Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế của việt nam từ đổi mới đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.31 KB, 63 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Q TRÌNH CHUYỂN ĐỔI MƠ HÌNH KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

Người hướng dẫn

: TS. Đinh Thị Phượng

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Lớp

: 13 SGC

Đà Nẵng, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất cứ hình
thức nào trước đây. Những tư liệu, số liệu, và nhận định được sử dụng để phục vụ
trong bài khóa luận được tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong tài
liệu tham khảo và trích dẫn chú thích nguồn rõ ràng.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về
nội dung bài khóa luận của mình.


Tác giả đề tài

Nguyễn Thị Ngọc Diệp


LỜI CẢM ƠN
Với mong muốn được làm bài khóa luận tốt nghiệp cuối khóa đề nâng cao kiến thức
cũng như kỹ năng cho bản thân, và được sự đồng ý của Cô hướng dẫn TS. Đinh Thị
Phượng tôi đã thực hiện đề tài “Q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Việt Nam
từ đổi mới đến nay”. Để công trình khóa luận này hồn thành đúng tiến độ và khoa
học, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô đã quan tâm hướng dẫn, nhắc nhở,
giúp đỡ tận tình, chu đáo trong suốt q trình tơi thực hiện.
Bên cạnh đó, tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến q thầy cơ giáo trong khoa Giáo dục
Chính trị - trường Đại học Sư phạm Đại học Đà Nẵng đã tạo điều kiện để tơi có thể
hồn thành được đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Song, do buổi đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên bản thân còn hạn
chế về kinh nghiệm cũng như kiến thức nên chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những
hạn chế. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ q thầy cơ, các bạn và những
người có kinh nghiệm để đề tài được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Đà Nẵng, tháng 5 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Ngọc Diệp


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................... 3
2.1. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 3
3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 4
5. Bố cục của đề tài ...................................................................................................... 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu .................................................................................. 4
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 7
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUÁ TRÌNH
CHUYỂN ĐỔI MƠ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY ..... 7
1.1. Bối cảnh lịch sử chuyển đổi mô hình kinh tế của Việt Nam ............................. 7
1.1.1. Bối cảnh trong nước .................................................................................... 7
1.1.2. Bối cảnh quốc tế ........................................................................................ 10
1.2. Q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Đảng ............................................. 14
1.2.1. Q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Đảng từ đại hội IV đến Đại hội
VIII
............................................................................................................... 14
1.2.2. Q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Đảng từ đại hội IX đến Đại hội
XII
............................................................................................................... 18
1.3. Thực tiễn chuyển đổi mơ hình kinh tế ở Việt Nam ......................................... 23
1.3.1. Quá trình chuyển đổi ở địa phương .......................................................... 23
1.3.2. Thành công trên phạm vi cả nước ............................................................. 34
CHƯƠNG II. THÀNH TỰU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG Q
TRÌNH CHUYỂN ĐỔI MƠ HÌNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM............................. 39
2.1 Thành tựu đạt được ........................................................................................... 39
2.2 Hạn chế của q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế ở Việt Nam từ đổi mới đến

nay ........................................................................................................................... 47
2.3 Một số vấn đề đặt ra trong q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Vệt Nam
hiện nay ................................................................................................................... 48
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 54
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 56


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn ba mươi năm đổi mới đất nước, thực tiễn đã chứng minh đường lối kinh tế
của Đảng là đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, phù với với đặc điểm
riêng của Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân đã nỗ lực phấn đấu, đưa đất
nước vượt qua khó khăn, thử thách. Ngày nay, Việt Nam có diện mạo hồn tồn mới:
Thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng; đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trong tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện; thiết lập mối
quan hệ với nhiều nước lớn trên thế giới, địa vị và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế ngày càng cao.
Nhìn lại lịch sử, khi đất nước còn chiến tranh, cơ chế tập trung, bao cấp đã huy
động được tối đa nguồn nhân lực, vật lực phục vụ kháng chiến. Nhân dân trong khơng
khí hào hùng của dân tộc,với khát vọng độc lập, tự do đã đem sức người, sức của phục
vụ cho Cách mạng, cùng Đảng tham gia kháng chiến, thống nhất nước nhà. Sau khi
miền Nam Việt Nam được hoàn tồn giải phóng (4 - 1975) và đất nước thống nhất
(năm 1976), trong khơng khí phấn khởi, tràn đầy hi vọng, cả nước bắt đầu ngay vào
việc thực hiện kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế với hai kế hoạch 5 năm - (1976
- 1980) và (1981 - 1985) để tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, kế hoạch
này vẫn giữ mơ hình kinh tế tập trung, bao cấp như trước khi giải phóng. Sau thời gian
ngắn áp dụng, mơ hình này bộc lộ những hạn chế yếu kém, kiềm hãm phát triển của
lực lượng sản xuất, nghiêm trọng hơn, làm cho nền kinh tế nước ta đứng trên bờ vực
khủng hoảng, suy thoái, sản xuất đình trệ, tăng trưởng chậm, tình trạng thiếu lương

thực, thực phẩm diễn ra khắp nơi, ngân sách thiếu hụt, hàng hóa tiêu dùng thiết yếu
thiếu trầm trọng, nạn lạm phát tăng nhanh, nạn đói nghèo bao trùm làm đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn, cịn ở miền Nam là một nền kinh tế hỗn hợp giữa sản xuất
hàng hóa nhỏ đa sở hữu do thời kỳ thực dân Mỹ thống trị hơn 20 năm để lại.
Đường lối và chính sách đổi mới trong Đại hội VI (1986) như một làn gió mới,
tia hy vọng mới, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Đây là kết quả của quá trình
tìm tịi thử nghiệm, bám sát thực tiễn, vừa làm tổng kết kinh nghiệm của Đảng.Từ chỗ
không thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kinh tế tư nhân đến
1


