương pháp trị vì
thiên hạ bằng đạo lý, thuận thiên thời, thuận thủy thổ, thuận nhân tâm, thuận
lòng dân mà các thánh vương Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang ngày xưa đã sử dụng.
Kinh Thi: là bộ sách chép những bài ca, bài ca dao, (những bài hát có vần điệu
dùng trong việc tế lễ, hiếu hỷ và những bài hát truyền miệng ở các vùng thôn dã)
của người Trung Hoa cổ đại. Những bài ca dao vừa bộc lộ niềm tin vào thượng
đế, ước nguyện sâu xa của thánh hiền thời cổ được phối kết hợp siêu nhiên, vừa
phác họa mọi khía cạnh về cuộc sống và các hạng người trong xã hội. Đây là
những cảnh trai thanh gái tú mượn hoa lá, trăng sao để nói lên tình u thương
tha thiết hay sầu bi khắc khoải, những cảnh thanh bình đồn tụ hay chinh chiến
phân ly. Những cảnh minh qn một lịng vì nước hay bạo chúa loạn dâm, những
tấm gương về dâu hiền con thảo, anh em cốt nhục vẹn tình, vợ chồng thủy chung
son sắc…Ơng thường nói với học trị rằng: Kinh Thi làm cho mình hưng tâm
khởi trí, nhờ nó mà biết hợp quần xã hội. Kẻ đọc Kinh Thi gần thì biết thờ cúng
cha mẹ, xa thì biết phụng sự quốc vương, cho biết nghĩa tôi thần, lại biết thêm
được nhiều sống như cầm thảo mộc (luận ngữ dương hóa, 9).
Kinh Lễ: bao gồm Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký. Trong đó Chu Lễ nói về cách tổ
chức hành chánh, chính tại xã hội thời Chu Nghi Lễ quy định thể thức nghi lễ
trong cuộc sống. Còn Lễ Ký là phần do mơn đệ của Khổng Tử bình về các phong
tục. Kinh Lễ là bộ sách lý luận và biện pháp tổ chức xã hội mà Khổng Tử tâm

đắc, vận dụng các quan điểm về vũ trụ vào cuộc sống để quy định hành vi, cử
chỉ, bổn phận trách nhiệm con người từ tấm bé đến tắc thở.
Kinh Xuân Thu: là bộ kinh qua đó như Khổng Tử tự thấy người đời có thể ghi
danh ơng hoặc buộc tội ông (Mạnh Tử Đằng văn công hạ, 9). Xuân Thu là bộ
sách Khổng Tử viết về truyện nước Lỗ. Từ đời Lỗ Ân Công (khoảng năm 722


17

TCN) đến đời Lỗ Ai Công (khoảng 480 TCN) là truyện về nhà Chu cùng các
nước chư hầu khác. Có thể coi đây là bộ biên niên sử mà Khổng Tử trong khi
tránh động chạm đến các thế lực đang cầm quyền dùng nó để vạch rõ nguyên
nhân sự loạn lạc đương thời. Xã hội đương thời quá rối ren. Khổng Tử nhận xét:
đời ngày càng suy, đạo ngày càng yếu tà thuyết (bạo hành khắp nơi, tôi giết vua,
con giết cha vì vậy mà Khổng Tử mới viết kinh Xuân Thu khen thiện chê ác dạy
phép trị vì thiên hạ (Mạnh Tử Đằng văn công hạ). Phép trị nước này là thuyết
“Chính danh” thuyết xuyên suốt sách Xuân Thu mà trọn đời Khổng Tử tuân
theo.Tư tưởng triết học của Khổng Tử.
Trong triết học của mình, Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào các vấn đề xã hội nhưng
ở các tác phẩm của ông cũng đề cập đến mọi lĩnh vực của triết học thể hiện quan
điểm của ông về thế giới, về chính trị xã hội, về luân lý đạo đức và cuộc sống
con người.
Thứ nhất: quan điểm về vũ trụ và giới tự nhiên. Quan điểm về thế giới vũ trụ
của Khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm về vũ trụ của người Trung Hoa thượng
cổ. Những quan niệm lưu truyền trong dân gian được ghi trong sách dịch, Khổng
Tử cho rằng vạn vật đều có chung nguồn gốc và vận động khơng ngừng theo đạo
của nó. Khổng Tử rất tin vào trời, thiên mệnh trời như một quan tịa cơng minh
cầm cân nảy mực, phán xét mọi việc. Trong thế giới ông cũng không phủ định
sự tồn tại của quỷ nhưng việc của quỷ là đối với quỷ con người cũng phải kính
trọng song chẳng gần gũi gì! (Trung dung 14), ơng cho rằng quỷ thần, khơng có

