Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong quá trình dạy học sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.63 KB, 109 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




Nguyễn Thị Ánh Tuyết




TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC SINH HỌC 9


Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Sinh học
Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Như Ất





Thái Nguyên - 2008



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




Nguyễn Thị Ánh Tuyết




TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC SINH HỌC 9


Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Sinh học
Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC









Thái Nguyên - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.Lược sử nghiên cứu về GDHN nói chung và GDHN thông qua
dạy học Sinh học trong trường phổ thông trên thế giới.......................5
1.2 Lược sử nghiên cứu GDHN nói chung và GDHN thông qua dạy
học Sinh học trong trường phổ thông ở Việt Nam....................... ........12

Chương 2: VẤN ĐỀ THỰC HIỆN VIỆC TÍCH HỢP GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỂP TRONG DẠY HỌC SINH HỌC.

2.1. Các khái niệm công cụ...................................................................
....
17
2.2. Cơ sở lý luận của hoạt động GDHN ở trường phổ thông nói chung
và bộ môn Sinh học nói riêng.................................................................22
2.3. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của hoạt động GDHN ở trường phổ
thông nói chung và bộ môn Sinh học nói riêng.....................................30
2.4. Các giải pháp tích hợp GDHN đối với giáo trình Sinh học 9........31


Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

3.1. Mục đích thực nghiệm..........................................
...
..........................49
3.2. Phương pháp thực nghiệm..........................................................
.....
49
3.3. Kết quả thực nghiệm.........................................................................54
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
I. KẾT LUẬN.............................................................................................74
II. ĐỀ NGHỊ...............................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................76
PHỤ LỤC...................................................................................................79
Trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




Nguyễn Thị Ánh Tuyết





TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC SINH HỌC 9


Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Sinh học.
Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Thái Nguyên - 2008

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




Nguyễn Thị Ánh Tuyết





TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC SINH HỌC 9


Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Sinh học
Mã số: 60.14.10


TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC






Thái Nguyên - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


Đối chứng ĐC
Giáo dục GD

Giáo dục- Đào tạo GD- ĐT
Giáo dục hướng nghiệp GDHN
Giáo dục kỹ thuật tổng hợp GDKTTH
Giáo viên GV
Hướng nghiệp HN
Học sinh HS
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
Thực nghiệm TN



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU


1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1.1.Xuất phát từ yêu cầu GDHN ở trường phổ thông nói chung:
Giáo dục hướng nghiệp (GDHN) là một nhiệm vụ quan trọng trong nhà
trường phổ thông, thực hiện chức năng tạo cơ sở cho việc phân luồng học sinh
sau khi tốt nghiệp THCS. Văn kiện đại hội Đảng X đã khẳng định “Đổi mới
mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Kết hợp việc tổ chức phân
ban với tự chọn ở THPT trên cơ sở làm tốt công tác hướng nghiệp và phân
luồng học sinh từ THCS”[12, tr. 95-96]. Điều 28 Luật giáo dục (2005) có quy
định rõ vũ mục tiêu của giáo dục trung học cơ sở (THCS) là”… có trình độ học
vờn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu vũ kỹ thuật và hướng nghiệp
để tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi

vào cuộc sống lao động”[28, tr 15]. Nghị định CP số 75/2006/NĐCP ngày
2/6/2006 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật GD trong đó
có Điều 3 về hướng nghiệp và phân luồng trong giáo dục.
1.2. Xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ GDHN trong dạy học môn
Sinh học 9 mà sách giáo khoa vừa mới được ban hành:
Chương trình, SGK sinh học 9 được tiến hành thí điểm từ những năm
2002-2004 đến năm 2006-2007 được Bộ GD-ĐT quyết định chính thức ban
hành. Trong chương trình giáo dục phổ thông đối với môn Sinh, Bộ GD-ĐT
đã khẳng định một trong các mục tiêu về kiến thức “Hiểu được những ứng
dụng của sinh học và thực tiễn sản xuất, đời sống”, về thái độ, có ý thức vận
dụng các kiến thức kỹ năng học được vào cuộc sống lao động, học tập. Quan
điểm xây dựng và phát triển chương trình Bộ Giáo dục và đào tạo cũng quy
định “Giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp để giúp học sinh thích ứng
với những ngành nghề liên quan đến sinh học” [6, tr. 8].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
Hiện tại giáo dục đang đòi hỏi cấp bách vấn đề này bởi lớp 9 là lớp cuối
cấp, học sinh rất cần được hướng dẫn để lựa chọn phân ban, phân hoá tại cấp
THPT và hướng dẫn cho một bộ phận các em học xong THCS sẽ không học
tiếp THPT mà theo học trường chuyên nghiệp để có trình độ tay nghề nhất
định, hoặc ra trường trực tiếp tham gia lao động sản xuất.
Xuất phát từ các lý do trên, căn cứ vào đặc điểm bộ môn chúng tôi chọn
đề tài “Tích h ợp giáo dục hướng nghiệp trong quá trình dạy học Sinh học 9”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ cơ sở lý luận về giáo dục hướng nghiệp và thực tiễn, thông
qua dạy học Sinh học ở trường phổ thông thuộc giai đoạn hiện hành, từ đó tìm
tòi, xác lập các giải pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp áp dụng đối với dạy