thừa nhận; từ rập khn theo mơ hình kinh tế của Liên Xơ đến lựa chọn mơ hình kinh
tế riêng phù hợp với đặc điểm của Việt Nam là bước đột phá rất lớn của Đảng và nhân
dân ta. Chính đột phá này là chìa khố quan trọng của thành tựu hơn 30 năm đổi mới
đất nước. Từ Đại hội VI, Đảng ta xác định đúng tầm quan trọng của mơ hình kinh tế
thị trường trong bối cảnh đất nước hiện tại. Trải qua 15 năm tìm tịi đổi mới tư duy và
dựa vào thực tiễn, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học
lớn tại các kỳ Đại hội Đảng, đến Đại hội lần thứ IX khẳng định mơ hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây thực chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và đây là mơ hình kinh tế hồn tồn mới, chưa có trong
tiền lệ lịch sử, chưa từng được đề cập đến trong tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.
Ăngghen, V.Lênin, cũng chưa từng có dân tộc nào xây dựng và làm mẫu. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là nền kinh tế mở phù hợp với xu
thế hội nhập kinh tế

uốc tế. Với nhiều hình thức sở hữu và cơ cấu kinh tế bao gồm

nhiều thành phần, trong đó sở hữu tồn dân về tư liệu sản xuất là chủ yếu và kinh tế

nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đã tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi cho giải phóng
sức sản xuất, khai thác tiềm năng trong và ngồi nước. Nhờ đó, cải thiện đời sống nhân
dân và thực hiện công bằng xã hội đưa Việt Nam ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp
và bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình.
Ngày nay, Việt Nam được thế giới biết đến là một nước có nền kinh tế tăng
trưởng cao, nền kinh tế năng động, từng bước đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Sự nghiệp đổi mới vẫn đang được tiếp tục hướng tới xây dựng và hồn thiện
mơ hình kinh tế năng động và cơ chế tự điều chỉnh linh hoạt. Nhìn lại quá trình chuyển
đổi mơ hình kinh tế từ tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là chặng đường có nhiều khó khăn thử thách. Đặc biệt đứng trước những
biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, sự sụp đổ của Liên Xơ, suy thối kinh tế tồn
cầu, và những thay đổi trong quan hệ giữa các nước lớn; hay xu thế toàn cầu hoá ngày
càng mở rộng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho q trình chuyển đổi mơ hình kinh
tế của Việt Nam. Xuất phát từ những vấn đề trên, tơi quyết định chọn “Q trình

2


chuyển đổi mơ hình kinh tế của Việt Nam từ đổi mới đến nay” làm hướng nghiên cứu
chính đề tài khóa luận.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thơng qua phân tích bối cảnh lịch sử những năm 80 cua thế kỷ XX và đột phá
tư duy kinh tế của Đảng, đề tài tập trung làm sáng tỏ q trình chuyển đổi mơ hình
kinh tế Việt Nam từ kế hoạch, bao cấp sang mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; đồng thời đề tài còn rút ra những bài học kinh nghiệm trong q trình
chuyển đổi mơ hình kinh tế ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng do mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp áp dụng trong

hai kế hoạch 5 năm lần hai (1976 - 1980) và lần ba (1981 - 1985) khơng cịn phù hợp
với bối cảnh đất nước hiện tại, quan hệ sản xuất đã lỗi thời làm kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Trong khi đó, thế giới trong thời gian này phát triển theo
những xu hướng sau: Xu hướng xung đột và đối đầu đang từng bước thay đổi sang xu
hướng hợp tác và cạnh tranh; sự trỗi dậy mạnh mẽ và vươn lên thành những con rồng
của các nước trong khu vực Đông Nam Á ; công cuộc cải tổ không thành công dẫn đến
sụp đổ ở Liên Xô; tiếng vang của những thành tựu công cuộc cải cách kinh tế ở Trung
Quốc theo hướng thị trường; xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Từ chính bối
cảnh đó, để hồn thành mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ làm rõ các vấn đề cụ thể
như sau:
- Phân tích Cơ sở lý luận và thực tiễn của q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế Việt
Nam từ đổi mới đến nay.
- Thành tựu và một số vấn đề đặt ra trong q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế ở Việt
Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan
điểm đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát
3


hóa, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về mơ hình kinh tế chỉ huy, kế hoạch hóa và mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên có sở đó phân tích, so sánh,
tổng hợp các tài liệu về q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế trước đổi mới và sau đổi
mới để chọn được những tài liệu phù hợp, phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Việt Nam từ mơ hình kinh tế kế
hoạch, bao cấp sang mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu q trình chuyển đổi từ mơ hình kinh tế kế hoạch, bao cấp sang mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ đổi mới đến nay.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo. Đề tài gồm có 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Việt
Nam từ Đổi mới đến nay.
Chuơng 2: Thành tựu và một số vấn đề đặt ra trong q trình chuyển đổi mơ hình kinh
tế ở Việt Nam.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Chuyển đổi mơ hình kinh tế là tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội,
xung quanh vấn đề này cịn có các cơng trình nghiên cứu sau:
Phạm Thị

“chuyển đổi mơ hình kinh tế ở Việt Nam, thực trạng và kinh

nghiệm”, xuất bản năm 2002, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội, cơng trình khẳng định về
q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Việt Nam là chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đây chính là
một cuộc cải cách sâu rộng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nó bắt nguồn
từ khát vọng nội tại của nhân dân cùng với tư duy đổi mới của Đảng lãnh đạo, nhằm
xóa bỏ cơ chế quản lý trì trệ, xây dựng cơ chế mới năng động phù hợp hơn với xu thế
của thời đại. Trong “Tư duy kinh tế Việt Nam: Chặn đường Gian nan và ngoạn mục”,
xuất bản năm 2008, Nxb Tri thức, Hà Nội. Đặng Phong phân chia những chặn đường
đổi mới tư duy kinh tế theo các thời kì cụ thể: 1975 - 1979, 1979 - 1986, 1986 - 1989
và dừng lại ở mỗi chặng là những dấu mốc cụ thể, những cá nhân nổi bật và những
4


quyết sách táo bạo đem lại những biến chuyển “thay da đổi thịt” cho cả nền kinh tế đất
nước. Đó là q trình tìm tịi, đúc kết kinh nghiệm của nhiều ý tưởng, nhiều trăn trở.

