Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.02 KB, 10 trang )

PHẦN THỨ NHẤT:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu của chương trình Giáo dục phổ thông mới là giúp người học làm chủ
kiến thức phổ thông; biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt
đời; có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp; biết xây dựng và phát triển hài
hịa các mối quan hệ xã hội; có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú;
nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất
nước và nhân loại.
Tiểu học là bậc học tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngồi việc
trang bị vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động cịn phải giáo dục học sinh có
kỹ năng sống để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với mơi trường, xã hội
mới.Vậy kỹ năng sống là gì mà lại có tầm quan trọng như vậy?
Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc
đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người.
Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong não bộ. Kỹ
năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thơng qua giáo dục hoặc rèn luyện
của con người.
Vậy tại sao phải dạy kỹ năng sốngcho học sinh lớp 1?
Kỹ năng sống là điều rất quan trọng đối với tất cả mọi người chứ khơng phải
riêng gì học sinh lớp 1. Tuy nhiên, học sinh lớp 1 là đối tượng thường được quan tâm
đầu tiên khi giáo dục kỹ năng sống vì các em mới chuyển từ mẫu giáo lên đang ở độ
tuổi có nhiều khó khăn trong phục vụ bản thân, biến động về tâm sinh lý, rất nhạy
cảm, dễ bị ảnh hưởng bởi mơi trường sống bên ngồi tác động.
Bên cạnh đó hạn chế của nhà trường hiện nay là mới chủ yếu dạy chữ, chưa
thật sự quan tâm đến dạy người một cách toàn diện. Việc lồng ghép kỹ năng sống,
giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh chưa được khắc sâu, chưa được coi trọng, bởi
giáo viên đa số chỉ tập trung vào mơn Tốn và Tiếng Việt là chủ yếu.
Đối tượng học sinh của lớp 1A phần lớn là con em đồng bào dân tộc thiểu số,
các em có hứng thú với nhiều vấn đề mới của cuộc sống nhưng lại hạn chế về giao
tiếp, khả năng phán đốn chưa cao, tính thích ứng với mơi trường khơng tốt, thụ động
trước vấn đề của cuộc sống đặt ra, thiếu hụt nhiều kỹ năng sống cơ bản… Điều đó đã


dẫn tới sự vụng về trong giao tiếp ứng xử,…
Đã đến lúc thay vì dạy học sinh những bài học lý thuyết xa vời, chúng ta cần
giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh gắn với những công việc thực tế. Xây dựng môi
trường giáo dục tốt rộng lớn là xã hội và nhà trường, nhỏ là gia đình và lớp học để
học sinh được học tập và rèn luyện trở thành những cơng dân có ích cho xã hội.
Xuất phát từ vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tôi ln trăn trở tìm các giải pháp
để nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện cho học sinh vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn
đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1A trường
Tiểu học số 1 Pa Vệ Sử” làm đề tài nghiên cứu cho bản thân.
PHẦN THỨ HAI:
NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1


1. Thực trạng:
Trường Tiểu học số 1 Pa Vệ Sử đóng tại xã Pa Vệ Sử, huyện Mường Tè, tỉnh
Lai Châu. Trường học được nằm trên địa bàn xã khó khăn, là một địa phương có
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (Tày, Nùng, Mảng, Thái, Mường), phụ
huynh học sinh phần lớn nằm trong diện lao động nghèo, hồn cảnh khó khăn.Vốn từ
Tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số còn hạn chế, kiến thức còn nghèo, những
hiểu biết về thế giới xung quanh còn hạn hẹp, điều này phần nào làm hạn chế đến kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ năng phòng tránh bị xâm hại, …
Lớp học mà tôi chủ nhiệm cũng gặp phải những khó khăn tương tự. Trong lớp,
học sinh là con em dân tộc thiểu số chiếm 98% số học sinh của lớp.Nhìn chung kỹ
năng giao tiếp hịa nhập cuộc sống và nhóm kỹ năng trong học tập vui chơi giải trí
của học sinh rất hạn chế.
Kỹ năng sốngbao gồm kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao. Trong đề tài này
tơi chỉ giới hạn đi sâu vào tìm hiểu nhóm kỹ năng cơ bản. Khi thực hiện đề tài, tôi
tiến hành khảo sát thực tế 20 học sinh lớp 1A theo các nhóm kỹ năng sau.
Mức độ