học Sinh học 9 hiện hành.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong dạy
học Sinh học.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Sinh học.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu tiến hành các giải pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp một cách
hợp lý trong quá trình dạy học bộ môn Sinh học 9 thì vừa bồi dưỡng hứng
thú, động lực học tập cho học sinh, nhờ vậy có tác dụng nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn, vừa trực tiếp tạo được hiệu quả giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh THCS.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1.Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác GDHN tại trường phổ thông
giai đoạn hiện nay.
5.2. Các giải pháp tiến hành tích hợp giáo dục h ướng nghiệp trong quá
trình dạy học bộ môn Sinh học ở phổ thông và trong dạy học Sinh học 9.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
5.3. Thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả các giải pháp mà luận
văn đã đề xuất (chúng tôi chỉ giới hạn nội dung nghiên cứu ở một số bài trong
chương V, VI của phần Di truyền và Biến dị -Sinh học 9)
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1.Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài luận văn.
6.2.Phương pháp điều tra, phỏng vấn, trao đổi:
- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu thực trạng, nhận thức thái độ, của
học sinh về công tác giáo dục hướng nghiệp, tích hợp GDHN trong dạy học

Sinh học ở trường THCS trước và sau thực nghiệm.
- Phỏng vấn, đối thoại trực tiếp đối với giáo viên, học sinh của các
trường THCS nhằm tìm hiểu thực tế việc tổ chức thực hiện GDHN, tích hợp
GDHN trong dạy học Sinh học của lớp 9 ở trường THCS.
6.3 Thực nghiệm sư phạm;
- Soạn giáo án theo hướng tích hợp GDHN trong dạy học một số bài của
chương V, VI phần Di truyền và Biến dị - Sinh học 9.
- Tiến hành thực nghiệm tại các trường THCS.
6.4.Phương pháp thống kê toán học;
- Sử dụng các công thức thống kê để xử lý kết quả điều tra, kết quả thực nghiệm.
7. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
-Minh hoạ và thực nghiệm sư phạm một số giải pháp tích hợp giáo dục
hướng nghiệp trong dạy học chương V, VI của phần Di truyền và Biến dị
Sinh học 9.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Một số vấn đề có ý nghĩa lý luận về đổi mới công tác giáo dục hướng
nghiệp vào dạy học sinh học hiện hành và sinh học 9 nói riêng.
- Một số biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học sinh
học 9 hiện hành ở trường THCS.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP NÓI
CHUNG VÀ GDHN THÔNG QUA DẠY HỌC SINH HỌC TRONG

TRƯỜNG PHỔ THÔNG TRÊN THẾ GIỚI
Vấn đề Giáo dục lao động, Giáo dục KTTH, GDHN được các nhà sáng
lập ra chủ nghĩa Mác- Lê nin đề cập, tiếp theo là các nhà GD học Xô viết (cũ)
đã phát triển thành các quan điểm, học thuật và chính quyền Xô viết xây dựng
các văn bản pháp qui liên quan.
Qua tài li ệu nghiên cứu của các tác giả chúng tôi điểm lại theo trình tự sau:
- Các tư tưởng kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin và tình hình nghiên
cứu và xây dựng văn bản pháp qui liên đới, các thành tựu của Liên Xô cũ.
- Các nhà sư phạ m Liên bang Nga hậu xô viết tiếp tục bàn về giáo dục
KTTH và HN.
- Nghiên cứu về GDHN và GDHN trong dạy học Sinh học ở một số
nước tư bản.
- Quan điểm của UNESCO về GDHN.
1.1.1. Các tư tưởng kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin và tình hình
nghiên cứu và xây dựng văn bản pháp qui liên đới, các thành tựu của
Liên Xô cũ
Năm 1866, trong tác phẩm Marx - Engels Tuyển tập, K. Marx viết:
“Chúng tôi hiểu giáo dục gồm ba điều: giáo dục trí lực, giáo dục thể lực, giáo
dục kỹ thuật giới thiệu những nguyên tắc cơ bản của tất cả các quá trình sản
xuất và đồng thời tập cho trẻ em hoặc thiếu niên quen sử dụng những công cụ
đơn giản nhất cho tất cả các ngành sản xuất”[25, tr. 186].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
Ở Nga, tháng 2 năm 1919 trong văn bản đề cập đến những nhiệm vụ
trước mắt của GD Xô viết V.I Lenin đã viết: “Thực hiện chế độ giáo dục
không mất tiền và bắt buộc, phổ thông và bách khoa (dạy lý thuyết và thực
hành về tất cả các ngành chủ yếu) cho trẻ em trai và gái dưới 16 tuổi, kết hợp