Trong q trình đó có những bộ óc bức phá nhưng cũng có những quan điểm trì trệ.
Tất cả những ý tưởng đó trải qua q trình đấu tranh, tìm tịi, đúc kết kinh nghiệm,
gian nan và ngoạn mục để tiến tới sự đồng thuận cao trong tư duy kinh tế cho Việt
Nam. Đặng Phong trong “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới”, xuất bản năm
2009, Nxb Tri thức, Hà Nội, xoay quanh vấn đề kinh tế của Việt Nam. Trong thực tế,
trước đó nhiều năm đã có hàng loạt mũi đột phá can đảm, gian nan, trầy trật, mưu trí,
sáng tạo, mà theo cách gọi thời đó là những cuộc “phá rào”. Đại hội Đảng lần thứ VI
là thời điểm bắt đầu đổi mới. Cuốn sách này là góp phần dựng lại một bức tranh sống
động, phong phú về những tìm tòi, tháo gỡ trong thời kỳ “phá rào”. Tác giả Huỳnh
Bửu Sơn với “Giấc mơ hóa rồng”, xuất bản năm 2016, Nxb Thế giới, là lời kể lại
chặng đường 25 năm mà chuyên gia kinh tế đã trải qua và ghi chép lại về công cuộc
đổi mới đất nước, từng bước thốt khỏi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp,
từng bước khôi phục nền kinh tế thị trường, đa thành phần sở hữu và một cơ chế quản
lý thơng thống. Đó là niềm mơ ước và trăn trở của ông và cũng là của biết bao thế hệ
người Việt, những ai mong muốn đưa đất nước thoát khỏi vịng xốy nghèo khổ, lạc
hậu đều mong ước một ngày đất nước mình trở nên phát triển, lớn mạnh trong khu vực
và thế giới. Và đổi mới chính là chính sách thể hiện khát vọng to lớn ấy nhằm thay đổi
bộ mặt đất nước toàn diện, đi đến tương lại thịnh vượng, đáp ứng mong mỏi của hàng
triệu người dân. Tác giả Mạnh Hùng với “Kinh tế xã hội Việt Nam, thực trạng xu thế
và giải pháp”, xuất bản năm1996, Nxb Thống kê, Hà Nội, cho chúng ta biết thêm về
tình hình kinh tế ở Việt Nam những năm đầu của q trình chuyển đổi mơ hình kinh
tế, đặc biệt là giai đoạn 1991 - 1995. Ngoài việc phân tích, đánh giá chung về tình hình
kinh tế, xã hội ở nước ta, tác giả còn đi sâu và phân tích các ngành, lĩnh vực cụ thể
như: nơng lâm ngư nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ…qua đó, phân tích số liệu thống kê
để chỉ ra tình hình kinh tế nước ta lúc bấy giờ và đề ra mục tiêu, hoạch định đường lối
chính sách, xây dựng qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong mười năm tới.
Cuốn sách “Những vấn đề kinh tế Việt Nam”, xuất bản năm 2015, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, của Võ Đại Lược đã đi vào các vấn đề kinh tế của Việt Nam đã đạt được
từ đổi mới cho đến nay với các vấn đề chủ yếu như gồm những vấn đề như: Đổi mới
5



tư duy, quan điểm và định hướng phát triển Việt Nam, đổi mới và hoàn thiện chế độ sở
hữu, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế đến thực tế Việt Nam, tăng trưởng kinh
tế và bất bình đẳng xã hội, tình hình kinh tế Việt Nam. Góc nhìn của tác giả chú trọng
vào các vấn đề của sự phát triển kinh tế Việt Nam và từ đó đề xuất các giải pháp cần
thiết. Thực tế đến nay cho thấy các kiến giải và giải pháp mà tác giả đề xuất đã phù
hợp với thực tế và phù hợp với các chính sách của Đảng và Nhà nước đã được áp
dụng. Tuy nhiên, cũng cịn có những đề xuất cần thời gian nghiên cứu và ứng dụng cụ
thể. Cuốn sách Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam, xuất bản năm 2013, Nxb Tri
thức, Hà Nội. Đây là tuyển tập những bài viết tâm huyết của Trần Văn Thọ, tác giả đã
nghiên cứu rất nghiêm túc những giác độ khác nhau của kinh tế Việt Nam bằng việc
nhìn lại chằn đường 40 năm kể từ ngày giải phóng đất nước. Chỉ ra với những căn cứ
xác đáng các mặt yếu kém, các cơ hội và thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Khơng chỉ có giá trị khoa học và thực tiễn vững chắc, cuốn sách này cũng cảnh báo
những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, trong đó nguy cơ chưa giàu đã già
là đáng lo nhất. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến mặt trái của việc sử dụng kéo dài
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, của chinh sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài và việc xuất khẩu lao động. Để Việt Nam phát triển xứng đáng với tiền năng
đang có, tác giả đề cao tư duy phát triển và kỳ vọng thế hệ lãnh đạo mới của Việt nam
sẽ có khát vọng và quyết tâm chính trị để đưa đất nước Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
Đưa ra những thách thức hiện tại, đổi mới tư duy và tầm nhìn chiến lược cho 20 năm
tới.
Nhìn chung, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề kinh tế ở nước ta, tuy nhiên,
các cơng trình nghiên cứu này chỉ nghiên cứu ở từng vấn đề trong kinh tế, nhìn nhận ở
từng góc độ của q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Việt Nam từ đổi mới đến
nay. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề quan trọng, then chốt trong phát triển kinh tế của đất nước.
Vì vậy, để tiếp nối mạch nghiên cứu của nhiều cơng trình trên, trong q trình làm khóa luận tốt
nghiệp, dưới sự định hướng của giảng viên hướng dẫn, tác giả chọn đề tài “ Q trình chuyển

đổi mơ hình kinh tế của Việt Nam từ đổi mới đến nay” làm hướng nghiên cứu chính
khóa luận tốt nghiệp của mình.