St
Các biểu hiện hành vi
Kh
t
Tốt
TB Yếu
á
I Nhóm kỹ năng giao tiếp-hịa nhập cuộc sống.
Biết chào hỏi, lễ phép trong nhà trường, ở nhà
20
50
10
1
20%
và ở nơi cơng cộng.
%
%
%
Biết nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ và xin lỗi
25
60
10
2
5%
khi có lỗi.
%
%
%
30
20

30
3 Nhặt được của rơi, trả người đánh mất.
20%
%
%
%
Biết tìm đến sự giúp đỡ của người khác khi gặp
20
70
4
5%
5%
khó khăn.
%
%
30
30
20
5 Ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ.
20%
%
%
%
Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động, vui
II
chơi giải trí.
65
30
1 Kỹ năng tập trung.
5%

%
%
15
55
30
2 Nói rõ ràng, mạch lạc, trình bày ngắn gọn.
%
%
%
Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi
50
30
20
3 và lao động.
%
%
%
40
40
20
4 Kỹ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm.
%
%
%
25
40
20
5 Kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung. 15%
%
%

%
2


Kết quả thống kê số liệu cho thấy kỹ năng của các em đạt ở mức trung bình và
yếu chiếm tỷ lệ rất cao. Hiện tượng học sinh ngơ ngác khi phải xử lí những tình
huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó
khăn, dễ nản chí ngày càng nhiều. Ngun nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước
hết do giáo dục.
Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung
vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân
gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của học sinh. Phương pháp giáo dục
nhồi nhét, lí thuyết sng, khơng tạo được cho học sinh khả năng tư duy, óc phân
tích, suy xét, phán đốn, khơng tạo cơ hội cho các em trải nghiệm những vấn đề thực
trong cuộc sống hiện đại…chủ yếu do những nguyên nhân sau đây:
- Chưa có một tiết học riêng cho việc dạy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
mà chủ yếu tích hợp trong các mơn hoc, các tiết sinh hoạt lớp, chào cờ, tổ chức các
ngày lễ trong năm học nên hạn chế về thời gian. Giáo viênchủ yếu chỉ tập trung cho
chuyên môn, giảng dạy nên việc truyền đạt các kiến thức về giáo dục kỹ năng sống
còn hạn chế, chưa thu hút được sự quan tâm, hứng thú từ phía học sinh...
- Một số giáo viênvà người lớn chưa thật sự gần gũi, thân thiện với học sinh.
- Rèn kỹ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn
chưa sâu sát.
- Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinhchưa kịp thời.
- Công tác tuyên truyền cho phụ huynh thực hiện dạy các em nhữngkỹ năng
sốngcơ bản chưa nhiều.
Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kỹ năng sốngdo sự hạn chế của gia đình
và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học
sinhgặp khó khăn trong cách ứng xử với tình huống thực của cuộc sống.Mặt khác có
lẽ do chúng ta chưa tìm ra những giải pháp tốt có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ

năng sốngcho học sinh khi xã hội ngày càng phát triển và thay đổi như hiện nay.
Bên cạnh đó đời sống nhân dân địa phương cịn nghèo, trình độ dân trí thấp.
Vấn đề cơm áo gạo tiền cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến
việc giáo dục con cái của các gia đình vì đời sống vật chất góp phần chi phối đời sống
tinh thần của mỗi cá nhân. Hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhiều gia đình lo mưu sinh
kiếm sống nên việc giáo dục con cái bị sao lãng. Họ ít quan tâm, thậm chí khơng
quan tâm đến việc học của con em và cũng ít quan tâm đến nhà trường dạy học như
thế nào? tổ chức hoạt động gì? Điều này cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng giáo dục tồn diện của nhà trường.
Cơng tác phối kết hợp giữa ba mơi trường nhà trường, gia đình và xã hội trong
giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh mặc dù được quan tâm thực hiện nhưng chưa thật
sự chặt chẽ và hiệu quả, đặc biệt là chưa phát huy được vai trò của cha mẹ học sinh
trong việc phát hiện, phối hợp với nhà trường trong giáo dục những học sinh chưa
chấp hành tốt nội quy, có biểu hiện khác thường, cần được hỗ trợ và can thiệp sớm.
2. Nội dung và biện pháp thực hiện:
3


