Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.14 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Phòng giáo dục và đào tạo huyện Trấn Yên</b>
<b>Trờng tiểu học Minh Quán</b>
<b> Ngêi viết : </b>
<b>Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU</b> <b>Trang</b>
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm. <b>3</b>
2. Mục đích nghiên cứu. <b>3</b>
3. Đối tượng nghiên cứu. <b>3</b>
4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu. <b>3</b>
5. Nhiệm vụ nghiên cứu. <b>3</b>
6. Phương pháp nghiên cứu. <b>3</b>
7. Thời gian nghiên cứu. <b>3</b>
<b>Phần thứ hai: NỘI DUNG</b>
Chương I : Cơ sở lý luận của đề tài. <b>4</b>
Chương II: Thực trạng của đề tài. <b>4</b>
Chương III : Giải quyết vấn đề. <b>5</b>
1- Phương pháp dạy học bài mới. <b>5</b>
2- Phương pháp dạy học các bài luyện tập, luyện tập chung, ôn
tập, thực hành. <b>6</b>
<b>Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ</b> <b><sub>10</sub></b>
<b> </b>
- Qua khảo sát chất lượng đầu năm, chất lượng học sinh chưa đồng đều, một
số học sinh còn chưa nắm vững được một số phương pháp giải tốn.
<b>2.Mục đích nghiên cứu: </b>
- Để nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Giúp học sinh lớp 5 có phương pháp học tập mới, nắm vững chương trình
mơn tốn nhằm nâng cao kết quả học tập của học sinh.
<b>3.Đối tượng nghiên cứu:</b>
- Học sinh lớp 5.
<b>4.Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu: </b>
- Học sinh lớp 5A trường tiểu học Minh Quán.
<b>5.Nhiệm vụ nghiên cứu : </b>
- Tìm hướng đổi mới phương pháp dạy học bài mới.
- Tìm hướng đổi mới phương pháp dạy học các bài luyện tập,luyện tập chung,
ôn tập, thực hành.
<b>6.Phương pháp nghiên cứu:</b>
<b>- </b>Đi sâu tìm hiểu cách làm bài của học sinh.
- Tìm hiểu bài giảng , các phương pháp giảng dạy.
- Nghiên cứu tài liệu.
<b>7.Thời gian nghiên cứu: </b>
<b>- </b>Năm học 2009-2010.
<b>Phần thứ hai: NỘI DUNG</b>
Trong quá trình dạy và học chương trình tiểu học, đặc biệt là lớp 5, việc
dạy tốn trong chương trình, học sinh phải trở thành chủ thể của quá trình dạy
học.
Ngày nay, đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội cần có lớp người lao
động mới thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Nhu cầu đó
làm cho mục tiêu của nhà trường phải được điều chỉnh một cách thích hợp
dần đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.
<i><b>Phương pháp dạy học tốn ở số đơng các trường tiểu học còn nhiều</b></i>
<i><b>hạn chế: </b></i>
- Giáo viên và học sinh còn phụ thuộc nhiều vào các tài liệu sẵn có, dạy học
cịn nặng về truyền thụ kiến thức và làm theo mẫu, chưa thực hiện được cá
nhân hoá, chưa giúp học sinh tự phát hiện và tự chiếm lĩnh kiến thức mới…
Vì vậy giáo viên và học sinh thường thiếu chủ động, sáng tạo, nội dung dạy
học chưa cập nhật.
- Giáo viên là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học
sinh. Học sinh ít được tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Tiêu chuẩn
đánh giá học sinh là kết quả ghi nhớ, tái hiện lại những điều giáo viên đã
giảng.
<b>Chương II: Thực trạng của sáng kiến kinh nghiệm:</b>
Trải qua quá trình thực tiễn giảng dạy và được tham gia các lớp học thay sách
giáo khoa. Tôi đã nhận thấy cần phải đưa các phương pháp dạy học (mới) vào
trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống
để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục. Đổi
mới phương pháp dạy học tốn phải thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục tiểu học, tạo điều kiện để cá thể hố dạy học và khuyến khích dạy
học phát hiện ra nội dung mới của bài học.