6


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA Q TRÌNH
CHUYỂN ĐỔI MƠ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
1.1.

Bối cảnh lịch sử chuyển đổi mơ hình kinh tế của Việt Nam

1.1.1. Bối cảnh trong nước
Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai
đoạn mới, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào q trình khơi phục và phát triển đất
nước và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Bắc, do sự tàn phá của chiến tranh, kinh tế vẫn trong tình trạng hết sức
nghèo nàn và lạc hậu, sản xuất nhỏ với lao động thủ công là phổ biến. Năng xuất lao
động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích lũy; cơng nghiệp cịn nhỏ
bé, chưa đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững mạnh cho nền kinh tế quốc dân; sản
xuất nông nghiệp chưa đủ cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu
cho công nghiệp, hàng hóa xuất khẩu; lực lượng lao động xã hội chưa được phân bố và
sử dụng hợp lý. Nền kinh tế bước đầu có phát triển nhưng bị mất cân đối nghiêm
trọng. Trong quan hệ sản xuất, kinh tế quốc danh và kinh tế tập thể chiếm vị trí tuyệt
đối, kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, kinh tế cá thể tuy cịn tồn tại nhưng khơng đáng kể, chủ
yếu là trong khu vực nông nghiệp, tiểu thủ thương nghiệp và bn bán nhỏ.
Ở miền Nam, do chính sách thực dân mới của Mỹ, kinh tế bước đầu phát triển
theo hướng tư bản chủ nghĩa, kinh tế phát triển hơn ở miền Bắc. Sau ngày giải phóng,
mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp ở miền Bắc được áp dụng trên phạm

vi cả nước. Trong khơng khí vui tươi của ngày giải phóng, cả nước phấn khởi, bắt tay
bước vào xây dựng lại nền kinh tế với kế hoạch năm năm lần thứ hai và thứ ba. Kế
hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) với nhiệm vụ hàng đầu là tập trung lực lượng
sản xuất nông nghiệp một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Với các chỉ tiêu
kinh tế kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản về phát triển sản xuất như: “Đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, đưa nền kinh tế ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một
cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa xây dựng kinh tế địa
phương; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập, hoàn thiện quan hệ sản xuất
7


mới” [37]. Kế hoạch đã được vạch ra nhằm nhanh chóng xây dựng nền sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, kế hoạch này đã không coi trọng đúng mức việc khôi phục
và sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình
quy mơ lớn, khơng tập trung sức giải quyết căn bản để vấn đề lương thực, thực phẩm,
phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mặc dù trong kế hoạch này có
sự đầu tư khá lớn nhưng phần lớn các chỉ tiêu đều không đạt được.
Mặc khác, trong thời gian này, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các
nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xơ Và các nước Đơng Âu) khơng cịn nguồn viện trợ
khơng hồn lại như trước nữa mà trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Nguồn vốn vay từ các
nước xã hội chủ nghĩa ngày càng giảm sút. “Trước hết là khoản viện trợ của Trung
Quốc, trước đây thường vào khoảng 300 - 400 triệu USD/năm. Từ sau ngày giải
phóng, do nhiều diễn biến phức tạp trong qua hệ quốc tế, nguồn hàng này giảm mạnh
và đến năm 1977 thì chấm dứt hoàn toàn. Năm 1978, Việt Nam tham gia Hội đồng
tương trợ kinh tế (SEV), phải chấp nhận mọi thiết chế của khối kinh tế đó, trong đó có
thiết chế về giá. Do vậy, nguồn hàng nhập khẩu trong khối SEV cao hơn khoảng 2,5 3 lần so với mức giá hỗ trợ hữu nghị của các nước xã hội chủ nghĩa dành cho Việt
Nam. Trong khi đó Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận kinh tế” [23, tr.29]. Chúng ta biết
rằng, nguồn hàng phong phú ở miền Nam chủ yếu là do nhập khẩu. Mỗi năm, miền

Nam phải nhập khẩu khoảng trên dưới một tỷ USD, thông qua hệ thống viện trợ Mỹ.
Nguồn này chấm dứt đột ngột sau ngày giải phóng làm đảo lộn cả q trình sản xuất
cũng như tiêu dùng. Hơn nữa, chiến tranh biên giới phía Bắc và chiến tranh biên giới
phía Tây năm 1978 - 1979 gây ra những đảo lộn lớn trong nền kinh tế nước ta. Do vậy,
từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng.
Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985) tiếp tục thực hiện tiêu mà Đại hội
Đảng lần thứ IV năm 1976 đề ra. Đó là tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng
thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh
mẽ hơn nữa của cơng nghiệp nặng. Hồn thành cơng cuộc cải tại xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cũng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Kết quả là nền kinh tế càng rối ren và
8


khủng hoảng trầm trọng hơn: Các ngành sản xuất, dịch vụ bị đình trệ, nền kinh tế mất
cân đối, phân phối lưu thông rối ren, thâm hụt lớn về thương mại và ngoại tệ. Thiếu
hụt trong cán cân thanh toán quốc tế, nhập siêu ngày càng lớn, nợ nước ngoài tăng.
Thất nghiệp tràn lan, nạn lạm phát tăng nhanh, giá cả leo thang. Cơ chế tập trung, bao
cấp ngày càng nặng nề hơn.
Như vậy, sau hai kế hoạch 5 năm kể từ khi thống nhất đất nước (1976 -1985),
nền kinh tế đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng : “Từ năm 1976 đến năm
1985, thu nhập quốc dân bình qn mỗi năm chỉ tăng 3,7%; nơng nghiệp là ngành then
chốt, chiếm khoảng 50% thu nhập quốc dân, nhưng những năm 1976 - 1985, bình
quân mỗi năm chỉ tăng 3,8%. Sản xuất nơng nghiệp vẫn mang tính chất độc canh lúa,
sản lượng lương thực năm 1985 là 18,2 triệu tấn, bình qn đầu người là 304 kg. Sản
xuất nơng nghiệp được tăng đầu tư vốn lớn nhưng tốc độ tăng rất thấp và khơng ổn
định. Bình qn mỗi năm trong những năm 1975 - 1985, giá trị tổng sản lượng nông
nghiệp chỉ tăng 5,2%. Sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của