chặt chẽ công tác giáo dục với lao động sản xuất xã hội [25, tr.186].
N.K Krupxkaia và nhiều nhà quản lý giáo dục và nhà sư phạm Xô viết
như A.V lunatsarski, N.O Blonxki, S.T Saskii, M.N Xcatkin, M.Z Akmalov,
P.R.Atutop, V.D Simonenko… đã vận dụng tư tưởng trên của Marx và Lênin
xây dựng thành hệ thống lý luận giáo dục KTTH được áp dụng vào thực tiễn
giáo dục Xô viết nhằm chỉ đạo nội dung và phương pháp giáo dục của nhà
trường phổ thông thể hiện qua một số tác phẩm như tuyển tập các bài báo “Về
công tác hướng nghiệp cho học sinh”, Nhà xuất bản Giáo dục Liên Xô năm
1965 của Krupxkaia, tác phẩm “Vai trò của lao động trong giáo dục kỹ thuật
tổng hợp”của Atutốp P.Q, Pôliakốp V.A, tác phẩm “Hướng nghiệp như là tổ
hợp khoa học”của Klimốp E.A, Lêningrat 1969...Các nhà GD Xô viết cho rằng
giáo dục KTTH phải được quán triệt và xuyên suốt mọi hoạt động GD, làm căn
cứ cho để lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học các môn khoa học tự
nhiên cũng như khoa học xã hội - nhân văn, công tác nội khoá, ngoại khoá,
hoạt động của nhà trường phải liên hệ thực tiễn với xã hội và sản xuất, các môn
học của nhà trường phải có mối liên hệ mật thiết với nhau, với thực tiễn cuộc
sống. Giáo dục KTTH cũng quán triệt vào hoạt động lao động trong nhà trường
và các hoạt động của học sinh tham gia lao động sản xuất và với xã hội của
người lớn. Giáo dục KTTH và GD kết hợp giữa học tập với lao động sản xuất
có tác dụng lớn để hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh. Ý tưởng giáo
dục KTTH mang các giá trị về chính trị, kinh tế, thực tiễn và sư phạm.
Người có công đầu trong việc xây dựng cơ sở lý luận dạy học quán triệt
nguyên lý KTTH là Skatkin N.M. Trong tác phẩm “Những vấn đề về lý luận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
dạy học " Moskva, 1970 ông viết “Nguyên lý KTTH thể hiện vào nội dung GD
ở khâu trình bày các quy luật khoa học và các nguyên lý kỹ thuật - công nghệ,

tổ chức và kinh tế nền sản xuất hiện đại nhằm vũ trang cho học sinh những kỹ
năng khái quát nhất, dễ dàng vận dụng trong các tình huống mới và nhằm phát
triển tư duy kỹ thuật mềm dẻo, linh hoạt sáng tạo. Nguyên lý KTTH được quán
triệt vào các môn học trường phổ thông thể hiện ở chỗ đưa vào nội dung dạy
học những kiến thức về các cơ sở khoa học của các phương tiện kỹ thuật hiện
đại và các quá trình công nghệ học cũng như những kỹ năng KTTH cần thiết
cho người lao động thuộc mọi ngành sản xuất khác nhau như những kỹ năng đo
lường, tính toán, lập sơ đồ, sửa chữa, phòng thí nghiệm và các kỹ năng
khác”[5, tr.4]. Nguyên lý KTTH có ý ngh ĩa quan trọng nhất trong công tác giáo
dục HN và lao động cho học sinh. Vận dụng tinh thần đó, các trường phổ thông
của các nước XHCN đều đã tổ chức dạy môn học thuộc nhóm môn lao động,
kỹ thuật, tổ chức học sinh lao động, tham quan tại các cơ sở sản xuất.. và vận
dụng tinh thần đó trong xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình, biên soạn,
phương pháp dạy học các môn học trong đó có môn Sinh học, được thể hiện
trong tác phẩm “Đại cương về phương pháp giảng dạy sinh vật”tập I, tập II của
các tác giả N.M. Veczilin, V.M. Coocxunxcaia [33]...
1.1.2. Các nhà sư phạm Liên bang Nga hậu xô viết tiếp tục bàn về
giáo dục KTTH và HN
Do sự biến động về chính trị, cùng với sự tan rã của Liên Xô, nền giáo
dục của Nga cũng có sự thay đổi trong đó có vấn đề giáo dục KTTH và HN.
Atutôp P.R nhà lý luận Xô viết nổi tiếng tr ước đây, nay là viện sĩ viện hàn
lâm GD Nga có nghiên cứu mới, trong bài báo “Khái niệm giáo dụ c kỹ thuật
tổng hợp trong điều kiện hiện đại “đăng ở Tạp chí Sư phạm “Pedagogika”số
2/1999, trang 17, tiếng Nga đã khẳng định rằng phải nghiên cứu cơ sở khoa
học của GD KTTH về tính chất liên môn học trên nhiều bình diện như triết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7

học, xã hội học, tâm lý học và khoa học - kỹ thuật. Ông đã bổ sung mặt lý
luận giáo dục KTTH với nhiều nội dung mới “Những yêu cầu tổng thể của
nền sản xuất hiện đại - một đảm bảo cho sự tăng trưởng tối đa những năng lực
sáng tạo của con người- đòi hỏi phải đặt giáo dục KTTH vào vị trí có chức
năng cơ bản chủ đạo trong việc phát triển ở học sinh những năng lực cần thiết
để họ hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực tương lai khác nhau”. Ngày
nay mối quan hệ “khoa học - sản xuất”của xã hội loài người càng trở nên mật
thiết, có sự tác động qua lại, được phản ánh vào nhà trường dưới quan hệ “học
tập - lao động”, thêm vào đó mối liên hệ giữa các môn học chặt chẽ đến mức
tích hợp thì vai trò của giáo dục KTTH trong giáo dục càng lớn lao.
Khi bàn về giảng dạy công nghệ học cho học sinh phổ thông, trong bài
“Công nghệ học và giáo dục hiện đại “cũng đăng ở tạp chí Peđagogika số 2
năm 1996 Aututôp P.R nhấn mạnh “Trong GD công nghệ học phổ thông thì
giáo dục KTTH và GD tiền nghề nghiệp có vai trò quan trọng. …. Nói cách
khác GD công nghệ trường phổ thông phải thể hiện tinh thần giáo dục KTTH”.
Phát triển tư tưởng Aututôp P.R, Trecnôglazki A. Iu trong “Những vấn
đề giáo dưỡng cụ thể của Giáo dục kỹ thuật tổng hợp”đăng ở tạp chí
Peđagogika số 9 năm 2000 cho rằng “Những thành tựu khoa học GD mới đây
đã làm sáng tỏ thêm bản chất của nhiều tư tưởng giáo dưỡng và GD, trong đó
có GD KTTH. Ngày nay GD KTTH được hiểu như là một trong những chức
năng chủ đạo của quá trình GD, đóng góp vào sự phát triển ở học sinh những
năng lực cho phép các em hoạt động thành công trên mọi lĩnh vực rất khác
nhau trong tương lai”. Qua đó ông đã phân tích thành phần các tố chất hình
thành của nhân cách trong điều kiện hiện tại của học sinh có sự đóng góp
quan trọng của giáo dục KTTH trong nhà trường.
Tác giả cũng phân tích rõ mối quan hệ mật thiết giữa các hoạt động dạy -
học ở trường phổ thông phải quán triệt nguyên tắc giáo dục KTTH từ việc xây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



