Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Võ sáo - môn võ cổ truyền độc đáo của người Yên Thế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.65 KB, 15 trang )

Võ sáo - môn võ cổ
truyền độc đáo của người
Yên Thế


“Trai Cầu Vồng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim...” đó là
những câu ca dao,lời hát mà mỗi chúng ta ai cũng đã một lần
được nghe. Nó đưa ta về với vùng đất Kinh Bắc giàu truyền
thống văn hoá. Trong những nét đẹp văn hố lâu đời của
mảnh đất này,thì có một loại hình văn hố-thể thao đặc sắc
mà ít người biết tới, đó là võ sáo - Yên Thế - Bắc Giang.

Môn võ cổ truyền độc đáo của người dân Yên Thế.
Võ sáo – một loại võ cổ truyền của dân tộc mà ít người biết
đến. Đây là một loại hình võ thuật mang đậm bản sắc văn hố
dân tộc và nó đã xuất hiện từ hàng trăm năm nay. Võ sáo có
nguồn gốc ở vùng rừng núi Yên Thế của tỉnh Bắc Giang.
Trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài suốt 30 năm do
người anh hùng áo vải Hồng Hoa Thám lãnh đạo, thì võ sáo
đã được những người lính trong nghĩa quân sử dụng rộng rãi.
Nghĩa quân Yên Thế xưa đã dùng những cây sáo bằng sắt để
tập hợp quân sĩ hay làm tín lệnh để báo hiệu có kẻ thù đến.
Do được làm bằng sắt nên những cây sáo hồi ấy có khả năng


gây sát thương rất cao. Nhất là khi nó lại được những người
có võ cơng cao cường, điêu luyện sử dụng. Tuy vậy cho đến
ngày nay võ sáo thực sự được chơi, đánh như thế nào thì rất ít
người biết.

Theo như một số sách vở còn ghi chép lại ở bảo tàng Bắc


Giang thì mơn võ sáo đích thực là do những người dân vùng
rừng núi Yên Thế sáng tạo ra. Tuy nhiên ơng tổ của mơn võ
này thì đến nay cũng chưa rõ là ai. Võ sáo đã được người dân
ở Yên Thế sử dụng từ rất lâu trước khi nghĩa qn của Hồng
Hoa Thám biết dùng nó như một vũ khí lợi hại. Thời xưa với
tính sát thương cao, nên võ sáo chủ yếu được dùng vào mục
đích tiêu diệt kẻ thù. Ngay sau khi nghĩa quân Yên Thế thất
bại thì võ sáo cũng đã bị mai một theo thời gian. Suốt gần
một thế kỷ sau người ta khơng cịn nhắc đến cái tên võ sáo
nữa và người chơi nó cũng vắng bóng. Theo họ chỉ như
những ẩn sĩ trong giới giang hồ.


Trong những năm trước đây ở vùng Yên Thế-Bắc Giang xuất
hiện một võ sư là cụ Triệu Uý, người duy nhất kế tục đựơc
truyền thống võ sáo của cha ông. Cả cuộc đời cụ Triệu Uý
gắn liền với môn võ độc đáo này. Theo như một số người dân
kể lại, trước đây vào mỗi sáng họ lại thấy cụ Triệu Uý múa
vài bài võ sáo ở vùng đất ven đồi. Tuy hồi ấy tuổi cụ đã rất
cao, nhưng những bài võ sáo mà cụ biểu diễn thì vẫn rất uyển
chuyển, điêu luyện. Cụ luôn luôn là một tấm gương về ý chí
rèn luyện cả thể và mỹ cho con cháu và học trò noi theo. Cụ
đã nhận nhiều lớp học trị và truyền lại bí quyết mơn võ này
với mong muốn nó sẽ được lưu truyền đến các thế hệ sau.
Nhưng quả thực môn võ sáo này rất kén người học. Khi cụ
Triệu mất thì chỉ có mỗi ơng Quân, học trò của cụ là cơ
bản lĩnh hội được những nét tinh hoa của môn võ này. Hiện
nay ông Quân là một trong số rất ít người biểu diễn được
thành thục, có hồn mơn võ sáo này.


