Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường xe máy của công ty TNHH T&T

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.23 KB, 78 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam đang từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong
năm 2006 rất có thể chúng ta sẽ ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Vì vậy, đứng trước nền kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt
hơn . Đòi hỏi các doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh tốt . Nếu
không doanh nghiệp khó có thể tồn tại, như vậy trong thời đại ngày nay có
thể nói năng lực cạnh tranh là nhân tố quan trọng quyết định sự sống còn
của các doanh nghiệp .Trong thời gian qua, các doanh nghiệp trong nước
đã được sự bảo hộ rất lớn từ Nhà nước như ưu đãi về thuế quan, hàng hoá
nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam bị đánh thuế rất cao và bị giới hạn bởi
hạn ngạch…Nhưng trong năm tới và những năm tiếp theo, những ưu đãi đó
dần dần sẽ không còn nữa, các doanh nghiệp trong nước cần phải có đủ sức
để trụ vững bằng đôi chân của mình.
Với công ty TNHH T&T một tập đoàn kinh tế lớn mạnh của Việt Nam
chuyên sản xuất và mua bán đồ điện tử - điện lạnh gia dụng, hàng tiêu
dùng. Sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Sản xuất, lắp ráp và
kinh doanh thiết bị văn phòng, máy móc thiết bị viễn thông. Chế tạo, sản
xuất động cơ, phụ tùng linh kiện và lắp ráp xe gắn máy hai bánh... Các mặt
hàng đó luôn trong tình trạng cạnh tranh gắt gao với các mặt hàng trong
nước và nước ngoài. Nhất là đối với sản phẩm xe máy của công ty, mặt
hàng chủ yếu luôn chiếm tỉ lệ rất cao trong doanh thu hàng năm, với qúa
trình tiếp xúc và tìm hiểu thực tiễn hoạt động sản xuất và kinh doanh của
T&T em chọn đề tài của mình là “ Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường xe máy của công ty TNHH T&T”.
Bài viết của em được trình bày như sau:
Lời nói đầu
Mục lục
1
Chương I: Một số lý luận về thị trường & năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
Chương II: Thực trạnh năng lực cạnh tranh sản phẩm xe máy của


công ty TNHH T&T trên thị trường trong các năm qua
Chương III: Những kiến nghị và giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực
cạnh tranh của công ty trên thị trường
Mục tài liệu tham khảo
Bản báo cáo thực tập tốt nghiệp của em được viết theo phương pháp
nghiên cứu thu thập số liệu, tài liệu; trên cơ sở tổng hợp các văn bản, tài
liệu sách báo, mạng Internet… có về chức năng, nhiệm vụ và các báo cáo
tổng kết về hoạt động của công ty T&T nơi em đang thực tập.
Trước khi viết báo cáo này, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm
của thầy cô khoa khoa học quản lý, đặc biệt là cô PGS.TS Nguyễn Thị
Ngọc Huyền đã hướng dẫn em trong thời gian qua; đồng thời em xin chân
thành cảm ơn các cô chú, anh chị trong công ty T&T đã giúp đỡ em trong
quá trình thực tập.
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG & NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm về thị trường
Thị trường là một khái niệm được xem xét dưới khá nhiều góc độ,
tuỳ người nghiên cứu đứng trên những góc độ nhất định sẽ đưa ra những
khái niệm khác nhau.
Theo nghĩa ban đầu, thị trường là một địa điểm cụ thể, ở đó, kẻ mua
và người bán gặp nhau để trao đổi hàng hoá hay dịch vụ.
Xưa thị trường người ta liên tưởng tới những khu chợ, dần, sự trao đổi
buôn bán trực tiếp này được diễn ra cùng khắp các thành phố, tại các nơi
gọi là khu mua sắm, chứ không phải riêng gì các khu chợ.
Đối với một nhà kinh tế học, thị trường bao hàm mọi người mua và
bán, trao đổi nhau các hàng hoá hay dịch vụ. Như vậy, thị trường nước ngọt
sẽ gồm những người bán chủ yếu như hãng Coca-Cola, Pepsi-Cola,

Sevenup... và tất cả những người mua nước ngọt. Nhà kinh tế thì quan tâm
đến cấu trúc, sự thực hiện và tiến trình hoạt động của mỗi thị trường.
Theo quan điểm của David Begg, thị trường là sự thể hiện thu gọn
của quá trình mà thông qua đó, các quyết định về tiêu dùng các mặt hàng
nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào, và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều
được dung hoà bằng sự điều chỉnh của giá cả.
3
Quan điểm này đánh giá cao vai trò điều chỉnh của giá cả, nó là chủ
thể sẽ điều chỉnh sự hoạt động của thị trường, giúp những chủ thể trong thị
trường đưa ra những quyết định tối ưu.
Theo quan điểm marketing, thị trường bao gồm tất cả những khách
hàng tiềm ẩn có cùng một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có
khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Theo quan niệm này, quy mô thị trường tuỳ thuộc vào số người có
cùng nhu cầu và mong muốn và lượng thu nhập mà họ sẵn sàng bỏ ra để
mua sắm hàng hoá thoả mãn nhu cầu mong muốn đó. Quy mô thị trường
không phụ thuộc vào số người đã mua hàng và cũng không phụ thuộc vào
số người có nhu cầu, mong muốn khác nhau.
Người làm marketing dùng thuật ngữ thị trường chỉ nhóm khách
hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định, do đó được thoả mãn bằng một
sản phẩm cụ thể. Họ có đặc điểm giới tính, tâm sinh lý nhất định, độ tuổi và
sinh sống ở một vùng cụ thể.
Dù xét thị trường theo quan điểm như thế nào, thì nội dung của thị
trường cũng gồm 4 yếu tố:
Thị trường thể hiện mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu.
Thị trường là môi trường kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Thị trường là tấm gương cho các doanh nghiệp nhìn ra nhu cầu,
mong muốn của người tiêu dùng.
Thị trường là căn cứ để doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất

kinh doanh.
Tương ứng với 4 nội dung trên, thị trường có 4 chức năng cơ bản:
- Chức năng thừa nhận:
4
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, cung cấp các dịch vụ ra thị
trường với kỳ vọng thu về doanh thu tối đa để bù đắp các chi phí và có
được lợi nhuận lớn nhất.
Các sản phẩm của doanh nghiệp cung cấp ra thị trường nếu phù hợp
với nhu cầu, mong muốn của khách hàng, cung cấp ra đúng lúc trong khả
năng thanh toán của khách hàng thì chắc chắn doanh nghiệp sẽ tiêu thụ
được sản phẩm đó. Tức là sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường thừa
nhận.
Ngược lại, các sản phẩm này không còn tương thích với nhu cầu hiện
tại của thị trường, hoặc giá cả không hợp lý, việc tiêu thụ sản phẩm chắc
chắn sẽ gặp những rắc rối, việc sản xuất do đó sẽ ách tắc, dẫn doanh nghiệp
vào chỗ bắt buộc phải điều chỉnh hoặc đổi mới nếu không muốn bị phá sản.
- Chức năng thực hiện:
Thị trường là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán hàng hoá dịch vụ.
Thông qua đó, hàng hoá dịch vụ thực hiện giá trị của nó, giá trị này được
thực hiện khi giá trị sử dụng được thực hiện.
- Chức năng điều tiết:
Thị trường hoạt động với khá nhiều quy luật vốn có của nó như quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị... Các quy luật này sẽ
điều tiết các chủ thể tham gia thị trường thông qua sự biến động của giá cả.
Các chủ thể sẽ chọn những ngành nghề, lĩnh vực có lợi nhất để huy động
vào đó.
Thị trường luôn biến động, do vậy các doanh nghiệp phải nắm bắt xu
hướng biến động này để có những điều chỉnh kịp thời trong hoạt động của
mình, cũng từ đó cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm hợp lý,
thoả mãn nhu cầu mong muốn của họ trong khả năng thanh toán.

- Chức năng thông tin:
5
Để đưa ra một quyết định, các chủ thể nhất thiết phải có một số
lượng thông tin nhất định, trong sản xuất kinh doanh nhiều thông tin cần có
đều nằm trong thị trường, thông tin về giá cả, thông tin về cung cầu, chất
lượng sản phẩm, thị hiếu khách hàng... Vấn đề là doanh nghiệp lựa chọn,
sàng lọc, nắm bắt thông tinh như thế nào để có các quyết định đúng đắn.
2. Phân loại thị trường và thị trường mục tiêu
* Muốn thành công trong kinh doanh doanh nghiệp cần phải hiểu
biết thị trường cẵn kẽ, để hiểu rõ thị trường doanh nghiệp cần phải tiến
hành phân đoạn thị trường. Đây là quá trình phân chia thị trường tổng thể
thành các nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, mong muốn
và đặc tính hành vi. Đoạn thị trường là một nhóm người tiêu dùng có cùng
đòi hỏi, phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp những kích thích
marketing.
Khi phân đoạn thị trường doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi ích
như: Giúp doanh nghiệp hiểu biết hơn về nhu cầu mong muốn của khách
hàng.Giúp định vị thị trường có hiệu quả hơn và nâng cao độ chính xác
trong việc lựa chọn các công cụ marketing sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực.
Khi tiến hành phân đoạn thị trường cần bảo đảm một số yêu cầu như sau:
Phân đoạn thị trường giúp doanh nghiệp xác định được những đoạn
thị trường có quy mô phù hợp, đồng nhất hơn thị trường tổng thể, nhờ đó
doanh nghiệp xác định được những mục tiêu rõ ràng, cụ thể và có hiệu quả
hơn. Điều đó không có nghĩa là phân đoạn thị trường càng nhỏ càng có lợi,
điều quan trọng là phải xác định đoạn thị trường có hiệu quả.
Đoạn thị trường có hiệu quả là nhóm khách hàng mà doanh nghiệp
có khả năng đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của họ, đồng thời có số
lượng đủ lớn để tạo ra dòng doanh thu lớn hơn dòng tiền chi cho những nỗ
6