người dân. Hầu như tồn bộ tích lũy và nhu cầu tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay
nợ nước ngoài. Trong những năm 1976 - 1980, vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm
38,2% tổng thu nhập trong nước và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Số liệu tương
ứng trong thời kỳ 1981 - 1985 là 22,4% và 28,9%. Đến năm 1985, nợ nước ngoài lên
tới 85 tỷ rúp và 1,9 tỷ đơla” [25, tr.18]. Trong khi đó ngân sách vẫn thâm hụt và phải
bù đắp bằng phát hành. Nhiều loại sản phẩm bình qn đầu người năm 1985 cịn thấp
hơn năm 1976 do sản xuất không đủ tiêu dùng nên hầu hết các loại hàng hóa đều phải
nhập khẩu, kể cả một số mặt hàng trong nước có thể sản xuất được như gạo, vải. “Lạm
phát tăng nhanh, chỉ số lạm phát đến đỉnh cao vào năm 1986 là 776,9%” [25, tr.19].
Đời sống nhân dân khó khăn gay gắt. Do đó đời sống nhân dân ngày càng khó khăn,
nhất là công nhân viên, lực lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiêu cực và bất
công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút, lòng tin của nhân dân vào Đảng bị
lung lay.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng khủng hoảng trì trệ một mặt do nước ta
xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, nền kinh tế lạc hậu với nông
nghiệp và sản xuất nhỏ là chủ yếu, công nghiệp mới bắt đầu hình thành. Hơn nữa, 30
năm chiến tranh ác liệt đã tàn phá nền kinh tế hết sức nặng nề, phải đối phó với cuộc
9


chiến tranh biên giới, viện trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ chiến tranh. Mặt khác,
trong công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội, chúng ta có những biểu hiện nóng vội, muốn
xố bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư
bản tư nhân thành quốc doanh, nhưng thực tế cho thấy lực lượng sản xuất bị kìm hãm
khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả trong trường hợp quan hệ
sản xuất không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Cải tạo một cách gị ép, chạy theo số lượng khơng coi trọng chất
lượng, buông lỏng quản lý. Cơ chế kế hoạch hố tập trung, bao cấp được duy trì q
lâu. Nhiều chính sách thể chế lỗi thời chưa được bãi bỏ. Một số cải tiến được đưa ra
nhưng mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, khơng ăn khớp thậm chí trái ngược nhau. Mơ

hình kinh tế kế hoạch hố tập trung đã là sức cản lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội,
bộc lộ rõ những hạn chế nhất định.
Trong 10 năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985), do chủ quan,
muốn sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã vi phạm quy luật khách
quan là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Kết quả là kinh tế suy thoái nghiêm trọng, đời sống nhân dân vơ cùng khó khăn. Việc
thừa nhận kinh tế thị trường khơng phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản mà
là sự phát triển khách quan của nền kinh tế hàng hóa. Mỗi nền kinh tế muốn phát triển
cần phải sử dụng hiệu quả nền kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm, điều kiện, mục
tiêu. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam đứng trước những thách thức to lớn. Vì
vậy, thực tiễn đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp thiết phải nghiên cứu, tìm tịi thay đổi
mơ hình cũ bằng mơ hình mới phù hợp hơn để đưa nền kinh tế đất nước khỏi khủng
hoảng và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
1.1.2. Bối cảnh quốc tế
Bước vào những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới đã diễn ra những biến đổi to lớn,
sâu sắc: Những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tồi tệ nhất, bên cạnh đó, tồn cầu
hóa là hiện tượng nổi bật. Sự phát triển vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật hiện đại cùng với sự phát cao của nền kinh tế đã tác động to lớn đến nền kinh tế
thế giới.
Xu thế từ chiến tranh chuyển sang hịa bình là xu thế chung của nhân loại. Trên
bình diện thế giới, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, các nước tập trung
10


khắc phục hậu quả của chiến tranh, tập trung xây dựng và phát triển kinh tế. Ở hầu hết
các nước tư bản chủ nghĩa đã bắt đầu tiến hành điều chỉnh, thích ứng và sử dụng thành
quả của khoa học công nghệ vào đời sống, nhất là lĩnh vực kinh tế. Hướng điều chỉnh
là phát triển các ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao, thực hiện điều tiết kinh
tế thơng qua các cơng cụ và chính sách vĩ mơ, đặc biệt là chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ, tăng cường vai trị kinh tế tư nhân. Các nước trong khu vực Đông Á và

Đông Nam Á trong giai đoạn này đã thực hiện cải cách kinh tế và trở thành khu vực
kinh tế năng động của thế giới. Thực hiện liên tục cải cách cơ cấu, xác định chiến lược
đúng đắn để cạnh tranh và phát triển theo các xu hướng như: Ổn định chính trị là tiền
đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Lựa chọn chiến lược xuất khẩu, hướng ra thị
trường thế giới, điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt lạm phát, thu hút vốn
đầu tư nước ngồi. Nâng cao trình độ dân trí, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, phát
triển nhân tài. Thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường liên kết kinh tế quốc tế,
khuyến khích xuất khẩu. Khai thác triệt để nguồn lao động dồi dào và rẽ nhưng có tay
nghề cao. Từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên
Xô, các nước Đông Âu, Trung