tác dụng chi phối cuộc sống, ơng phê phán sự mê tín quỷ thần.
Thứ hai: những tư tưởng về chính trị. Khổng Tử sống trong giai đoạn lịch sử xã
hội, có nhiều biến động nên ơng đưa ra hàng loạt những tư tưởng chính trị quan
trọng nhất là thuyết chính danh. Chủ trương làm cho xã hội có trật tự nên Khổng
Tử cho hết phải thực hiện chính danh, trong xã hội một cái danh. Chính danh có
nghĩa là một vật trong thực tại cần cho phù hợp với danh nó mang. Tiếp theo là
lễ trị lễ được hiểu là nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti của cuộc sống
nói chung. Vơ lễ hiểu theo nghĩa một đức trong ngũ thường thì là sự thực hành


18

đúng những giáo lý kỷ cương nghi thức nho giáo trong quan hệ tam cương ngũ
luân, thất giáo và cho sự thờ cúng thần linh. Thuyết lễ trị cho rằng: lễ chính là
cơng cụ chính trị, là vũ khí của một phương pháp trị nước, trị dân lâu đời.
Thư ba: là về đạo đức. Đây là hệ thống quan điểm quan trọng của nho gia cũng
như là của Khổng Tử. Đạo theo Khổng giáo là quy luật biến chuyển, tiến hóa của
trời đất và vạn vật. Nhân nghĩa, theo cách hiểu thơng thường thì “là lịng thương
người, nghĩa là dạ thủy chung”. Đức “Nhân” xét trong mối liên hệ với đức nghĩa
thì nhân là bản chất của nghĩa. Đức nghĩa xét trong mối quan hệ với nhân thì
nghĩa là hình thức của nhân, nghĩa là phần ta phải làm. Đó là mệnh lệnh tối cao.
Bất kỳ một tư tưởng triết học nào cũng được hình thành dựa trên những tiền đề
nhất định, tư tưởng triết học của Khổng Tử cũng vậy. Được hình thành vào thời
kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc, trong xã hội Trung Quốc cổ đại, có nhiều điều kiện
để tư tưởng của Khổng Tử phát triển nhưng cũng chính điều kiện lịch sử đã làm
nên những hạn chế trong tư tưởng của ông. Đương thời xã hội Trung Quốc có
nhiều bất ổn như: sự hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp, các nước chư hầu xâm lấn
thôn tính lẫn nhau, mâu thuẫn gay gắt giữa nơng dân và lãnh chúa, đặc biệt là sự
suy đồi về đạo đức, chính xã hội như vậy đã thúc đẩy những tư tưởng về chính
trị, xã hội đạo đức của Khổng Tử phát triển, nhưng do không hiểu nguyên nhân

sâu xa của các sự biến lịch sử và bị quyền lực giai cấp nên những tư tưởng của
Khổng Tử chỉ dừng lại ở mức độ cải lương, duy tâm. Dù có nhiều biến động
tông pháp nhà Chu bị suy đồi nhưng tình hình chính trị phương pháp lễ, trị vẫn
giữ vị trí quan trọng nên những tư tưởng của Khổng Tử vẫn được mọi người coi
trọng học hỏi và phát triển. Trong xã hội Trung Quốc đã có những tiền đề lý luận
quan niệm về trời đất Khổng Tử chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi quan niệm cho
rằng vạn vật đều có chung nguồn gốc hay là sự vận động của vạn vật là do đạo.
Khổng Tử đã kế thừa những nền tảng của triết học Trung Quốc cổ về vấn đề
quan hệ giữa trời và người. Từ đó hình thành nên những tư tưởng về tự nhiên,
đạo đức và chính trị.


19

Như vậy những tư tưởng triết học của Khổng Tử nói chung và những tư tưởng
về nhân cách nói riêng đã được hình thành trên cơ sở của điều kiện lịch sử xã hội
và những tiên đề lý luận như vậy.
Giáo dục nhân cách: là một bộ phận quan trọng, là mục đích tối cao của tồn
bộ tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Là một nhà tư tưởng, một nhà giáo dục, với
tầm nhìn và tài trí của mình, Khổng Tử đã nhìn thấy được rằng, trong thời biến
loạn lạc chỉ có thể thơng qua giáo dục thì mới giúp con người hồn thiện chính
mình mà thơng qua đó mới đưa xã hội về thái bình thịnh trị.
Như chúng ta đã biết Khổng Tử sống trong xã hội Xuân Thu - Chiến Quốc, một
thời kì lịch sử có nhiều sự biến. Chiến tranh liên miên, máu chảy thành sông, xác
chết đầy thành, các vương hầu ra sức tranh giành quyền lực, cịn nhân dân thì
lâm vào cảnh lầm than. Trong gia đình và ngồi xã hội trật tự lễ nghĩa cương
thường bị đảo lộn, băng hoại, cảnh con giết cha, tôi hại vua… thường xuyên xảy
ra. Trước thời cuộc như vậy, với chức năng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị,
cùng với sự trăn trở của một thánh nhân trước thời cuộc, Khổng Tử đã mong
muốn đưa ra một giải pháp nhằm đưa xã hội về con đường hữu đạo, một xã hội