2.1. Bản thân giáo viênphải luôn là người giáo dục gương mẫu, hiểu tâm
sinh lý của học sinh.
Đối với học sinh, thầy cô giáo luôn là thần tượng của các em. Các em luôn để ý
đến thầy cô, từ cách ăn nói đến những cử chỉ hàng ngày. Hành vi ở trường của thầy
cô tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách học sinh. Vì vậy bản thân là một
giáo viênchủ nhiệm, tôi luôn trau dồi đạo đức, tác phong, không ngừng học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để trở thành tấm gương sáng
cho học sinh noi theo.
Ngoài ra bản thân người giáo viên cần phải đặt mình vào vị trí của học sinh,
phải hiểu được tâm sinh lý của các em để có những phương pháp giáo dục đúng đắn,
phù hợp cho từng đối tượng học sinh. Giáo viêncần có sự hòa nhập và hợp tác với các
em, vừa là thầy cô vừa là những người bạn đồng thời cũng vừa là những nhà tư vấn

tâm lý đáng tin cậy để các em có thể chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống, trong
học tập, trong các mối quan hệ bạn bè và xã hội khác.
Chúng ta đều biết rằng, học sinh lớp 1ln có tâm hồn trong sáng, ngây thơ, các
em là những mầm non, tương lai của đất nước. Vì vậy, thầy cơ giáo chính là tấm
gương để học sinh soi vào. Khi tấm gương ấy thực trong sáng, thì những tiêu cực sẽ
hạn chế và sớm bị loại trừ.
Trong giáo dục, phương pháp nêu gương có tác dụng rất lớn, đạt hiệu quả cao
nhất. Mặc dù bản thân mỗi giáo viên chúng ta không được như những nhà giáo dục
nổi tiếng, nhưng tối thiểu phải là những nhà giáo dục gương mẫu, nhiệt tình, thương
u học trị vì đối với các em, người giáo viênchính là thần tượng, thì chính bản thân
của người giáo viên khơng chỉ nói sng mà phải bằng hành động và việc làm cụ thể
trong quan hệ với đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh và ngoài xã hội.
Với học sinh lớp 1, thầy cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của các em, các em
luôn luôn nghe lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cơ dạy, thầy cơ giáo phải là tấm
gương sáng về đạo đức, nhất là tấm gương về các ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong
lời nói và việc làm. Giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh sẽ khó hơn khi chính thầy cơ
khơng phải là một tấm gương.
2.2. Giáo viên cần nắm được những việc nên làm và không nên làm khi giáo
dục học sinh.
Trong suốt q trình giảng dạy, bản thân tơi rút ra một số điều mà giáo viên,
phụ huynh cần làm và cần tránh cơ bản để giáo dụckỹ năng sống cho học sinh như
sau:
*Một số điều cần làm giúp các em rèn luyện kỹ năng sống:
Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn
trọng, đối xử cơng bằng và đảm bảo an tồn cho các em.
Việc học của học sinh nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì các
em sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều
hơn.
Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian
và cũng không cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho các em thấy

cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào không quan
4


trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương lai của
các em.
*Một số điều cần tránh khi dạy học sinhkỹ năng sống:
Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng
các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh.
Khơng nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng khơng nên nói những lời
không hay đối với các em.
Không doạ nạt: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta
đã làm cho các em sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hồn tồn có hại cho đứa
trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục
tùng một cách thái q khơng có sự thoả thuận giữa các bên khơng tạo điều kiện phát
triển tính tự lập ở các em.
Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các
em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em
phải làm các u cầu khơng mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép
hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng khơng tốt đến sự phát triển tính nhận thức của các em.
Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của
học sinh.
2.3. Xây dựng nền nếp học tập và giáo dục kỹ năng sốngqua các môn học.
So với học sinh vùng đồng bằng, thành thị thì học sinh miền núi có năng lực
giao tiếp tiếng Việt còn rất hạn chế, rụt rè, nhất là đối với người lạ, hay tự ái và luôn
cảm thấy xấu hổ trước mọi người… Đây thực sự là những lý do khiến cho công tác
giáo dục của thầy cô, nhà trường gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng
dạy học và giáo dục.
Từ kinh nghiệm giảng dạy của mình, tơi thiết nghĩ cần lấy cơng tác xây dựng

