Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh thở ra ở trẻ em xã Hương Hồ thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh Peak- Flow Eter

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.37 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004

TÌM HIỂU TRỊ SỐ LƯU LƯỢNG ĐỈNH THỞ RA
Ở TRẺ EM XÃ HƯƠNG HỒ THÀNH PHỐ HUẾ
BẰNG MÁY ĐO LƯU LƯỢNG ĐỈNH PEAK- FLOW ETER
Lê Thị Cúc
Trường Đại học Y khoa, Đại học Huế

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản, nhất là hen trẻ em ngày nay là một vấn đề đáng quan tâm của
ngành y tế của các nước trên thế giới vì có khuynh hướng gia tăng cả về tần suất mắc
bệnh cũng như độ nặng.
Để có thể chẩn đốn, đánh giá độ nặng và diễn biến của hen một cách khách
quan, dễ thực hiện tại bệnh viện cũng như theo dõi tại nhà, người ta đã sử dụng máy đo
lưu lượng đỉnh (Peak Flow Meter- PFM)[3,4,5]. Gần đây PFM cũng bắt đầu sử dụng ở
nước ta.
Trên thế giới, người ta sử dụng bảng trị số lưu lượng đỉnh thở ra (Peak
Expiratory Flow- PEF) bình thường do GODFREY và cộng sự xây dựng năm 1970.
Đây cũng là bảng trị số PEF bình thường được Viện Tim Phổi và Máu thuộc Bộ Y tế
Hoa Kỳ sử dụng. Gần đây, một số tác giả Việt Nam đã khảo sát trị số PEF trên người
bình thường ở khu vực Thượng Đình và Thanh Trì, Hà Nội. Tuy nhiên, đối tượng khảo
sát của họ là 12 -15 tuổi. Chúng tơi nghĩ rằng cần có bảng trị số PEF bình thường cho
trẻ em địa phương với đặc thù riêng của nó. Vì thế, chúng tơi thực hiện đề tài: Tìm hiểu
trị số lưu lượng đỉnh thở ra ở trẻ em xã Hương Hồ, thành phố Huế bằng máy đo lưu
lượng đỉnh PFM, nhằm mục đích:
- Xây dựng bảng trị số PEF bình thường ở trẻ em 5 - 15 tuổi thuộc xã Hương Hồ.
- Xác định mối tương quan giữa trị số PEF với tuổi và chiều cao.
Chúng tơi hy vọng góp phần xây dựng bảng trị số PEF bình thường cho trẻ em khu vực
Thừa Thiên Huế cũng như trẻ em Việt Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng:


- Trẻ em bình thường từ 5 - 15 tuổi thuộc 6/9 thơn thuộc xã Hương Hồ, thành
phố Huế gồm 1166 em.

65


- Chọn 200 em, chia đều cho các thôn: Long Hồ Thượng, Long Hồ Hạ, Lựu Bảo,
Dăm Biều, Xướt Dũ, Ngọc Hồ, đạt một tỉ lệ tương đương 17,14 % tùy theo số trẻ thơn
đó có.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp: phương pháp điều tra cắt ngang.
- Chọn mẫu: Dựa theo nghiên cứu trước đó của Nguyễn Thanh Long, chúng tơi
s2
tính: + Cỡ mẫu: theo cơng thức: n = 2 / 2 2

+ Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên: trong mỗi thơn chia thành 5 nhóm
tuổi: 5 - 6 tuổi, 7 - 8 tuổi, 9 - 10 tuổi, 11 - 12 tuổi, 13 - 15 tuổi. Trẻ em trong mỗi nhóm
tuổi được đánh số thứ tự, bốc thăm theo số cho từng nhóm tuổi và theo tỉ lệ phân bố
theo nhóm tuổi của mỗi thơn.
- Trẻ được chọn được hướng dẫn kỹ cách đo PEF bằng máy PFM hiệu
Vitalograph sản xuất tại EC.
- Mỗi trẻ được đo PEF 3 lần và lấy kết quả đo cao nhất. Đồng thời trẻ được đo
chiều cao.
- Xử lý số liệu bằng chương trình STATISTICA.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong khi xử lý số liệu, 1 em đã bị loại ra khỏi quần thể nghiên cứu vì có chiều
cao q thấp so với tuổi (8 tuổi, nhưng chiều cao chỉ 80,5cm). Như vậy chỉ cịn 199 em
từ 5 - 15 tuổi, trong đó có 99 nam và 100 nữ.
Bảng 1: Chiều cao, tuổi và trị số PEF trung bình
Thơng số