Truyền nhân của võ sáo.


Võ sư Trịnh Như Quân, năm nay đã 58 tuổi, cụ thân sinh ra
ông Quân là võ sư Hiền, từng thi đấu, từng làm trọng tài quốc
tế trên nhiều đấu trường khiến giới võ lâm điên đảo một thời.
Lớn lên, theo đòi nghiệp võ, vào làm ở Sở Thể dục thể thao
Bắc Giang. Năm 1991, một lần đi điền dã sưu tầm các bài võ
cổ trên quê hương của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, nơi núi rừng
rợn ngợp chở che các tráng binh của cụ Đề Thám, từng làm
quân Pháp thất điên bát đảo trong suốt 30 năm ròng (18831913), ông Quân đã bị hút hồn bởi tuyệt kỹ sáo võ Yên Thế.

Vào bản Rừng Phe, Bắc Giang, gặp được cụ Triệu Quốc Úy
truyền nhân cuối cùng của bài võ sáo "Bóng trăng Phồn
Xương", tương truyền là ngón võ sở trường và đam mê của
chính Hồng Hoa Thám - hùm xám Yên Thế - sau một lần
xem và nghe biểu diễn, ơng Qn đã đắm đuối. Ơng bỏ cơng
bỏ việc, bỏ nhà bỏ cửa vào Rừng Phe "bái sư" luyện võ. Cụ
Úy đã dày công "tu luyện" đưa "thiết địch thần phong" (bài
võ dùng sáo sắt vừa thổi trong ngọn gió hoang dại tiêu dao


của đại ngàn, vừa giết giặc) trở nên lung linh hơn. Đến mức,
nhờ có uy danh cụ Úy mà trong cả vùng rừng núi mênh mơng
của n Thế, khơng có trộm cướp, giặc giã trong nhiều năm
trời.

Võ sư Trịnh Như Quân (bên phải) cùng võ sinh biểu diễn
"Bóng trăng Phồn Xương".


Trong một năm trời, sẵn năng khiếu và bản lĩnh võ thuật, ông
Quân đã học được âm thanh và các ngón võ biến ảo của cây
sáo sắt lạnh ngắt. Đến năm 1993, ơng Qn bắt đầu biểu diễn
bài "Bóng trăng Phồn Xương" và võ sáo đã chính thức được


ghi vào "Sổ tay võ thuật toàn quốc", sánh vai với các "kinh
đô" võ thuật lớn trong cả nước. Liên tiếp, các chiêu võ sáo đã
đoạt nhiều giải đặc biệt trong các hội diễn thể thao, văn hoá
các dân tộc trong cả nước.

Thật ra thì việc điều khiển một cây sáo vừa chơi "nhạc" vừa
đánh nhau khi xung trận không phải là cái gì quá lạ lẫm với
những người để ý đến võ thuật. Cây sáo của ông Quân, sắt thì
cũng đúng là sắt, nhưng tưởng là tre trúc thì cũng khơng có gì
khả nghi. Sáo vừa để ngồi lưng trâu tiêu dao với đất trời. Vừa
là tín hiệu truyền tin "thám báo", vừa là vũ khí có thứ nguỵ
trang tuyệt vời, là bùa mê thuốc lú đánh lạc hướng kẻ địch;
lúc lại là thanh kiếm, cây đoản côn bằng sắt dữ dằn, tả xung
hữu đột giữa trận tiền. Với 53 chiêu thức võ cơng, với 13 "bí
kíp" cơ bản của kỹ năng sử dụng kiếm (thập tam kiếm pháp)
được biến hóa để tạo sức cơng phá cho sáo sắt, bài võ "Bóng
trăng Phồn Xương" đã thật sự là một cơn lốc chết chóc với kẻ
thù. Khi biểu diễn, hứng lên, ông Quân và các đệ tử bổ một


nhát sáo sắt chí tử vào chồng ngói cao ngất, tất cả đều tan
tành.