như đúng với chính nó. Chính từ thực tế đó ơng đã cho rằng chỉ có thơng qua
giáo dục nhằm hồn thiện nhân cách cho con người thì mới có thể đưa xã hội trở
về hữu đạo.
Đó chính là mục đích cao nhất của Khổng Tử trong giáo dục và hệ tư tưởng.
1.3 Những tiền đề lý luận
1.3.1 Triết lí tơn giáo:
Ở Trung Quốc cổ đại, vấn đề khởi nguyên vũ trụ, nguồn gốc và bản chất của con
người đã được đặt ra và từng bước có sự giải đáp theo mức độ khác nhau, lập
trường khác nhau từ rất sớm.
Trong kinh thư, kinh thi đã thấy xuất hiện những khái niệm như “ trời”, “thượng
đế”, với tư cách là vị thần tối cao, sáng tạo nên mn lồi, mn vật trong thiên


20

hạ, “thượng giới” “hạ giới” là để phân biệt thế giới thực và thế giới thần
thánh…theo quan niệm của các nhà tư tưởng thời đó trời là chủ thể tối cao, là
nguồn gốc của tất cả, đồng thời còn là người theo dõi chi phối tất cả thiên hạ
theo ý chí tình cảm của mình. Nếu con người có hành động nghịch với ý chí
thượng đế “người sẽ trừng phạt bằng cách gieo thiên tai, loạn lạc”. Người Trung
Quốc cổ đại tin rằng giữa con người với thượng đế về nguyên tắc là hợp nhất
trên cơ sở của thượng đế. Con người là “cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm
dương, sự hội tụ của quỉ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành” do đó có khả năng
đồng nhất với thượng đế. Chính vì thế giữa con người và thượng đế không thể
tách rời nhau – trời người hợp nhất. Sự hợp nhất đó, sự tồn tại của con người,
phải xuất phát và tuân theo mệnh lệnh ý chí của thượng đế ( thiên lý, thiên đạo)
tuy nhiên với tư cách là đấng tối cao thượng đế khơng trực tiếp truyền đạt ý chí
của mình cho tất cả mọi người. Do đó thượng đế sẽ “trao quyền” “trao đất” “trao
dân” cho con mình ở hạ giới chăn dắt. Người đại diện cho thượng đế ấy gọi là “
thiên tử”. Thiên tử là hiện thân cho ý chí của trời đất, là người được thượng đế

cho “ nhận dân” “hưởng dân” và “trị dân”, do đó thiên tử tập trung tất cả mọi
quyền hành như chính trị, tơn giáo, quân sự, thiên tử quản lý toàn bộ ruộng đất
như núi, rừng, sông, biển, tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống nhân dân, đối
với nhân dân thiên tử vừa là cha, vừa là chúa, vừa là thầy…quyền lực của thiên
tử là tuyệt đối vô điều kiện: dưới bầu trời rộng khơng có nơi nào khơng phải là
đất của vua, dân của vua. “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ, thổ xuất chi tàn,
mạc phi vương thần”. Mặc khác, trong quá trình lịch sử này xã hội Trung Quốc
cịn đang trong giai đoạn sơ khai, để có thể tập trung được mọi người phải gắn
kết với nhau trong cộng đồng một cách chặt chẽ. Hình thức chủ yếu của thời kì
này là dựa vào quan hệ huyết thống thị tộc. Do đó thị tộc là phương tiện để cá
nhân tồn tại và biểu hiện sự tồn tại của mình, cá nhân bao giờ cũng là cá nhân
của một dịng họ, một dân tộc xác định nào đó. Thực tế này đã dẫn tời sự đồng
nhất giữa các cá nhân với tổ tiên bộ tộc, tổ đế nhất nguyên, theo quan niệm tổ đế




Trần trọng Kim: Nho giáo, thượng, Nxb. TT. học liệu, Sài Gòn, 1971, tr. 36
Tạ quang Phát: Kinh Thi, tập I và II, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1992, tr. 1132


21

nhất nguyên thì tổ đế và thượng đế là một thì sự thống trị của một dịng họ mang
tính vĩnh viễn.
Lợi dụng tư tưởng này sau khi thơn tính các thị tộc khác vua nhà Ân đã tự xưng
mình là thiên tử. Nhà Ân “thừa mệnh thượng đế” “nhận dân nhận đất” để chăn
dắt, dạy dỗ. Tộc Ân nắm quyền thống trị là ý trời, các thị tộc khác chịu sự thống
trị cũng là ý trời. Mọi hành động chống lại nhà Ân đều bị coi là chống lại thiên ý
và đều bị trừng phạt.