- Chiều cao (cm)
- Tuổi (năm)
- Trị số PEF( lít/phút)

N
199
199
199

Tối thiểu
88,50
05
120

Tối đa
156
15
420

Trung bình
123,32
9,57
240,08

SD
13,87
3,11
73,21

Bảng 2: Bảng so sánh tỉ lệ về giới


Giới
- Nữ
- Nam
N

n
100
99
199

Tỉ lệ %
50,30
49,70

p
>0,05

Nhận xét: Sự phân bố về giới không khác biệt với p>0,05.
Bảng 3: Bảng so sánh trị số PEF trung bình theo giới

Giới

PEF (l/ph)
66

p


Nam

243,73± 72,78
>0,05
Nữ
236± 73,8
Nhận xét: Trị số PEF trung bình khơng khác biệt ở cả 2 giới với p>0,05.

67


Bảng 4: Bảng trị số PEF trung bình theo tuổi

Nhóm tuổi

n

Tối thiểu

Tối đa

Trung bình

SD

5-7
8 - 10
11 - 13
14 - 15

65
54

51
29

120
130
200
250

250
300
380
420

169,46
227,78
285,49
341,38

30,55
42,37
42,86
53,10

Nhận xét: Trị số PEF trung bình tăng dần theo tuổi.
Bảng 5: Bảng trị số PEF trung bình theo chiều cao

Chiều cao

n


PEF ( l/ph)

(cm)
85 - 95
95 - 105
105 - 115
115 - 125
125 - 135
135 - 145
145 - 155

3
13
51
52
55
29
14

Tối thiểu

Tối đa

Trung bình

SD

120
120
125

150
200
250
250

220
150
220
300
350
420
410

153,33
139,61
170,49
219,80
282,00
321,37
343,57

57,73
9,67
23,03
35,95
35,98
56,93
56,38

Nhận xét: Trị số PEF trung bình tăng dần theo chiều cao.

Tỉång quan giỉỵa chiãưu cao v PEAKFLOW
PEAKFLOW = -334,0 + 4,6550 * CAO
Hãû säú tæång quan r = 0,88179 (p< 0,01)
450
400

PEAKFLOW

350
300
250
200
150
100
50

80

90

100

110

120

130

140


150

160

CAO

Hình 1: Biểu đồ biểu diễn mối tương quan giữa PEF và chiều cao
68

170


Tỉång quan giỉỵa TØI v PEAKFLOW
PEAKFLOW = 42,750 + 20,613 * TUÄØI
Hãû säú tæång quan : r = 0,87515 (p < 0,01)
450
400

PEAKFLOW

350
300
250
200
150
100
50

4


6

8

10

12

14

16

TUOI

Hình 2: Biểu đồ biểu diễn sự tương quan giữa PEF và tuổi

Phương trình hồi qui của PEF theo chiều cao và tuổi:
PEF = 4,66H+ 20,61A - 291,25
Trong đó: PEF : tính bằng lít/phút
H : Chiều cao tính bằng cm
A : Tuổi tính bằng năm.
Bảng 6: Bảng trị số PEF trung bình và chiều cao ở 175 trẻ từ 6 - 15 tuổi