8
dựng mục tiêu, nội dung các môn học đến việc biên soạn các tài liệu khoa
học, phương pháp dạy học cho bộ môn.
Chúng ta thấy rằng các nhà GD của LB Nga vẫn kế thừa và tiếp tục phát triển
trong điều kiện hiện đại lý luận, vai trò, ý nghĩa của giáo dục KTTH quán triệt
vào dạy học các môn khoa học của trường phổ thông
Như vậy, Bộ GD-ĐT liên bang Nga không tách GDHN khỏi GD phổ
thông, GD Liên Bang Nga đã kế thừa phát triển tinh thần, nội dung giáo dục
lao động - HN theo nguyên tắc KTTH của giáo dục Xô Viết (cũ) đồng thời
phát triển,hiện đại hoá nâng cao trình độ lý luận về GD KTTH và HN nhằm
đáp ứng yêu cầu của công nghệ hiện đại và xã hội hiện đại mà không phủ
nhận nguyên tắc này.
Về tinh thần nhiệm vụ giáo dục KTTH và hướng nghiệp trong dạy học
Sinh học cũng tiếp tục được các tác giả đề cập đến như I.N.Ponomareva:
“Giáo dục lao động gắn liền với giáo dục kỹ thuật tổng hợp và giáo dục
hướng nghiệp. Đối với dạy học sinh học điều quan trọng là cung cấp cho học
sinh nhận thức lao động là điều cốt yếu trong mối quan hệ giữa người với tự
nhiên. Nghiên cứu giới tự nhiên phải h ướng vào đặc thù của lao động, đồng
thời qua dạy học sinh học giới thiệu cho học sinh thế giới sống là đối tượng
của nhiều ngành nghề cũng là nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt nhà trường phải có nhiệm vụ hình thành cho học sinh những kỹ năng, kỹ
xảo, một số nghề nghiệp liên đới “[40, tr.159].
1.1.3. Nghiên cứu về GDHN và GDHN trong dạy học Sinh học ở một
số nước tư bản
Ở Pháp thành lập Viện Quốc gia nghiên cứu về Lao động và Hướng nghiệp
từ năm 1928, đến năm 1975, đã tiến hành cải cách giáo dục để hiện đại hoá
nền giáo dục,chú ý đặc biệt chăm lo giảng dạy lao động và nghề nghiệp cho
học sinh. Nhà nước Pháp coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác giáo
dục và tư vấn tâm lý hướng nghiệp.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
Hiện nay, Pháp thực hiện công tác hướng nghiệp không những cho học
sinh phổ thông mà còn cả với người lớn theo một tiếp cận mới. Đó là kết hợp
các hướng cung cấp thông tin về thế giới nghề nghiệp, về đặc điểm lao động
Của từng nghề, về các trường đào tạo nghề giúp người học có nhu cầu thông
tin để so sánh lựa chọn. Mặt khác nhà trường tổ chức các phương pháp như
giáo viên quan sát, tìm hiểu nhiều mặt liên quan đến nghề nghiệp tương lai
của trò, còn các chuyên gia tâm lý hướng nghiệp, thầy thuốc trường học tiến
hành các kiểm tra về nhân học, tâm lý, y học đối với học sinh. Trên cơ sở đó,
nhà trường hay nhà tư vấn đưa ra những tư vấn tâm lý về chọn nghề, để từng
học sinh tự quyết định sự chọn nghề lần đầu, hay điều chỉnh chọn nghề, thay
đổi nghề. Căn cứ vào nhiệm vụ của từng loại cán bộ làm công tác h ướng
nghiệp mà tổ chức đào tạo nhà giáo dục hay chuyên gia hướng nghiệp khác
nhau làm việc tại các loại tr ường, các cơ quan quản lý giáo dục các cấp hay
các trung tâm thông tin và tư vấn nghề của nhà nước hay trong doanh nghiệp
[23, tr. 85-91]. Không chỉ chú trọng công tác HN ở các bộ môn về HN, mà
trong dạy học các bộ môn khoa học khác như môn Sinh học nói cũng có nội
dung GDHN, điều này được thể hiện trong cuốn SGK có tên “Các khoa học
về sự sống và về trái đất “dành cho lớp nhì nhánh khoa học trường Ly xê có
bài ngắn nhan đề “Sinh học và nghề cảnh sát khoa học”mô tả công việc của
cảnh sát công nghệ và khoa học trong các phòng thí nghiệm dùng kỹ thuật di
truyền để phá án, đồng thời chỉ ra những tiêu chuẩn nghiệp vụ của cảnh sát
này liên quan đến tri thức sinh học [40, tr.104]. Tương tự, trong sách Sinh học
lớp 11 năm 2005 có mục các nghề liên quan tới đối tượng sinh học [39, tr.14].
Ở Australia hiện nay các ch ương trình GDHN có chất l ượng ở nhà
trường có nội dung cân bằng và có các kết quả đòi hỏi rõ ràng từ học sinh.