Tới thời chu thì cho rằng “mệnh trời khơng nhất định thiện thì được bất thiện thì
mất”3. Điều đó có nghĩa là giữa tổ đế có sự phân biệt. Thiên tử đã nhận đất của
thượng đế, nhưng khơng phải thơng qua tổ đế mình trong đó là tổ đế của từng
họ. Từ đó thuyết tổ đế nhất nguyên chuyển thành thuyết tổ đế nhị nguyên.
Sự xuất hiện thuyết tổ đế nhị nguyên đánh dấu một bước ngoặt trong việc hình
thành quan niệm về ln lí, đạo đức Trung quốc cổ đại và sự chuyển hóa thơng
qua giáo dục.
1.3.2 quan niệm về đạo đức
Trong khuôn khổ của quan niệm tổ đế nhất nguyên, thiên tử không chịu một sự
ràng buộc nào đối với nhân dân nhưng khi chuyển sang quan niệm tổ đế nhị
nguyên thì thiên tử phải tham gia vào hoạt động thực tiễn, nhận sự đánh giá
trong quan hệ hiện thực. Từ đó nảy sinh khái niệm về “ đức” “nhân”.
Đức là khái niệm được sử dụng rất nhiều ở thời Tây Chu để giải thích sự sụp đổ
của nhà Ân, biện minh cho hành động tiếm việt của nhà Chu nó chính là khái
niệm được sinh ra để khắc phục sự bất lực của quan niệm tổ đế nhất nguyên.
Trong kinh dịch có hai cách tiếp nhận khái niệm đức, theo quan niệm của hình
nhi thượng học và theo quan điểm của hình nhi hạ học.

3

Đồn trung Cịn: Đại học và trung dung, Nxb. Thuận hoá, 1996, tr. 26


22

Theo hình nhi thượng học: khởi nguyên của vũ trụ, mn lồi là thái cực. Thái
cực là sự thống nhất của hai thái cực âm và dương. Cơ sở làm cho âm – dương
có sự tác động qua lại, giữ cho âm – dương “tương thơi” “trung hịa” để vạn vật
sinh hóa khơng ngừng gọi là đạo. Đạo là cái dung hòa giữa mặt đối lập và là dây
liên hệ giữa vạn vật với nhau. Đạo bao trùm toàn bộ vũ trụ khơng ở đâu là khơng

có đạo và bất kì sự vật nào cũng có đạo của mình. Chính vì vậy thuận theo đạo là
thuận thiên thực hiện đạo là phù hợp với bản tính con người. Đạo là cái vơ hình,
huyền vi, sâu kín, mầu nhiệm, mạnh mẽ chi phối toàn bộ vũ trụ. Đạo là con
đường tất yếu mn vật, mn lồi phải tn theo và chỉ trong con đường đó vũ
trụ và mn lồi mới có thể duy trì sự sinh hóa. Nếu con đường bị sai lạc, mọi sự
sẽ bế tắc dẫn đến sự duyệt vong. Với ý nghĩa này đạo là thiên lí cũng là thiên
mệnh.
Nhưng với tư cách là thiên lí hay thiên mệnh đạo mới thể hiện là một khuynh
hướng, một khả năng, muốn khuynh hướng, khả năng ấy thành hiện thực thì phải
có đức, đức là biểu hiện ra của đạo thơng qua q trình sinh hóa khơng ngừng
của vũ trụ, vạn vật. Có thể nói đức là cái khơng thể tách rời, là hình thức tồn tại
của đạo, là tính qui định của mọi tồn tại. Làm cho vũ trụ bao la, vạn vật tuy
phong phú nhưng vẫn hiện hữu trong một trật tự xác định khơng hề có sự lẫn
lộn, bế tắc.
Theo hình nhi hạ học đức dùng để chỉ tính nết tốt của con người trong quan hệ
với bản thân gia đình và xã hội, người có đức là người ln cung kính, cẩn trọng
trong việc làm giữ đúng lễ nghĩa trong mọi quan hệ, luôn tự kiểm điểm kiểm tra
mình thơng qua đó làm giàu thêm tính tốt, tránh thói xấu, bớt điều ốn…để giúp
ích cho đời. Cụ thể là ở thời Chu đã xây dựng chín đức cơ bản: lý, khiêm, phục,
hằng, tổn ,ích, khốn, tỉnh, tốn trong đó thì:
Lý là cung kính cẩn trọng.
Khiêm là khiêm tốn tự hạ mình.
Phục là trở lại khơi phục lại.


×