Chỉ dài 60cm, nặng 4 lạng, cây sáo đã có thể kết thúc bằng

một cú chém bổ chí tử. Có lẽ, cả một hịn đá to bằng quả dưa
hấu, bằng cái thủ cấp kẻ thù để trước sân biểu diễn, võ sư
Quân cũng dùng sáo đập cho tan tành được. Nghe tiếng sáo
phát ra từ... khúc sắt, ai tinh ý có thể hiểu được tâm tình và cả
nội công, bản lĩnh của người chơi. Cây sáo 4 lạng đã sát
thương như thế, chắc ai cũng hiểu, cây sáo "Tiêu Tương"
bằng sắt nặng gấp 10 lần như thế (4kg) sẽ đáng sợ tới mức
nào.

Cây xà beng biết hát

Đến một ngày, sau nhiều cơng trình sưu tầm, nghiên cứu võ
thuật cổ, phát huy giá trị của "thiết địch thần phong", ông
Quân quyết định đẩy nghệ thuật võ sáo lên một tầng bậc mới.


Ơng cho ra lị những cây sáo sắt mà khơng ai có thể nghi ngờ
gì về kỷ lục lớn, nặng nhất thế giới của nó: Một cây sáo tên là
"Tiêu Tương", dài 1,6m - nặng 4kg; một cây tên là "Cõi
Thiên Thai" nặng 3,5kg; cây nữa tên "Giọt Mưa Thu"... Ông
đã tâm huyết nhiều tháng ròng để rèn giũa những cái cọc xà
beng khổng lồ thành một cây sáo đích thực; chữ Nho dọc trên
thân sáo được khắc tinh xảo, cơng phu; rồi ơng cịn chỉnh âm,
luyện biểu diễn thành cơng biến tác phẩm của mình thành
những "cái xà beng biết hát". Mà lại là "hát" hay.


Cây sáo dài 1,4m thường được ông Quân dùng để luyện tập
hàng ngày


Ông Quân lùng mua thứ sắt thép đặc biệt; rồi đặt hàng "rèn
sáo" tại một lò rèn nổi tiếng ở Bắc Ninh, nơi có những anh
thợ rèn được thửa từ những cái nôi từng luyện kiếm khét
tiếng xưa kia. Chữ Nho viết trên sáo, ơng Qn phải đích
thân cầu thị mang lễ vật đến nhà xin nhà nghiên cứu "bác cổ
thông kim" Trần Văn Lạng, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp
tỉnh Bắc Giang. Cái việc khắc chữ lên sắt thì phải về tận
thành phố Bắc Ninh mời một nghệ nhân từng đục khắc bia ở
Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) lên đảm trách. Bản thân
ơng thì bỏ mặc ngôi nhà đang xây dở cho vợ để suốt ngày
ơng cị cưa ký qc đi dùi khoan lỗ cho sáo sắt.

Ông Quân ngồi xuống, lên gồng, đưa cây sáo sắt lạnh ngắt,


nhẵn bóng vết tay người lên ngang mơi và đắm đuổi thổi. Kỳ
lạ, chỉ riêng cái việc vác sáo lên vai, người ta cũng dễ đến ê
ẩm cả người, mà ông chơi đủ cả kim cổ giao duyên, từ
"Tiếng sáo người lính trẻ", "Ngày hội non sơng" cho tới nhạc
tiền chiến, với những: Suối mơ, Thiên thai, Giọt mưa thu.
Đến cái đoạn của Đặng Thế Phong: "Giọt mưa thu/ thánh
thót rơi/ trời lắng u hồi/ mây hắt hiu ngừng trơi", tiếng sáo
vẫn bay vổng lơ đãng giữa trời, thì ai nấy giật mình ồ lên
theo cái lối nói của các hiệp sĩ xưa: "Nội công thâm hậu!".
Quả thế, trước khi nói đến nghệ thuật biểu diễn cây sáo lớn
và nặng nhất thế giới, cần khẳng định là gân cốt, sức "thổi
hơi" của cái ông Quân ngấp nghé lục tuần này dẻo thật.