Thông qua việc học tập liên tục vì lặp lại, mỗi học sinh phải thể hiện được là
mình có thể học về bản thân trong công việc. Ở lớp 7 đến lớp 10 học sinh phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
“xác định mối quan tâm và sở thích của mình đối với các công việc và nghề
nghiệp khác nhau”[23, tr. 64]
Ngoài ra học sinh còn học về thế giới công việc, ở lớp 7 đến lớp 10 học
sinh cần “mô tả các loại nghề và những kỹ năng sự hài lòng của chúng cùng
những gì chúng đem lại, giải thích các kỹ n ăng về tri thức thu được và sử
dụng ở một công việc có thể được chuyển sang công việc khác và nghề
nghiệp khác như thế nào [23, tr. 65]
Yếu tố giáo dục HN còn được thể hiện ở việc học về lập kế hoạch và
quyết định, thực thi các quyết định và vượt qua những giai đoạn chuyển đổi.
Như vậy bốn yếu tố của GDHN là học về bản thân trong công việc, học về thế
giới công việc, học về lập kế hoạch và quyết định thực thi các quyết định và
vượt qua những giai đoạn chuyển đổi được thực hiện liên tục lặp lại qua 4 cấp
học tiểu học (lớp 1 đến lớp 4), trên tiểu học (lớp 4 đến lớp 7) trung học cơ sở
(lớp 7 đến lớp 10) trung học phổ thông và tương đương (lớp 10-12). Điều này
góp phần quan trọng trong sự phân luồng học sinh một cách hợp lý “Australia
có tỷ lệ thanh niên học lớp 12 rất cao. Có khoảng 70% học sinh tốt nghiệp
phổ thông tiếp tục học lên đại học. Nhiều nguồn trong số này có nhu cầu vào
học trong hệ thống giáo dục và đào tạo nghề”[19, tr 48] tránh được tình trạng
“thừa thầy thiếu thợ”khi công tác GDHN không được làm tốt.
Ngoài ra các quốc gia khác nh ư Anh, Mỹ, Nhật, Malaysia, Hàn Quốc...
đều coi trọng công tác GDHN thể hiện trong mục tiêu, trong luật giáo dục,
trong chương trình nội dung môn học từ cấp I trở đi [23], [24].
1.1.4. Quan điểm của UNESCO về GDHN

Quan điểm chung của thế giới hiện đại đã được đề cập bởi tổ chức UNESCO
trong tác phẩm của Jacques Delors, Paris “Còn về hướng nghiệp p hải được
tiến hành ở bậc trung học để hướng chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống
người lớn, vào thế giới lao động... Hướng nghiệp giúp học sinh chọn nghề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
trong mọi lĩnh vực đa dạng khác nhau nhưng không đóng cửa đi vào ngành
nghề cuối cùng. Hệ thống giáo dục phải có tính linh hoạt ”. [5,tr.7- 8]. Do nhà
trường phổ thông nhất là cấp trung học phải tiến hành dạy công nghệ, dạy
nghề, công tác hướng nghiệp nhằm mục tiêu cho HS tiếp cận với bức tranh
chung của công nghệ hiện đại, đang phát triển và chuẩn bị đi vào thế giới
nghề tương lai(chứ không phải một nghề xác định cụ thể trước mắt).Về nội
dung này thể hiện giống tinh thần GD KTTH của người Nga thời Xô viết và
hậu Xô viết, song các nhà GD học phương tây gọi là GD công nghệ tích hợp.
1.2. LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP NÓI
CHUNG VÀ GDHN QUA DẠY HỌC SINH HỌC TRONG TRƯỜNG
PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM
So với các nước trên thế giới, công tác HN đối với sự nghiệp giáo dục ở
Việt Nam nói chung và nhà trường THCS nói riêng đã được thực hiện từ lâu
song so với các nước thì còn tồn tại nhiều bất cập.
1.2.1. Thời kỳ trước đổi mới giáo dục(1986)
Người đề cập đến công tác GDHN ở Việt Nam trước hết phải kể đến chủ
tịch Hồ Chí Minh, người đã rất coi trọng công tác HN, đã vận dụng sáng tạo
các quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm đào tạo lớp người
lao động mới. Nói về hướng nghiệp trong bài “Học sinh và lao động”Bác viết:
“Thi đỗ tiểu học rồi thì muốn lên trung học, đỗ trung học rồi thì muốn lên đại
học, riêng về mỗi cá nhân của người học sinh thì ý muốn ấy không có gì lạ.