Đặc biệt với học sinh lớp 5, nhận thức của các em cao hơn các lớp khác
trong bậc tiểu học nên yêu cầu việc học cao hơn, đòi hỏi các em phải tự học
nhiều, phải tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung học tập
rồi thực hành, vận dụng các nội dung đó theo năng lực của học sinh. Do vậy
đòi hỏi người giáo viên phải biết dạy học theo phương pháp đổi mới, có vậy
Bộ mơn tốn là một bộ mơn bao trùm, nó có tầm quan trọng đặc biệt
trong quá trình học cũng như giúp ích cho cuộc sống sau này của người học
sinh. Việc học toán là cơ hội để tiếp tục phát triển năng lực trừu tượng hoá,
khái quát hoá trong việc học tập mơn tốn ở lớp cuối cấp tiểu học; Tiếp tục
phát triển khả năng diễn đạt và tập trung suy luận của học sinh theo mục tiêu
của mơn tốn ở lớp 5.
Chính vì xác định được tầm quan trọng của bộ mơn tốn, tơi đã suy
nghĩ và rút ra những kinh nghiệm của bản thân về việc đổi mới phương pháp
dạy học toán lớp 5.
Để góp phần đổi mới phương pháp dạy học chúng ta không chỉ dừng
lại ở việc nêu và định hướng “học tập bằng hoạt động” mà cần phải tìm hiểu
sâu vào những phương pháp dạy học cụ thể, đặc biệt có 1 phương pháp hiện
nay hay được sử dụng đó là phương pháp dạy học nêu vấn đề. Tuỳ từng dạng
bài cụ thể mà ta sử dụng phương pháp này một cách linh hoạt.
<b>1- Phương pháp dạy học bài mới:</b>
<i><b>a) Giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học:</b></i>
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự phát hiện vấn đề của bài học rồi giúp
học sinh huy động những kiến thức và kinh nghiệm đã tích luỹ để tự mình
(hoặc cùng bạn trong từng nhóm nhỏ) tìm mối quan hệ của vấn đề đó với các
kiến thức đã biết (đã được học ở các lớp trước hoặc đã có trong vốn sống của
bản thân…) rồi tự mình tìm cách giải quyết vấn đề.
Ví dụ:
Khi dạy bài: “Cộng hai số thập phân” giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học. Chẳng hạn, giáo viên
nêu VD 1 trong sách giáo khoa: “Đường gấp khúc ABC có đoạn thẳng AB dài
1,84m và đoạn thẳng BC dài 2,45m hỏi đường gấp khúc đó dài bao nhiêu
mét?”… Cho học sinh nhận xét để nhận ra rằng hai đoạn thẳng AB và BC có
cùng đơn vị đo là mét và muốn tìm độ dài của đường gấp khúc chính là tìm
tổng độ dài của hai đoạn AB và BC, tức là tìm tổng của 1,84m + 2,45m, về
thực chất là tìm tổng 1,84 + 2,45. Đây chính là vấn đề cần giải quyết. Để giải
quyết vấn đề của bài học, giáo viên có thể cho học sinh tự nêu cách giải quyết
hoặc trao đổi ý kiến trong nhóm để tìm phương án giải quyết.
Để giải quyết vấn đề đó thì học sinh phải tự huy động các kiến thức đã
học theo tổng trình tự sau:
+ Để tính 1,84 + 2.45 ta tính tổng 1,84m + 2,45m.
+ Để tính tổng 1,84m + 2,45m ta tính tổng 184cm + 245cm (vì 1,84m =
184cm và 2,45m = 245cm).