nền nếp lớp học, tạo dựng các kỹ năng sống, sinh hoạt, giao tiếp cho học sinh làm nền
tảng, điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục.
Bản thân tôi luôn tâm niệm, làm sao để lớp ra lớp, thầy ra thầy và trị ra trị. Để
có những ngày học tốt, giờ học hiệu quả thì lớp học phải có nền nếp tốt. Nền nếp lớp
học ổn định không chỉ góp phần nâng cao chất lượng dạy học, mà cịn tạo ra mơi
trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh.
Những hoạt động giáo dục nền nếp, ý thức cho học sinh đều mang tính chất đời
thường, gắn với cuộc sống thường trực của con người như: thái độ ứng xử trong
trường học, giữa học sinh với thầy cô, cha mẹ, anh chị, giữa học sinh với học sinh,
bạn bè; cách vệ sinh thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân; ý thức tự giác bảo vệ vệ sinh
môi trường, trường, lớp học; giúp đỡ bạn bè khi gặp khó khăn hay trong học tập; nhặt
được của rơi trả người đánh mất…
Các nội dung giáo dục hết sức gần gũi, đời thường được giáo viênlồng ghép
một cách linh hoạt trong mọi hoạt động mang tính giáo dục trên lớp và hoạt động
ngồi giờ.
Bên cạnh đó, giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
độc lập, sáng tạo của học sinhgắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng
5


thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, ln tạo cho các em
tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu
khơng khí cởi mở thân thiện của lớp của trường.
Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân tơi đã lồng ghép
kỹ năng sống vào các môn học, tiết học như: Tiếng Việt; Đạo đức; Hoạt động trải
nghiệm, .... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như
trong cuộc sống thực.
Môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kỹ năng sống cho các em
thông qua các câu chuyện kể. Qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kỹ
năng sống.

Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua
môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học
tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm,
phương pháp hỏi đáp.Thơng qua các hoạt động học tập, trải nghiệm, hợp tác, bày tỏ ý
kiến cá nhân, đóng vai, học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kỹ năng
sống cần thiết.
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình
cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương
pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú,
đa dạng như: kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; chơi trị
chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh.
Và chính thơng qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kỹ năng sống cần
thiết, phù hợp với lứa tuổi.
2.4. Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Để tạo sự gần gũi, gắn kết giữa học sinh và giáo viênchủ nhiệm, bản thân tôi
sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến
khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong
muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cơ trị hiểu nhau, đồng thời tạo
một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của
các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều
kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinhkhông
thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên ln gị bó và áp đặt.
Trong tuần đầu, giáo viên cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để
qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát,
thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay khơng thích...Và tiếp tục qua những tuần
học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ,
hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.

Để học sinh thấy các em luôn được thầy cơ tin tưởng, thương u, được làm
việc có ích cho trường, lớp, tôi thường xuyên giao cho các em những việc nhỏ, thích
6


hợp hàng ngày ở lớp để các em làm. Đặc biệt những học sinh có tính nhút nhát, rụt rè
để các em mạnh dạn, gần gũi thầy cô hơn. Và các em này sẽ rất vui, rất tự hào và cảm
thấy mình đã làm việc có ích và từ đókỹ năng sống cũng được hình thành rõ hơn.
Chẳng hạn: Nhờ các em cắt phiếu bài tập,…. Nhờ tưới cây, quét lớp, vv… Làm cho
các em thêm gần gũi với thầy cơ và cảm thấy mình được thầy cơ tin tưởng giao
nhiệm vụ trước lớp từ đó các em có thêm chút tự tin vào bản thân mình, gần gũi
trường, lớp hơn, ham học và cố gắng học tập hơn...
Ngoài ra giáo viênnên để học sinh được nói lên ý kiến của mình đặc biệt là với
những em nhút nhát rụt rè. Đó có thể là những suy nghĩ hết sức ngây ngơ thậm chí có
phần khó hiểu tuy nhiên lại là cơ hội để các em thể hiện bản thân và giáo viêncó thể
chỉ bảo uốn nắn các em.
2.5.Rèn kỹ năng sốngqua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục ngồi
giờ lên lên lớp.
Thơng qua các tiếtsinh hoạt lớp, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh được nói,
được trình bày ý kiến, quan điểm của bản thân về gia đình, bạn bè trước lớp, được
luân phiên nhau làm “thủ lĩnh” để tổ chức trị chơi, qua đó các em sẽ tự tin, hoạt bát
và thể hiện được cá tính bản thân.
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các
phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về
trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi
được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn
tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Bản thân học cách lắng nghe, tìm hiểu
nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ u thương của
mình khi u cầu điều gì đó với học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời đối với
những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.