PEF
Chiều cao

Tối thiểu
125
90


Tối đa
420
156

Trung bình
252,54
125,94

SD
69,03
12.50

4. BÀN LUẬN
4.1. Qua bảng 4 và bảng 5 chúng tôi đã xây dựng được bảng trị số PEF theo tuổi
và chiều cao cho trẻ em từ 5- 15 tuổi tại xã Hương Hồ, thuận tiện, dễ sử dụng.
4.2. Xác định mối tương quan giữa trị số PEF theo tuổi và chiều cao:
Theo bảng trị số PEF của Godfrey và cộng sự [3,4] do Viện máu và tim phổi
Hoa Kỳ đưa ra sử dụng từ năm 1970 thì PEF được tính dựa theo tuổi, giới và chiều cao
tính bằng centimet. Tuy nhiên, theo tác giả Leiner GC và cộng sự (1963) thì PEF của trẻ
em được tính chỉ dựa vào tuổi và chiều cao. Vậy vấn đề đặt ra là có cần thiết phải đối
chiếu PEF với tuổi, giới và chiều cao hay chỉ cần đối chiếu với tuổi và chiều cao thôi.
Theo nghiên cứu của chúng tơi, trị số PEF trung bình giữa nam và nữ ở lứa tuổi 5-15
tuổi không khác biệt có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Điều này được củng cố thêm ở tỉ
lệ phân bố nam nữ trong nghiên cứu cũng khơng có sự khác biệt với p>0,05. Như vậy, ở
trẻ em từ 5 đến 15 tuổi ta chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao là đủ, không cần
69


thiết phải đối chiếu với giới. Điều này cũng phù hợp với sự phát triển thể chất và tinh
thần bình thường ở trẻ em: ở lứa tuổi 5 - 15 tuổi thì chiều cao của trẻ em nữ phát triển

tương đương với trẻ em nam.
Chúng tôi đã xác định được hệ số tương quan r giữa PEF và chiều cao là 0,88
(p<0,01) và giữa PEF và tuổi cũng là 0,88 (p<0,01). Tương quan này là tương quan
thuận và chặt. Như vậy, ở trẻ em 5-15 tuổi, PEF tỉ lệ thuận với tuổi và chiều cao. Điều
này được chứng minh qua biểu đồ tương quan giữa PEF với chiều cao, giữa PEF và
tuổi. Qua hệ số tương quan r, chúng tôi thiết lập được phương trình hồi qui của PEF
theo tuổi và chiều cao:
PEF = 4,66H+ 20,61A- 291,25.
Chúng tôi không thể so sánh phương trình này với nghiên cứu của các tác giả
Nguyễn Đình Hường, Trịnh Bỉnh Di, Nguyễn Văn Tường, Trần Thị Duy, Lê Bá Thúc,
Công Thị Kim Khánh ở trẻ em 12-15 tuổi ở khu vực Thượng Đình và Thanh Trì, Hà Nội
[1]
Bảng 7: So sánh trị số PEF trung bình và chiều cao của trẻ em từ 6 - 15 tuổi
ở xã Hương Hồ với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Long

Nguyễn Thanh Long
(N = 1563)
271,26 ± 65,38
132,09 ± 16,21

PEF
Chiều cao

Chúng tôi (N= 175)

p

252,54± 69,03
125,94± 12,50


<0,01
<0,01

Khi so sánh với Nguyễn Thanh Long (nghiên cứu trên 1563 trẻ từ 6-15 tuổi tại
các trường học khu vực Huế) [2] chúng tơi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,01)về
trị số PEF trung bình và chiều cao. Như vậy có lẽ do nhóm nghiên cứu của chúng tơi là
trẻ em nơng thơn có chiều cao thấp nên trị số PEF trung bình cũng thấp hơn so với trẻ
em thành phố.
Biãøu âäư so sạnh våïi GODFREY
450
400
350

peakflow

300
250
Hỉång Häư

200
150

Godfrey

100
50
95

105


115

125

135

145

155

CHIÃƯU CAO

Hình 3: So sánh đường biểu diễn của Golfrey (đường thẳng dưới)
và chúng tôi (đường thẳng trên).
70