+ Để tính tổng 184cm + 245cm ta tính tổng 184 + 245 (vì 184 cm và
145 cm đều có đơn vị đo là cm)
+ Mà đặc tính 184 + 245 ta có: 184
245
429 (cm) mà 429cm = 4,29m.
Như vậy: Từ 184 + 245 = 429 ta có 184cm + 245cm = 429cm = 4,29m,
tức là 1,84m + 2,45m = 4,29m.
Và học sinh nhận thấy: Muốn cộng hai số thập phân ta làm như sau:
1,84
2,45
4,29 (m)
+ Thực hiện phép cộng các số tự nhiên.
trình bày đó vừa có tính trực quan, vừa ngắn ngọn. Tuy nhiên khi học sinh
phân tích cách giải quyết vấn đề thì nên làm như trên.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề nêu
ở VD 2 tương tự như đối với VD 1 ở sách giáo khoa. Sau đó giáo viên hướng
dẫn học sinh tự nêu cách cộng hai số thập phân:
Muốn cộng hai số thập phân ta làm như sau:
- Viết số hạng này dưới số hạng kia sao cho các chữ số ở cùng 1 hàng
đặt thẳng cột với nhau.
- Cộng như cộng các số tự nhiên.
- Viết dấu phẩy ở tổng thẳng cột với các dấu phẩy của các số hạng.
<i><b>b) Tạo điều kiện cho học sinh củng cố và vận dụng kiến thức mới</b></i>
<i><b>học ngay trong tiết học bài mới để học sinh bước đầu tự chiếm lĩnh kiến</b></i>
<i><b>thức mới:</b></i>
Sau phần bài học mới, thường có 3 bài tập để tạo điều kiện cho học
Chẳng hạn, với bài học “Cộng hai số thập phân”, sau phần bài học mới
nên cho học sinh làm cả 3 bài tập 1, 2, 3 tại lớp và chữa bài. Bởi vì bài 1, học
sinh được thực hành tính (khi học đã đặt tính sẵn) để học sinh quan sát thấy rõ
việc đặt tính với các số hạng khơng giống nhau về các hàng, chẳng hạn:
b) 19,36 c) 75,8
4,08 249,19
Ở bài tập 2, học sinh được thực hành trực tiếp cách cộng hai số thập phân
vừa học để đặt tính, tính và đặt dấu phấy cho đúng. Còn bài 3 giúp học sinh
cách tính tốn trong thực tế với đơn vị đo khối lượng dưới dạng số thập phân.
Cuối cùng, giáo viên nên để học sinh củng cố bài học bằng cách nêu lại cách
cộng hai số thập phân.
Quá trình tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài học, bước đầu vận
dụng kiến thức mới học sẽ góp phần giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức
mới, thực hiện “học qua hoạt động”.
<b> 2- Phương pháp dạy học các bài luyện tập, luyện tập chung, ơn tập,</b>
<b>thực hành:</b>
Trong chương trình tốn lớp 5 có nhiều bài để học sinh luyện tập, thực hành,
ơn tập nhằm mục đích củng cố nhiều lượt các kiến thức học sinh mới chiếm
lĩnh được, hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản của mơn tốn ở lớp và
a) Hướng dẫn học sinh nhận ra các kiến thức đã học, trong đó có dạng bài
tương tự đã làm trong các bài tập đa dạng và phong phú của toán 5.
Nếu học sinh tự đọc đề (đọc thành tiếng hoặc đọc thầm) và tự học sinh nhận
ra dạng bài tương tự đã làm hoặc các kiến thức đã học trong mối quan hệ cụ
thể thì học sinh sẽ biết cách làm. Nếu học sinh nào khơng nhận ra được thì
giáo viên gọi bạn khác giúp bạn nhớ lại, giáo viên khơng nên làm thay những
gì học sinh làm được.