Nhưng chung với nhà nước thì ý muốn ấy thành vô lý vì bất kỳ nước nào, số
trường trung học cũng ít hơn trường tiểu học, trường đại học cũng ít hơn
trường trung học. Thế thì những trò tiểu học, trung học không được chuyển
cấp phải làm gì?”[19]
Tiếp theo chủ tịch Hồ Chí Minh, thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có ý
kiến: “Giáo dục phổ thông dành cho tuổi trẻ từ tuổi thơ ấu đến tuổi 18, tuổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
thanh niên, tuổi hoàn thành giáo dục phổ thông, ở đây có sự gặp nhau hài hoà
giữ ba nhân tố: giáo dục phổ thông, tuổi trẻ và triển vọng nghề nghiệp. Đó là
quá trình chuẩn bị vào đời của mọi người”[8, tr.33]
“Mọi người cần nhớ rằng, giáo dục phổ thông không chỉ nhằm dạy kiến
thức khoa học tự nhiên và xã hội mà còn nhằm cái đích dạy các nghề có tầm
quan trọng rất thiết thực hiện nay ở nước ta”[8, tr.40]
Triết lý của các nhà cách mạng và tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh đã
được nhà nước ta nêu thành nguyên lý giáo dục, các chỉ thị và các văn kiện
đại hội Đảng, cụ thể như: quyết định 126/CP ra ngày 13 tháng 9 năm 1981
của chính phủ “Về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử
dụng hợp lý học sinh các cấp PTCS và THPT tốt nghiệp ra trường”. Để triển
khai quyết định trên ngày 17/11/1981 Bộ giáo dục và đào tạo đã ra thông tư
số 31/TT hướng dẫn việc thực hiện quyết định trên cho các cơ quan quản lý
giáo dục, trường phổ thông các cấp và các cơ quan liên ngành [10, tr.2].
Người có công đóng góp rất lớn trong sự nghiệp giáo dục hướng nghiệp
của Việt Nam giai đoạn này là Phạm Tất Dong. Ông đã nghiên cứu về hứng
thú nghề nghiệp, những vấn đề về nội dung và phương pháp hướng nghiệp
cho học sinh, thanh niên …Điều này được thể hiện trong hàng loạt các bài
báo như: Hướng nghiệp cho thanh niên- Tạp chí thanh niên số 8-1982, Sinh

hoạt HN của học sinh THPT(1982). Một hướng khác do các tác giả Đặng
Danh Ánh, Nguyễn Viết Sự cùng các cộng sự khác nghiên cứu là: Nghiên cứu
động cơ chọn nghề, hứng thú chọn nghề và khả năng thích ứng nghề của học
sinh học nghề, xây dựng phòng truyền thống h ướng nghiệp trong trường
nghề, đặc biệt nghiên cứu tâm sinh lý, nội dung lao động của một số nghề
nhằm tạo ra tài liệu hướng nghiệp cho trường phổ thông thể hiện ở cuốn
“Tuổi trẻ và nghề nghiệp”tập 1, và tập 2 từ những năm 70-80 của thế kỷ XX.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
Ngoài ra các tác giả khác như Nguyễn Văn Hộ, Phan Huy Thụ, Nguyễn Văn
Lê, Hà Thế Truyền.. cũng nghiên cưứ về GDHN cho HS phổ thông [9], [10],
[20], [24].
Sinh học là một ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu về sự sống kiến
thức sinh học liên quan tới rất nhiều ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp, lâm nghiệp, y học, môi trường…. Giáo dục kỹ thuật tổng hợp và
hướng nghiệp trong dạy học bộ môn Sinh học là một trong các nhiệm vụ của
dạy học sinh học và được các tác giả như Nguyễn Quang Vinh, Trần Doãn
Bách, Trần Bá Hoành trong “Lý luận dạy học sinh học “Tập 1, 2- Nhà xuất
bản giáo dục 1979 đã đề cập. Ở giai đoạn này thì SGK sinh học của các lớp ở
các cấp đều thể hiện nội dung, tinh thần GDKTTH và HN.
1.2.1. Thời kỳ đổi mới giáo dục (từ năm 1986 đến nay)
Cùng với sự biến động về chính trị, xã hội của thế giới, đặc biệt là sự tan
rã khủng hoảng của các nước CNXH thì công tác hướng nghiệp, giáo dục kỹ
thuật tổng hợp của nước ta cũng có sự thay đổi do sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế từ bao cấp sang kinh tế thị trường, sự khó khăn về kinh tế...nội dung
GDHN đã xây dựng trở thành lạc hậu nên công tác GDHN bị coi nhẹ dẫn tới
hậu quả là mất cân đối trong phân luồng đào tạo ngành nghề…. Thể hiện sự

thiếu hụt về hướng nghiệp trong công tác giáo dục ở trường phổ thông Việt
Nam. Nhận thức rõ vấn đề này rất nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm tìm hiểu
về thực trạng giải pháp cho công tác hướng nghiệp... Nhiều công trình nghiên
cứu của các tác giả như: Phạm Tất Dong, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Như Ất,
Phạm Huy Thụ, Lưư Đình Mạc với đề tài do văn phòng chính phủ quản lý:
Thực trạng giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp
trong trường phổ thông 2004; Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền trong bài” Để
nâng cao chất l ượng giáo dục hướng nghiệp trong tình hình mới”- Tạp chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
Giáo dục số 81/2004... cho thấy công tác HN cần được thay đổi. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của GDHN, Đảng và Nhà nước đã quan tâm, khôi phục công
tác GDHN đặc biệt là GDHN trong trường phổ thông từ năm 2000. Tuy nhiên
qua một số công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Bùi
Văn Quân [24], của Nguyễn Thị Thanh Huyền và cộng sự [16]... đều cho thấy
hiện nay công tác GDHN đã được quan tâm song việc thực hiện còn gặp
nhiều khó khăn, hiệu quả không cao với nhiều nguyên nhân như thiếu giáo
viên đúng chuyên ngành, cơ sở vật chất hạn chế nhiều giáo viên chỉ lo “dạy
chữ”chiếm 78,1% [10, tr.67], việc giáo dục hướng nghiệp do giáo viên bộ
môn làm thường xuyên thông qua dạy học các môn ở các tỉnh Thái Nguyên,
Quảng Ninh, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Giang đều đạt dưới 50% (Thái
Nguyên 23,3%, Quảng Ninh 43%, Tuyên Quang 20%, Lạng S ơn 25%, Hà
Giang 30%) [16, tr.38-40].
Với bộ môn Sinh học các tác giả Trần Bá Hoành, Đinh Quang Báo, Trịnh
Nguyên Giao, Nguyễn Quang Vinh, Trần Đăng Cát...đều nêu rõ nhiệm vụ
GDKTTH và HN trong dạy học Sinh học trong các cuốn n hư: “Dạy học sinh
học ở trường THCS”- Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội 2001,”Đại cương phương