uốc cũng tiến hành cải cách kinh tế theo hướng thị

trường. Các cuộc cải cách ở các nước này diễn ra ở thời điểm khác nhau và có kết quả
khác nhau nhưng nhìn chung là nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung mang lại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, cuộc cuộc cải cách ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã
không đạt được kết quả mong muốn, dần dần dẫn đến khủng hoảng và mơ hình chủ
nghĩa xã hội ở các nước này bị sụp đổ. Ngược lại với các nước trên, công cuộc cải
cách ở Trung Quốc vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX lại mang thành tựu to lớn:
Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh, mức sống của nhân dân được nâng lên đáng
kể, xã hội chủ nghĩa được cũng cố vững chắc.
Bên cạnh hai xu thế trên thì tồn cầu hóa đang trở thành một làn sóng mạnh mẽ, hệ
thống kinh tế thị trường càng phát triển theo hướng mở, không bị giới hạn bởi các
đường biên giới và ranh giới dân tộc, chủng tộc và tơn giáo. Đó là mơi trường thuận
lợi cho q trình tự nhiên xích lại gần nhau của các cộng đồng dân cư trên tồn thế
giới. Tồn cầu hố phản ánh một q trình mà thơng qua đó thị trường và sản xuất ở
nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Giai đoạn từ cuối
11



thập kỷ 80 đến nay vẫn là một giai đoạn tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế nổi
rõ nhất với những đặc trưng sau đây: Chấm dứt chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã kết thúc thời kỳ thế giới hai cực, chấm dứt sự đối
đầu giữa hai hệ thống, mở ra thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu thực sự với sự chuyển
đổi của các quốc gia từng là xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển sang kinh tế thị
trường, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế; xu thế hồ bình, hợp tác phát triển đã trở
thành xu thế chính của thời đại. Từ cuối thập kỷ 80, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
hầu hết các nhà nước quốc gia đi theo kinh tế kế hoạch từ chối mở cửa hội nhập quốc
tế đã bắt đầu thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa hội nhập quốc tế. Các
nhà nước quốc gia nói chung cho đến nay đã chấp nhận tồn cầu hố và Hội nhập kinh
tế quốc tế, do vậy đã tham gia IMF, WB và WTO, và các tổ chức kinh tế khu vực. Sự
bùng nổ của thị trường tài chính tồn cầu: Vào nửa cuối thập kỷ 80, tốc độ và quy mơ
giao dịch tài chính toàn cầu đạt mức độ cao hơn chưa từng thấy. Sự phát triển mạnh
mẽ của các công ty xuyên quốc gia: Các cơng ty xun quốc gia kinh doanh tồn cầu
đã gia tăng nhanh chóng và ngày càng trở thành những chủ thể cơ bản chi phối nền
kinh tế toàn cầu. Các tổ chức xã hội dân sự ngày càng có vai trị lớn hơn trong nền
kinh tế tồn cầu: Các tổ chức xã hội dân sự gồm các hiệp hội tự nguyện, các loại quỹ
từ thiện, các thể chế tơn giáo, hoạt động đa dạng bên ngồi các phạm vi chức năng của
gia đình và Nhà nước, nghĩa là các tổ chức này làm những gì mà Nhà nước và các gia
đình khơng làm và có ích cho con người. Những tổ chức này đang gia tăng hoạt động
trên phạm vi toàn cầu:

uỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức

thương mại thế giới (WTO). Tồn cầu hóa, cải cách kinh tế đã trở thành làn sóng lan
rộng khắp các nước trên thế giới từ cuối những thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế
kỷ XX.
Như vây, tình hình trên khiến cho đổi mới trở thành một nhu cầu hết sức cấp bách,
là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống đặt ra và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đổi mới

ở Việt Nam. Đó là xu hướng hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang từng bước thay
đổi xu hướng đối đầu và xung đột. Tình huống này buộc các quốc gia phải định hướng
lại tư duy về các vấn đề phát triển, nhất là phát triển kinh tế. Khác hẳn với trước đây,
trong hoàn cảnh phát triển mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế thành nhu cầu tự
thân bên trong đối với nền kinh tế nông nghiệp vốn mang đậm chất khép kín, tự cấp, tự
12


túc ở nước ta. Tiếp đến là thành công của các nước công nghiệp mới ở Đông Nam Á
đưa ra những gợi ý cho nước ta về cách thức và giải pháp phát triển đối với những
nước vốn xuất phát từ những nước nông nghiệp, về chiến lược phát triển như: phát huy
mạnh nội lực, mở cửa thị trường, hướng vào xuất khẩu và đầu tư nước ngồi. Sự
khơng thành công của công cuộc cải tổ dẫn tới sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và nhiều nước Đơng Âu là bài học phản diện. Đó là bằng chứng về sự thất bại của con
đường cải tổ “phủ định sạch trơn”, giải quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị trong q trình cải tổ. Hay sự thành công nổi bật của cuộc cải cách kinh tế ở
Trung uốc theo hướng thị trường. Tiếng vang của những thành tựu mà cuộc cải cách
mang lại đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Toàn cầu hoá tạo ra cho Việt Nam
những thách thức to lớn, những thách thức về kinh tế sẽ tăng lên gấp bội, nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ thực tế. Bản thân nguy cơ này có bị loại trừ hay
khơng, điều đó phụ thuộc vào sự thành công của công cuộc đổi mới và sự chuẩn bị các
nguồn lực cho quá trình hội nhập tiếp theo của nền kinh tế. Kéo theo đó là nạn thất
nghiệp và thiếu việc làm, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm có xu
hướng tăng, sự lo ngại về mất bản sắc, sự đồng hoá văn hoá và sự huỷ hoại văn hoá
dân tộc v.v. Con đường để vượt qua những thách thức đó khơng phải là đóng cửa lại
để sống biệt lập với thế giới, mà trái lại, phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
bồi dưỡng và giáo dục con người nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân, trách
nhiệm với Tổ quốc.
Những tình hình biến đổi của thế giới ấy vừa ảnh hưởng đến Việt Nam, vừa gợi ra
những bài học kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam có thể tham khảo với các mức độ

khác nhau. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (12 - 1986) đã chính thức khởi
sướng sự nghiệp đổi mới, bắt đầu quá trình chuyển đổi mơ hình kinh tế, đem lại khởi
sắc mới, diện mạo mới cho đất nước. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, công cuộc
chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam là sản phẩm của chính mình, do các yếu tố trong nước
quyết định.

13


1.2.