Khi so sánh đường biểu diễn của trị số PEF trung bình theo chiều cao của chúng
tơi với Godfrey [3,4] chúng tôi nhận thấy ở lứa tuổi 5 - 15 tuổi, PEF của trẻ em Hương
Hồ cao hơn cho dù chiều cao khởi điểm của chúng tôi thấp hơn là 95cm. Phải cho đến
chiều cao 150-160 cm thì trị số PEF của cả 2 nhóm mới cân bằng. Phải chăng sau 15
tuổi khi sự phát triển chiều cao ổn định và thể lực tương đối cân bằng thì PEF sẽ giống
nhau? Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Long cũng vậy, trị số PEF ở trẻ có chiều
cao 100- 125 cm cao hơn Godfrey. Như thế phải chăng trẻ em Thừa Thiên Huế nói riêng
và trẻ em Việt Nam có chức năng hô hấp tốt hơn? Điều này chỉ là một nhận xét bước
đầu và cần có một cơng trình nghiên cứu qui mơ trên cả nước mới có thể xác nhận được
điều này. Trong nghiên cứu của chúng tôi nhóm trẻ có chiều cao 85-95cm có trị số trung
bình cao hơn nhóm trẻ 95 - 105cm có lẽ là do nhóm 85 - 95cm chỉ có 3 trẻ. Do đó, trị số
PEF này khơng thể đại diện được mà cần phải làm thêm số trẻ ở nhóm này.
5. KẾT LUẬN

- Có mối tương quan thuận và chặt giữa PEF với chiều cao và tuổi.
- Chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao ở trẻ em 5-15 tuổi.
- Mặc dù PEF của Godfrey được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng kết quả
của chúng tôi lại cao hơn. Do đó, cần xây dựng một bảng PEF riêng cho trẻ em Việt
Nam để có kết quả chính xác hơn trong chẩn đoán, điều trị và theo dõi trẻ em bị hen.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Tường, Trịnh Bỉnh Di, Nguyễn Đình Hường và cộng sự. Giá trị bình
thường các chỉ tiêu chức năng phổi nghiên cứu tại khu vực Thanh Trì và Thượng
Đình, Hà Nội. Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt
Nam, NXB Y học Hà Nội (1996) 143.
2. Nguyễn Thanh Long. Thử tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh bình thường ở trẻ em
trường học khu vực thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh Mini - Wright. Tập
san Nghiên cứu khoa học, trường Đại học Y Khoa Huế (1996) 13 - 14
3. Leiner GC et al. Expiratory peakflow rate. Standard values for normal subjects.
Use as a clinical test of ventilatory function. Am Rev Resp Dis (1963).
4. Man S. Kavuru and Herbert P. Wiedemann. Diagnois and Management of Asthma.
(1998) 33
5. Chretien, J. Marsac. Pneumologie 3e edition, Masson (1990) 89

TĨM TẮT
1. Mục đích của đề tài: Tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh thở ra ở trẻ em xã Hương Hồ
thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh Peak- Flow Meter là:
71


- Xây dựng bảng trị số PEF bình thường ở trẻ em 5- 15 tuổi thuộc xã Hương Hồ.
- Xác định mối tương quan giữa trị số PEF với tuổi và chiều cao.
2. Phương pháp nghiên cứu: Điều tra cắt ngang.
3. Kết quả:
- PEF trung bình ở trẻ trai khơng khác biệt so với trẻ gái (p>0.05).

- Có mối tương quan thuận và chặt giữa PEF với chiều cao và tuổi.
- PEF trung bình ở trẻ em 5-15 tuổi ở xã Hương Hồ cao hơn ở bảng Godfrey.
4. Kết luận:
- Chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao ở trẻ em 5-15 tuổi.
- Mặc dù PEF của Godfrey được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng kết quả của chúng
tơi lại cao hơn. Do đó, cần xây dựng một bảng PEF riêng cho trẻ em Việt Nam để có kết quả
chính xác hơn trong chẩn đốn, điều trị và theo dõi trẻ em bị hen.
STUDYING THE PEAK EXPIRATORY FLOW (PEF) IN THE CHILDREN
AT HUONG HO COMMUNE WITH PEAK FLOW METER
Le Thi Cuc
College of Medicine, Hue University
SUMMARY
1. Study aim
- Establish the normal PEF in the children aged 5 to 15 at Huong Ho Commune
- Establish the relationship between the PEF in age and height.
2. Method:
Cross and randomized study of 200 children aged from 5 to 15 at Huong Ho Commune.
3. Results:
- The mean PEF is the same between males and females. (P 0.05).
- There is a good relationship between the PEF in age and height.
- The normal PEF in the children aged from 5 to 15 at Huong Ho Commune is higher
than the one by Godfrey et al widely used in the world.
4. Conclusion:
- It is sufficient to compare PEF with age and height.
- There should be a normal DEF designed for the Vietnamese children.

72




×