Ngoài ra, những buổi chào cờ, bản thân ln khuyến khích các em xung phong
trả lời những câu hỏi mà thầy Tổng phụ trách hay hỏi. Luôn lắng nghe các nội dung,
hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các
phong trào.
Tổ chức các hoạt động đưa các nội dung văn hóa địa phương lồng ghép trong
cơng tác giảng dạy nhưtrang trí góc bản sắc địa phương. Ngồi ra, giáo viêncịn phối
hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường để cùng giáo dục kỹ
năng sốngcho các em như mời cựu chiến binh tại địa phương để nói về lịch sử địa
phương nhân ngày 22/12; học sinh mặc trang phục dân tộc.
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp
học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn
các em trồng và chăm sóc cây xanh để nhà trường thực sự sạch đẹp. Từng bước hồn
thành các tiêu chí của trường học thân thiện, học sinh tích cực với đúng nghĩa tạo cho
học sinh “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Ngoài ra, học sinh còn được tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
như: Tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm, tuyên truyền vệ sinh cá nhân, phòng
tránh tai nạn đuối nước, các hoạt động thể dục thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ, múa hát
sân trường, phát thanh măng non, trò chơi dân gian,….Để giáo dục kỹ năng sống cho
các em.
7


2.6.Thiết lập được mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp học
sinh phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra
ở nhiều mơi trường khác nhau. Vì thế, việc giáo dục nói chung và giáo dục học sinh
nói riêng ln ln địi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ của nhiều lực lượng xã hội
và nhất là đòi hỏi sự quan tâm đúng cách của nhà trường, gia đình và mọi người trong
xã hội. Đây là điều vô cùng quan trọng để giáo dục kỹ năng sống cho các em. Phải
luôn đảm bảo học sinh được học kỹ năng sốngcả ở trường và ở nhà. Giáo viênvà phụ

huynh cần thường xuyên giữ liên hệ với nhau, cung cấp các thông tin cần thiết về sự
phát triển, thay đổi của học sinh ở từng giai đoạn khác nhau để từ đó có phương pháp
giáo dục phù hợp. Đặc biệt mỗi bậc phụ huynh đều phải ln rèn luyện mình để nâng
cao kỹ năng sốngcủa bản thân, trở thành tấm tương sáng cho con cái mình noi theo.
Chúng ta đều biết rằng trong thực tế, môi trường xã hội mà học sinh sống, học
tập và phát triển bên cạnh các mặt tác động tốt, các ảnh hưởng tích cực ln ln tồn
tại, hàm chứa các yếu tố có thể gây nguy hại đến sự phát triển nhân cách của học sinh
và với đặc điểm hiếu động, ít vốn sống, học sinh dễ bắt chước theo, dần dần trở thành
thói quen xấu, tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của học sinh. Nhất là khi
thiếu sự phối hợp đúng đắn, thiếu sự thống nhất tác động giáo dục giữa nhà trường và
gia đình thì hậu quả xấu trong giáo dục sẽ xuất hiện, nếu không kịp thời khắc phục
hậu quả sẽ rất tai hại.
Chính vì thế, trong những năm qua tơi ln ln đặt quan hệ giữa gia đình nhà trường - xã hội trong mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau. Đây là
giải pháp cơ bản nhất để hoàn thiện việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh hiện
nay.
PHẦN THỨ BA:
KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG VÀO THỰC TIỄN
1. Kết quả
Từ việc vận dụng linh hoạt các giải pháp nêu trên, trong năm học 2017-2018
hầu hết học sinh của lớp 1A đều có kỹ năng tốt. Các em ngoan ngỗn, lễ phép, kính
trọng, vâng lời thầy cơ và cha mẹ; đồn kết với bạn bè, chăm chỉ học tập; thực hiện
tốt nội quy của nhà trường; trung thực; thật thà; hăng hái tham gia các hoạt động của
lớp, của trường.
Tôi nhận thấy công việc giáo dục kỹ năng sốngcho các em đã có những kết quả
nhất định. Các em đã có nhiều chuyển biến đáng khích lệ về các chuẩn mực hành vi
và được giáo viên, phụ huynh học sinh đánh giá cao. Cụ thể như sau:
Mức độ
Stt
Các biểu hiện hành vi
Tốt Khá TB Yếu

I
1
2

Nhóm kỹ năng giao tiếp-hòa nhập cuộc sống
Biết chào hỏi, lễ phép trong nhà trường, ở nhà
100%
và ở nơi công cộng.
Biết nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ và xin lỗi
100%
khi có lỗi.
8


3
4
5

Nhặt được của rơi, trả người đánh mất.
100%
Biết tìm đến sự giúp đỡ của người khác khi gặp
100%
khó khăn.
Ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ.