Q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Đảng

1.2.1. Q trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Đảng từ đại hội IV đến Đại hội
VIII
Xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của đất nước, từ khát vọng đổi mới của nhân
dân, từ những trăn trở, suy tư giữa một bên là mơ hình kinh tế tập trung với một bên là
lợi ích của nhân dân, sự tồn tại và phát triển của đất nước, Đảng Cộng sản luôn nung
nấu, suy tư trăn trở để tìm ra mơ hình kinh tế mới phù hợp với hoàn cảnh thực tế của
đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Quan trọng hơn là mơ hình
kinh tế mới phải là mơ hình cứu vãn được tình hình khủng hoảng trầm trọng, đời sống
nhân dân thấp kém vào những năm 80 của thế kỷ trước.
Ở Việt Nam, quá trình tìm tịi, thử nghiệm mơ hình kinh tế mới đã manh nha
xuất hiện trong điển hình sản xuất ở các địa phương. Trên cơ sở những tìm tịi, sáng
tạo ở địa phương, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết, khái quát thành các chủ
trương, đường lối, chính sách cụ thể, áp dụng rộng rãi trong tồn xã hội, đó cũng là
q trình vừa làm vừa bổ sung và hồn thiện. Trong Đại hội IV (12 - 1986) Đảng đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới tư duy, và đặc biệt nhấn mạnh đổi mới
tư duy kinh tế, sau khủng hoảng kinh tế xã hội trong những năm 1981 - 1985. Từ thực
tiễn, Đại hội nhấn mạnh trong những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ

thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến
nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Đại hội đã phân tích đúng đắn
nguyên nhân của thực trạng yếu kém của nền kinh tế nước ta là do nhận thức phiến
diện về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng thiên về nền kinh tế thị
trường. Nhận thức được cơ chế tập trung, bao cấp dẫn đến tình trạng quan liêu từ nhiều
năm đã khơng cịn tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và gây ra nhiều hiện tượng
tiêu cực trong xã hội. Đại hội VI đã khẳng định: “Phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh
tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất có quy mơ và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân
đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát
triển ổn định” [4, tr.36]. Nếu như trước đổi mới, chủ trương xây dựng cơ cấu kinh tế
công - nơng nghiệp tiên tiến, hiện đại thì đến Đại hội VI đã điều chỉnh theo hướng
14


thiết thực, phù hợp, phấn đấu vượt qua tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đó là
tập trung xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: chương trình sản xuất
lương thực, thực phẩm; chương trình sản xuất hàng tiêu dùng; chương trình sản xuất
hàng xuất khẩu. Đại hội VI cũng đã khẳng định: “Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp
về căn bản chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính sách,
thể chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể chế quản lý mới còn chắp vá, khơng
ăn khớp, thậm chí trái ngược nhau. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời
những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật cũng khá phổ biến” [4, tr.18]. Đại hội cũng
đưa ra phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập
trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với
trình độ phát triển của nền kinh tế và thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ
chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Đại hội này, Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường
là thành tựu của văn minh nhân loại mà chúng ta cần sử dụng để xây dựng chủ nghĩa

xã hội. Hội nghị Trung ương 6 (3 - 1989), khóa VI phát triển thêm một bước, đưa ra
quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần. Khẳng định
chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ
sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo
cho mọi người tự do làm ăn theo pháp luật; các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất
vốn có bản chất riêng nhưng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh không ngăn cách
nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết với nhau; kinh tế quốc dân cần có lực
lượng đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết phải chiếm tỷ lệ lớn trong mọi
ngành nghề, những ngành nghề, loại hoạt động nào mà kinh tế hợp tác xã, kinh tế gia
đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì nên tạo điều kiện cho các
loại hình kinh tế ấy phát triển. Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI, Hội nghị
lần thứ 6 (8 - 1989) của Ban chấp hành trung ương khẳng định về việc phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương, chiến lược lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã
đi nhanh vào cuộc sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậy
nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo thêm

15


việc làm cho người lao động và tăng sản phẩm cho xã hội, tạo ra sự cạnh tranh sống
động trên thị trường.
Đến Đại hội VII của Đảng (6 - 1991), Đại hội tổng kết 5 năm thực hiện nghị
quyết Đại hội VI, nêu lên thành to lớn có ý nghĩa hàng đầu đó là khắc phục được tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Đại hội cũng đưa ra những hạn chế, yếu
kém như nền kinh tế vẫn mang tính chất nơng nghiệp lạc hậu, cơng nghiệp còn nhỏ bé,
kết cấu hạ tầng kém phát triển. Kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác chậm đổi mới.
Cơ chế thị trường còn đang ở giai đoạn sơ khai, mang nhiều yếu tố tự phát. Hiệu lực
quản lý nhà nước còn thấp, chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường, chế
độ phân phối còn bất hợp lý, thực hiện tùy tiện và không thống nhất; nguyên tắc phân

phối theo lao động chưa được tôn trọng. Theo tinh thần của Đại hội, Đảng tiếp tục
khẳng định thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, đồng thời nêu rõ,
cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ khác. Khuyến khích tính năng động
sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Phát huy lợi thế
tương đối, khơng ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, đáp ứng tốt nhu cầu
của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu thay thế nhập khẩu những mặt
hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước,
các tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Thành tựu về đổi mới kinh tế trong giai đoạn này là buớc đầu hình thành nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận dụng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Sử dụng thị trường trong phạm vi cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hố có kế
hoạch, có thể nói, từ chỗ nhiều năm tẩy chay, kỳ thị thị trường đến chỗ sử dụng cơ chế
thị trường để điều hành nền kinh tế là một bước tiến lớn trong nhận thức, trong tư duy
kinh tế của Đảng ta. Đại hội VII (6 - 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục làm rõ
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và khẳng định đây là chủ trương chiến
lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam và khẳng định: “Tiếp tục xây
dựng đồng bộ thể chế kinh tế mới, kiên trì chuyển đổi sang cơ chế thị trường đi đôi với
tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước” [4, tr.302].
Đại hội VIII (6 - 1996) diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đó
là cơng cuộc đổi mới toàn diện mở đầu từ đại hội VI đến nay đã trãi qua gần 10 năm.
16