Võ sư Quân múa cây sáo vèo vèo, tiếng gió rít đến lạnh gáy
người thường. Ơng bảo, cây sáo đã được nung qua lị lửa

nóng chảy ở nghìn độ C, nước và lửa khơng làm nó rạn vỡ
cong vênh hay thay đổi âm lượng âm vực được. Tả xung hữu
đột giết thù nhuộm máu giữa ba quân, nó vẫn réo rắt mê đắm


như thường. Là một đoản côn, là một thanh kiếm dữ dằn;
nhưng hơn thế, đó là một nhạc cụ thật sự. Sáo thuộc vào tông
đô trưởng, ông Quân bảo: "Cây sáo khổng lồ của tơi có thể
hồ nhạc điện tử, đáp ứng tốt được các tiêu chuẩn âm nhạc
quốc tế, từng được "thẩm định" qua nhiều kỳ biểu diễn, hội
diễn. Tơi đã nhờ nhiều chun gia, nhạc sĩ có uy tín ở Bắc
Giang, ở Hà Nội mang máy của tây về đo đạc đàng hồng".

Ơng muốn nghiên cứu, phát triển nghệ thuật võ sáo, ông
không phải là một võ sư múa cây sáo sắt như Tôn Ngộ
Không múa thiết bổng. Mà vấn đề là phải đẩy nghệ thuật biểu
diễn sáo sắt đến độ âm thanh và các đường thế tấn cơng của
vũ khí như gió, như mây, lúc như bão táp mưa sa, làm "quân
địch" bạt vía kinh hồn. Chỉ nghe tiếng sáo sắt từ cây "gậy
Như Ý" vang vọng, "đối phương" đủ hiểu hắn đang gặp một
đối thủ "khả kính" như thế nào. Đó là khát vọng để đời của
ông Trịnh Như Quân.


Không biết giấc mơ chấn hưng và thăng hoa cho Thiết địch
thần phong, nghiên cứu ca từ, âm nhạc, viết sách về võ thuật,
biểu diễn tiếng sáo và bài võ từ cây sáo sắt to và nặng như xà
beng của ông sẽ đi về đâu? Chỉ biết rằng, trong căn phịng
riêng luộm thuộm của mình, ơng Qn đang bị ra nghiên cứu
từng ca khúc, nắn sửa từng thế võ, và sáng sáng chiều chiều

tiếng sáo sắt lại réo rắt vang lên với tất cả bầu nhiệt huyết.
Thỉnh thoảng, ông lại bỏ hai cây sáo sắt lớn vào bao, đeo như
đeo súng trường lủng lẳng đi biểu diễn ở núi đồi, ruộng đồng
hay một hội trường trang trọng nào đó. Chợt ông Quân lại
mơ màng: Hình như các nhạc sĩ xưa kia sáng tác các ca khúc
bất hủ, họ đều viết về... đất Hà Bắc chúng tôi để cho... chúng
tôi biểu diễn "Thiết địch thần phong" hay sao ấy(!?).


Này nhé, toàn ca từ trong những nhạc phẩm kinh điển, ai chả
thuộc: "Bên Man Khê cịn tung gió bụi mịt mùng. Bên Tiêu
Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng"; nữa chứ: "Nhớ ai
trên mấy trên núi đồi Yên Thế/ kìa nước xa xa/ sơng Cấm
cịn mịt mùng". Bài "Con thuyền không bến" của Đặng Thế
Phong, "trên sông Thương/ nào ai biết nơng sâu...". Ơng vẫn
réo rắt quay cuồng biểu diễn võ sáo. Mặc, ngồi kia, ngay
cổng nhà ơng, người xứ Bắc cứ ồn ã xây chung cư cao tầng
và bóp cịi xe nhức óc. Ơng Qn chìm lút đến ngộp thở với


bóng trăng xa xăm của Phồn Xương, của núi rừng Yên Thế,
với cả sông Thương chậm nguồn trên xứ Bắc...



×