4

Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động, vui
chơi giải trí.
Kỹ năng tập trung.

Nói rõ ràng, mạch lạc, trình bày ngắn gọn.
Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi
và lao động.
Kỹ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm.

5

Kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.

II
1
2
3

100%

100%
100%
100%
100%

100%
Học sinh tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập, mạnh dạn trong giao tiếp,
khả năng thực hành cao, ln đồn kết, giúp đỡ nhau, thể hiện sự hợp tác thân thiện
với thầy cô, bạn bè. Có những hiểu biết sơ giản về cách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
cho mình và người thân.
Vệ sinh cá nhân, trường, lớp ln sạch sẽ thống mát, bàn ghế ngay ngắn, trang
phục gọn gàng. Có ý thức chăm sóc và bảo vệ cảnh quan nhà trường.
Các hoạt động tập thể, thể dục thể thao, múa hát sân trường được duy trì
thường xun và ngày càng có chất lượng.

2. Hiệu quả phổ biến ứng dụng vào thực tiễn
Qua thực hiện các giải pháp tại lớp 1A bước đầu cũng đã khắc phục được
những khó khăn, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho các em
học sinh, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện cho nhà trường,
bản thân tơi nhận thấy bước đầu đã có những thay đổi đáng mừng. Từ đó, tơi cũng rút
ra được một bài học kinh nghiệm cho bản thân cũng như để các thầy cô đồng nghiệp
tham khảo, góp ý như sau:
- Cần làm tốt vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Giáo viênchủ nhiệm là người
trực tiếp nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh, là người hiểu rõ học sinh hơn ai hết.
Do đó ngay từ đầu năm học, giáo viênchủ nhiệm phải thường xuyên chú ý đến hành
vi của từng học sinh. Qua công việc hàng ngày, giáo viênchủ nhiệm kiểm tra việc
học, việc thực hiện nội qui trường, lớp của học sinh. Từ đó, kịp thời uốn nắn sửa chữa
khi học sinh có thái độ, kỹ năng khơng tốt.
- Mỗi người giáo viênchúng ta cần phải gương mẫu, hiểu tâm lý của học sinh
và có tâm huyết với việc giáo dục học sinh trở thành những công dân tốt.
- Tổ chức có hiệu quả các tiết hoạt động tập thể và hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh để thông báo tình hình học
sinh có những biểu hiện chưa tốt cho phụ huynh nắm được. Từ đó phối kết hợp với
phụ huynh để tìm ra biện pháp giáo dục tốt nhất.
9


- Học sinh tiểu học của chúng ta với nhiều đặc điểm riêng trong tính cách, lối
sống, trình độ… nên việc giáo dục kỹ năng sốngkhông thể áp dụng cứng nhắc theo
những giáo trình có sẵn đại trà mà cần linh hoạt trong cả nội dung, phương pháp và
hình thức tổ chức.
Dạy kỹ năng sốngcho học sinh trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp
thiết. Tuy nhiên, kỹ năng sốngchưa được đưa vào thành một chương trình riêng mà
chủ yếu được giáo viênlồng ghép trong từng bộ môn học. Với thời lượng hạn hẹp như

vậy, các em chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng sống. Đó là điều đang cịn khó
khăn, lúng túng cho giáo viênvà nhà trường. Theo tơi nghĩ, tùy vào hồn cảnh thực tế
của từng địa phương, nhà trường mà tổ chức sao cho sáng tạo và hiệu quảđể hoạt
động giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh thực sự đạt hiệu quả.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình giáo dụckỹ
năng sốngcho học sinh lớp 1A trường Tiểu học số 1 Pa Vệ Sử. Có thể các biện pháp
chưa là tối ưu. Mong hội đồng khoa học góp ý chia sẻ để bản thân thêm nhiều kinh
nghiệm.
Xin chân thành cảm ơn!
Pa Vệ Sử, ngày 25 tháng 4 năm 2018
Người viết

10



×