Đại hội VIII có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII
và tổng kết 10 năm đổi mới, nêu lên những ưu điểm cũng như hạn chế của quá trình
đổi mới, đồng thời, đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân
trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà nhiệm vụ trung tâm
đó là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại đại hội này, Đảng đã đề
cập đến đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị: “Kết hợp chặc chẽ ngay từ đầu

đồi mới kinh tế gắn với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị” [4, tr.331]. Tiếp tục khẳng định “xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đơi với vai trị quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [4, tr.332]. Bên cạnh đó, Đại hội
cũng đưa ra chính sách đối với các thành phần kinh tế như: Thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng
sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngồi cho cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế hợp
tác xã dần dần trở thành nền tảng; thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp
nguồn lực khác vào kết quả sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội; tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đảng đã rút ra một số kết luận
mới về mối quan hệ giữa sản xuất hàng hóa và chủ nghĩa xã hội, giữa kế hoạch hóa và
thị trường, giữa thị trường trong nước và quốc tế, giữa quyền quản lý của Nhà nước và
quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, về phân phối và lấy đó làm cơ sở cho việc
tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp, tiếp tục tạo lập đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VIII của Đảng xác định: Sản xuất hàng hóa
khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại,
tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng. Nhưng tại thời kỳ này Đảng ta cũng mới bàn đến kinh
tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường.
Tóm lại, từ đại hội Đảng VI đến đại hội Đảng VIII (1986 - 2000), đây là giai
đoạn hình thành tư duy của Đảng về mơ hình kinh tế thị trường. Đảng đã chuyển đổi
17


từ mơ hình kế hoạch hóa tập trung sang thừa nhận mơ hình kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần có sự quản lý của nhà nước. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của

Đảng về mơ hình này có sự thay đổi sâu sắc. Thứ nhất, Đảng khẳng định kinh tế thị
trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của phát
triển nhân loại. Lịch sử phát triển sản xuất xã hội cho thấy sự sản xuất và trao đổi hàng
hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường. Thị
trường giữ vai trị là một cơng cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh
tế khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi
đó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có mầm móng từ trong xã hội nơ lệ, hình
thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị
trường và hàng hóa đều dựa trên cơ sở phân cơng lao động xã hội và các hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất làm cho những người sản xuất vừa độc lập vừa phụ
thuộc vào nhau. Thứ hai, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội VII (1991), Đảng xác định cơ chế vận hành kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là “cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước”. Đại hội Đảng VIII đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc
đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường là
thành tựu của văn minh nhân loại, bản thân kinh tế thị trường khơng có thuộc tính xã
hội. Vì vậy, kinh tế thị trường có thể được sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau.
1.2.2. Quá trình chuyển đổi mơ hình kinh tế của Đảng từ đại hội IX đến Đại hội
XII
Đại hội lần thứ IX họp vào thời điểm quan trọng, thế kỷ XX đã kết thúc, thế kỷ
XXI bắt đầu. Toàn Đảng, toàn dân đã trãi qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
VIII của Đảng, phát huy những kết quả đổi mới đạt được, sau nhiều năm nghiên cứu
tìm tịi, tổng kết lý luận - thực tiễn, Đại hội IX (4 - 2001) chính thức đưa ra khái niệm
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận

18



động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [4, tr.459].
Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu
từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây
dựng xong về cơ bản. Và cũng từ đại hội này, Đảng xác định nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời làm rõ một số khía cạnh liên quan đến nội
hàm của mơ hình kinh tế này: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh; đều được khuyến khích phát triển trong những ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với
bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Nhà nước quản
lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ
chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị
trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế
và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động,
của tồn thể nhân dân.
Bên cạnh đó, Đảng khẳng định, để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa vận hành thông suốt cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới
và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước theo hướng hình thành về cơ bản
và vận hành thơng suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
19


nghĩa với các nhiệm vụ thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các
loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh
doanh; đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính
sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát
triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế; tiếp tục cải thiện môi trường
đầu tư theo hướng giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật
giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi; tạo mơi trường pháp lý thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực.
Như vậy, mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội về cơ bản vẫn kế thừa những nội dung trước đó, nhưng nội hàm đã được mở
rộng hơn. Có thể nói, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là bước phát triển mới về tư duy lý luận kinh tế của Đảng,
quan niệm về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất - từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang
nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đến Đại hội X (4 - 2006), trên cơ sở kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhìn lại 20 năm đổi mới, cùng những
thuận lợi và khó khăn trong tiến trình đổi mới đặt ra. Đảng tiếp tục khẳng định mơ
hình kinh tế đã được lựa chọn đồng thời nhấn mạnh, để đi lên chủ nghĩa xã hội, phải
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với các nhiệm vụ chủ
yếu sau: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
theo hướng phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường
cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò lãnh đạo; thực
hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính
vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp, xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo
20


hình thức sở hữu, định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; phát triển
mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế cùng phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là
một trong những động lực của nền kinh tế. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá X
(01 - 2008), Đảng đã đưa ra một số kết luận mới về kinh tế thị trường, khả năng sử
dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xác định mục tiêu, quan điểm, chủ
trương và giải pháp “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy
nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa” [4, tr.163].
Các quan điểm nói trên về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được Đại hội XI (01 - 2011) của Đảng khẳng định và cụ thể hóa thêm trên một
số phương diện gắn với việc giải quyết các nhiệm vụ cấp bách của nền kinh tế trong
giai đoạn hiện nay và mục tiêu phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Đại hội khẳng định: “Nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy
luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” [4, tr.810]. Bên cạnh đó, Đảng cũng chỉ
rõ, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh
mẽ, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
theo hướng đồng bộ và hiện đại. Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế
của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở tôn trọng và
vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường.
21


×