pháp dạy học sinh học” [17], [18]… Tuy nhiên các tác giả trên chỉ đề cập tới
nhiệm vụ trên là chung cho cả bộ môn chứ chưa đi sâu vào cách làm từng bài
cụ thể,trong khi đó chương trình giáo dục phổ thông môn Sinh có sự đổi mới,
chương trình Sinh phổ thông hiện hành được chính thức áp dụng đại trà từ năm
2006. Mặt khác giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp ở nước ta cũng cần
có sự thay đổi do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, sự gia nhập tổ chức WTO sự biến động kinh tế xã hội...
Có thể nói các công trình khoa học khác nhau ở trong n ước và ngoài
nước rất có giá trị về mặt phương pháp luận và lý luận đối với việc thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
hiện GDHN nói chung ở nước ta, đã kế thừa tư tưởng Mac- Lênin, tư tưởng
Hồ chí Minh, phù hợp với quan điểm chung của thế giới, tuy nhiên trong
những công trình trên chúng tôi nhận thấy hiện nay hiệu quả GDHN trong
trường phổ thông nước ta còn thấp, cần phải phối hợp GDHN với dạy học
các môn văn hoá cơ bản, nhất là các môn liên quan tới nhiều ngành, nghề
trong đó có môn Sinh học, đặc biệt là ở chương trình, SGK mới được áp
dụng đại trà, song các giải pháp để thực hiện GDHN thông qua dạy học
môn này chưa tác giả nào đề cập cụ thể cho các bài, các chương ở trong
dạy học Sinh học ở trường phổ thông. Vì vậy chúng tôi đã lựa chọn vấn đề
này làm công trình nghiên cứu của mình.













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
CHƯƠNG II
VẤN ĐỀ THỰC HIỆN VIỆC TÍCH HỢP GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP TRONG DẠY HỌC SINH HỌC

2.1. CÁC KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
2.1.1. Nghề nghiệp
Theo E.A. Klimov: “Nghề nghiệp là lĩnh vực sử dụng sức lao động vật
chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn cần thiết cho xã hội (do
sự phân công lao động mà có), nó tạo cho con người khả năng sử dụng lao
động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho tồn tại và phát triển
[20, tr 10]. Theo từ điển tiếng Việt thì “nghề là công việc chuyên môn làm
theo sự phân công lao động của xã hội. Nghề nghiệp là nghề để sinh sống và
phục vụ xã hội [27, tr 67].
Đôi khi người ta dễ nhầm lẫn giữa nghề nghiệp với việc làm bởi chúng
cùng xuất phát từ quan niệm về những kỹ năng của một hoặc nhiều nghề được
cá nhân sử dụng trong quá trình lao động. Nếu việc làm diễn ra trong một thời
gian dài, có cơ sở từ nghề được đào tạo, có nhu cầu ổn định, trong quá trình
lao động cá nhân thường xuyên sử dụng một hệ thống tri thức và các kỹ năng
được huấn luyện tay nghề, khi đó cá nhân không chỉ có nghề mà có cả nghiệp.
Chính vì vậy có thể coi: Nghề nghiệp là một công việc mà để có nó đòi hỏi ở

con người một quá trình đào tạo chuyên biệt, có những kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo, chuyên môn nhất định. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp con người
có thể tạo ra sản phẩm thoả mãn những nhu cầu sinh sống của cá nhân và
phục vụ xã hội. Ví dụ: nghề nuôi cá, nghề giáo viên...
2.1.2. Hướng nghiệp
- Có nhiều lĩnh vực khoa học đề cập tới công tác hướng nghiệp để hiểu
được bản chất của khái niệm này chúng ta cần xem xét các định nghĩa khác
nhau về hướng nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
Về phương diện kinh tế học, HN được hiểu là hệ thống những biện pháp
dẫn dắt, tổ chức thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp nhằm sử dụng
hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước. Hướng nghiệp góp phần tích
cực vào quá trình phấn đấu nâng cao năng suất lao động xã hội.
Xét ở bình diện khoa học lao động hướng nghiệp là hình thức giám
định lao động có tính chất chẩn đoán. Đó là quá trình xác lập sự phù hợp
nghề của từng người cụ thể dựa trên cơ sở xác định sự tương ứng giữa
những đặc điểm tâm- sinh lý của họ với những yêu cầu của một nghề nào
đó đối với người lao động.
Tháng 11/1980, Hội nghị lần thứ 9 những ng ười đứng đầu cơ quan
giáo dục nghề nghiệp các n ước XHCN họp tại Lahabana (CuBa) đã
thống nhất “HN là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học,
sinh lý học, y h ọc và nhiều khoa học khác để giúp đỡ học sinh chọn nghề
phù hợp với nhu cầu xã hội đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng,
thích hợp với những n ăng lực, sở tr ường và tâm lý cá nhân, nhằm mục
đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả lực l ượng lao động dự trữ có
sẵn của đất nước [13, tr 76].