<i><b> Ví dụ</b></i>: Nội dung trọng tâm của dạy toán ở HK I lớp 5 là dạy học số thập
phân và các phép tính với số thập phân. Về thực chất, nội dung này là sự mở
rộng những hiểu biết về số tự nhiên và các phép tính với số tự nhiên. Vì vậy,
hầu hết các bài tập về số thập phân đều có dạng tương tự như các bài tập về số
<b>tự nhiên.</b>
Khi học sinh làm các bài tập về số thập phân, giáo viên nên giúp học sinh tự
nhớ lại:
- Cách làm dạng bài tương tự đã có khi học số tự nhiên.
- Kiến thức mới học về số thập phân có liên quan trực tiếp đến việc làm bài
tập đó.
Chẳng hạn, khi làm bài tập dạng: “Tìm x”, giáo viên nên giúp học sinh
nhớ lại để nhận ra rằng:
+ Cách làm bài tập dạng này tương tự cách làm bài tập dạng tìm x với các số
tự nhiên. Tức là:
a) Xác định thành phần chưa biết (x);
b) Xác định cách tìm thành phần chưa biết đó;
c) Tìm thành phần chưa biết theo cách vừa xác định.
+ Cần phải sử dụng cách tìm x với các số là số thập phân trong từng bước a,
b, c như trên. Nhưng khi tính cộng, hoặc trừ, hoặc nhân, hoặc chia thì phải
thực hiện theo cách tính của số thập phân.
b) Giúp học sinh tự làm bài theo khả năng của từng học sinh:
- Tôi luôn yêu cầu học sinh làm đủ các bài tập trong sách giáo khoa, không bỏ
qua bài nào dù là dễ nhằm giúp học sinh củng cố trực tiếp kiến thức môn học.
- Để tạo cho học sinh luôn hoạt động, tôi cho phép các em khá giỏi làm bài
xong có thể tự kiểm tra rồi chuyển sang bài tập tiếp theo, không bắt các em
phải đợi các bạn khác. Tôi thường xuyên để học sinh tự chữa bài, đặc biệt các
bạn học sinh khá giỏi hỗ trợ học sinh yếu. Giáo viên không làm thay học sinh.
c) Tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng:
Khi bố trí chỗ ngồi tơi đã bố trí học sinh khá giỏi ngồi xen với học sinh yếu
kém để học sinh hoạt động nhóm thì các em biết cách trao đổi về cách giải
hoặc nhiều cách giải của 1 bài tập. Các em trong nhóm hoặc trong lớp tự nêu
nhận xét về cách giải của bạn và rút kinh nghiệm về cách giải của mình.
d) Tập cho học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả luyện tập, thực
hành:
thang điểm và hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài làm của mình, của bạn
bằng điểm từ đó giúp học sinh cố gắng học tập hơn.
e) Tập cho học sinh có thói quen tìm hiểu phương án và lựa chọn phương án
hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập, không nên thoả mãn với các kết
quả đã đạt được.
- Với sự động viên, khuyến khích của giáo viên và của bạn, các em rất phấn
khởi, do vậy tơi thường động viên, nêu gương những em đã hồn thành nhiệm
vụ có cố gắng. Từ đó tạo cho các em niềm tin vào sự tiến bộ của bản thân, tạo
cho các em niềm vui vì kết quả đã đạt được của mình, của bạn.
- Khuyến khích học sinh khơng chỉ hoàn thành nhiệm vụ khi luyện tập, thực
hành mà cịn tìm các cách giải khác nhau, lựa chọn phương án hợp lý nhất để
giải bài toán hoặc để giải quyết 1 vấn đề trong học tập. Khuyến khích học
sinh giải thích, trình bày bằng lời nói phương pháp giải bài tập… Dần dần học
sinh có thói quen khơng bằng lịng với kết quả đã đạt được và có mong muốn
tìm giải pháp tốt nhất cho bài làm của mình, tìm được cách diễn đạt hợp lý
nhất cho phương pháp bài làm của mình.