Theo từ điển tiếng Việt thì: “HN là thi hành những biện pháp nhằm đảm
bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới n ăng khiếu, năng lực thể lực) nội dung
theo ngành và loại lao động giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề [27, tr.458].
Còn theo từ điển giáo dục học thì “HN là hệ thống các biện pháp giúp đỡ
học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với nguyện
vọng, năng lực, sở trường của mỗi người. Với nhu cầu và điều kiện thực tế
khách quan của xã hội”. [15, tr. 209]
Cũng đề cập tới hướng nghiệp, tác giả Phạm Tất Dong cho rằng “HN
như là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục về y học, kinh tế học
nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề nghiệp phù hợp với hứng thú, năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
lực, nguyện vọng, sở trường của mỗi cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu của các
lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân”.
Dưới góc độ giáo dục phổ thông thì có thể coi “HN là sự tác động của một
hệ thống những biện pháp tác động của nhà trường, gia đình và xã hội, trong đó
nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn
sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển,
đồng thời lại phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân” [20, tr 11].
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp vừa là hoạt động dạy của giáo
viên, vừa là hoạt động của học sinh, có nghĩa là trong công tác HN giáo viên
là người tổ chức, hướng dẫn còn học sinh là người chủ động tham gia vào
hoạt động để tiếp cận với hệ thống nghề nghiệp. Kết quả cuối cùng của quá
trình HN là sự tự quyết định của học sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp
tương lai.
Như vậy hướng nghiệp là một hệ thống biện pháp tác động của gia đình,
nhà trường và xã hội. Trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng

dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề tại
những nơi xã hội đang cần phát triển đồng thời lại phù hợp với hứng thú,
năng lực cá nhân.
Thực chất của công tác HN trong nhà trường phổ thông không phải là sự
quyết định nghề cho mỗi cá nhân mà là điều chỉnh động cơ, hứng thú nghề
nghiệp của thế hệ trẻ nhằm giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội,
giữa cá nhân và nghề, giáo dục sự lựa chọn nghề một cách có ý thức nhằm
đảm bảo con người hạnh phúc trong lao động nghề nghiệp và đạt năng suất
lao động cao.
2.1.3. Giáo dục kỹ thuật tổng hợp
Theo luận điểm của C.Mác “Giáo dục kỹ thuật tổng hợp nhằm cung cấp
cho học sinh những nguyên lý cơ bản, chung nhất của tất cả các quá trình sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
xuất, đồng thời làm cho thanh thiếu niên qua sử dụng và điều khiển các công
cụ cơ bản nhất của các ngành sản xuất”[23, tr.35].
Còn theo luận điểm V.I.Lênin “Giáo dục kỹ thuật tổng hợp chính là cung
cấp cho học sinh những tri thức lý luận và thực tiễn cho tất cả các quá trình
sản xuất”. [23 tr.36]
-Theo Từ điển Giáo dục học thì “Giáo dục kỹ thuật tổng hợp là bộ phận
nội dung giáo dục toàn diện trong trường phổ thông có nhiệm vụ cung cấp
những kiến thức có liên quan đến các ứng dụng khoa học kỹ thuật trong các
ngành sản xuất chủ yếu trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải,
bưu chính viễn thông…. Rèn luyện cái kỹ n ăng kỹ xảo và phong cách lao
động công nghiệp, bồi dưỡng năng lực tư duy khoa học- công nghệ tiên tiến,
giới thiệu các phương pháp tổ chức, quản lý nền kinh tế hiện đại theo cơ chế
thị trường có định hướng XHCN. Giáo dục kỹ thuật tổng hợp là một yêu cầu

có tính nguyên tắc đối với sự nghiệp giáo dục nhằm đào tạo con người lao
động mới xã hội chủ nghĩa, do đó cần được thực hiện trong tất cả cá bậc học,
cấp học phổ thông tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cho phép. Hình thức tổ
chức giáo dục kỹ thuật tổng hợp chủ yếu là lồng ghép và tích hợp liên môn,
ngoài ra có thể tổ chức dạy nghề, tham gia lao động sản xuất, tham quan xí
nghiệp, công trường, nông trường, trang trại…”.[15 tr. 137]
Qua các khái niệm trên cho thấy giáo dục kỹ thuật tổng hợp có hai mặt
chủ yếu:
-Về mặt lý luận, giáo dục KTTH cung cấp cho học sinh những kiến thức
kỹ thuật, nguyên lý cơ bản chung nhất của tất cả các quá trình sản xuất và
những kiến thức có liên quan đến ứng dụng khoa học công nghệ trong các
ngành sản xuất chủ yếu.
-Về mặt thực tiễn, giáo dục kỹ thuật tổng hợp trau dồi và rèn luyện cho
học sinh các kỹ năng để sử dụng và điều khiển các công cụ cơ bản nhất đang
được sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất chủ yếu.

×