Ví dụ 1: Với bài tập: “Tính bằng cách thuận tiện nhất”.
4,2 + 3,5 + 4,5 + 6,8 (Bài 2d trang 52 SGK)
Học sinh có thể tính bằng 1 số cách khác nhau, nhưng cách nào cũng phải thể
hiện được sự “thuận tiện” (Học sinh sử dụng tính chất của phép cộng các số
thập phân để tính cho hợp lý). Chẳng hạn, học sinh có thể nêu 2 cách sau:
Cách 1: 4,2 + 3,5 + 4,5 + 6,8 = 4,2 + (3,5 + 4,5) + 6,8
= 4,2 + 8 +6,8
= (4,2 + 6,8) + 8
Cách 1: 4,2 + 3,5 + 4,5 + 6,8 = (4,2 + 6,8) + (3,5 + 4,5)
= 11 + 8
= 19
Sau khi học sinh nêu 2 cách tính như trên, giáo viên nên cho học sinh
trao đổi để thấy:
- Cả 2 cách tính trên đều sử dụng tính chất giao hốn và tính chất kết hợp
của phép cộng để dẫn tới tính 2 tổng (4,2 + 6,8 và 3,5 + 4,5) rồi cộng các kết
quả tính (11 + 8).
- Ở cách 1, học sinh sử dụng lần lượt từng tính chất của phép cộng; ở cách
2, học sinh đồng thời sử dụng cả 2 tính chất của phép cộng. Cả hai cách đều
“thuận tiện” và đều dẫn tới kết quả đúng.
- Mỗi cách tính có thể là “thuận tiện nhất” theo quan niện của từng đối
tượng học sinh. Giáo viên không nhất thiết phải yêu cầu học sinh khẳng định
cách nào là “thuận tiện nhất”. Điều quan trọng là học sinh nhận được sự động
viên, khuyến khích của giáo viên, của các bạn và tự học sinh rút ra những
kinh nghiệm khi làm bài.
Khi học sinh chữa bài, ta nên xác nhận kết quả đó, sau đó yêu cầu học
sinh giải thích rõ lý do chọn 0,12 để viết vào chỗ chấm:
Chẳng hạn vì 0,1 = 0,10 và 0,2 = 0,20; từ 0,10 đến 0,20 có thể có các số
thập phân thích hợp để viết vào chỗ chấm là 0,11; 0,12; … ; 0,19; nên 0,10 <
0,12 < 0,20 tức là 0,1 < 0,12 < 0,2.
Ta nên cho học sinh nêu thêm các số “thích hợp” khác, chẳng hạn 0,1 <
0,13 < 0,2;… Như vậy khơng thể có “một số” thích hợp mà có thể có nhiều số
“thích hợp” để viết vào chỗ chấm.
Giáo viên có thể nêu: Ngồi các số “thích hợp” đã tìm như 0,11; 0,12;
0,13…; 0,19 cịn có thể tìm được các số “thích hợp” nữa khơng?”.
Cứ như vậy, học sinh sẽ “khám phá” được rất nhiều số thích hợp khác
(chẳng hạn 0,101; 0,102;…; 0,199; …) để viết vào chỗ chấm, dần dần học
sinh “khám phá” được giữa 2 số thập phân xác định có thể có rất nhiều số
thập phân.
Tôi nghĩ rằng, với cách dạy học như vậy sẽ giúp học sinh có thói quen
khơng thoả mãn với kết quả đã đạt được, tạo cho học sinh hứng thú tìm tịi,
sáng tạo trong học tốn.
<b>Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ</b>
Trong q trình dạy - học, tơi đã áp dụng phương pháp dạy - học như vậy và
tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh lớp tơi có tiến bộ rõ rệt. Các
<i>Trấn Yên, ngày2 tháng 1 năm 2010</i>
<b>Người viết</b>
<i><b> Lê</b><b>Thị Hường</b></i>