lực kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy đoạn thị trường phân đoạn phải
đo lường được, có quy mô đủ lớn và có thể phân biệt được.
Sau khi phân đoạn thị trường, tuỳ theo nguồn lực mà doanh nghiệp
có thể huy động được, doanh nghiệp sẽ chọn những thị trường mục tiêu cho
sự phát triển của mình.
* Thị trường mục tiêu là một và vài đoạn thị trường mà doanh
nghiệp lựa chọn và quyết định tập trung nỗ lực marketing vào đó nhằm đạt
đựơc những mục tiêu kinh doanh của mình. Để lựa chọn đúng thị trường
mục tiêu doanh nghiệp phải quyết định lực chọn loại khách hàng nào, và có
bao nhiêu khách hàng được lựa chọn.
Khi lựa chọn thị trường mục tiêu doanh nghiệp cần đặc biệt chù ý tới
tốc độ tăng trưởng và quy mô của thị trường đó. Đồng thời là mức độ hấp
dẫn của thị trường mục tiêu tức sự cạnh tranh như thế nào, thế mạnh của
các chủ thể tham gia trên thị trường như khách hàng, nhà cung ứng, đối thủ
cạnh tranh...cũng như những đặc điểm khác...Từ đây doanh nghiệp sẽ có
những nỗ lực cho hoạt động của mình, xác định xem thị trường hiện tại
doanh nghiệp có thể duy trì và mở rộng nó cho tới khoảng thời gian
nào,xác định bước đi tiếp theo, phát triển theo hướng nào và trên thị trường
nào.
II. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1. Năng lực cạnh tranh
1.1. Khái niệm
“Năng lực cạnh tranh” là một khái niệm tương đối. Có rất nhiều
những quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh và mỗi quan điểm đều
đúng trong một góc độ nào đó. Theo quan điểm cũ thì cho rằng: giá thành
thấp nhất là năng lực cạnh tranh cao nhất. Quan điểm này chỉ phù hợp
trong nhũng những giai đoạn trước đây khi mà mức sống dân cư còn thấp,
7
nếu áp dụng định nghĩa này trong giai đoạn hiện nay thì nó tỏ ra không còn
phù hợp nữa.

Có quan điểm lại cho rằng: Năng lực cạnh tranh là trình độ của công
nghệ cao, có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường đồng
thời duy trì được mức thu thu nhập thực tế.
Theo Randall và Martin: Năng lực cạnh tranh là năng lực giành được
và duy trì thị phần trên thị trường vời lợi nhuận nhất định.
Theo Michael Porter- nhà kinh tế học người Mỹ (Giáo sư trường
kinh doanh Harvard):
Ông cho rằng, không có một định nghĩa nào về cạnh tranh được coi
là phổ biến cả. Năng lực cạnh tranh xét trên tầm được hình thành do nhiều
yếu tố và có thể được diễn đạt thông qua cái gọi là “lợi thế cạnh tranh”.
Theo Michael, năng lực cạnh tranh của một quốc gia, một ngày hay một
công ty phụ thuộc vào năng lực sáng tạo và năng động của chính bản thân
quốc gia, ngành hay doanh nghiệp đó. Trong thời kỳ hiện nay, khi mà xu
hướng toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì nền tảng cạnh tranh sẽ
chuyển từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh sẵn có sang những lợi thế
có được từ sự sáng tạo và áp dụng tri thức mới. Lợi thế cạnh tranh là nguồn
lực mà nhờ chúng, các doanh nghiệp có thể tạo ra một số ưu thế vợt trội
hơn, ưu việt hơn so với đối thủ cạnh tranh, cũng có thể coi lợi thế cạnh
tranh là” quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và tron
cạnh tranh.
Nói tóm lại, lợi thế cạnh tranh (giới hạn trong các doanh nghiệp) là
kả năng của một doanh nghiệp trong việc liên tục đạt được hau duy trì thị
phần một cách có lãi. Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay.
Việc phân tích năng lực cạnh tranh càng trở nên quan trong hơn bao giờ hết
và phải đặt nó trong bối cảnh quốc tế.
8
1.2. Vai trò của cạnh tranh trên thị trường
a, Cạnh tranh- vấn đề nổi cộm trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện
nay.
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của thị trường mà bất cứ một chủ thể

tham gia nào cũng phải đối mặt. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là
một động lực quan trọng kích thích kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Thực tế đã chứng minh, trong những năm nền kinh tế nước ta vận
hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, ở đó không có cạnh tranh nên nền
kinh tế đã không phát triển được. Từ năm 1986 nền kinh tế bắt đầu chuyển
đổi sang cơ chế thị trường, lúc này cạnh tranh đã bắt đầu xuất hiện và tạo ra
một động lực lớn làm phát triển nền kinh tế đất nước.
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các cá thể cùng một hoàn cảnh hoặc
môi trường nhằm đạt được những điều kiện sinh tồn tốt nhất. Xét trên góc
độ kinh doanh thì cạnh tranh là sự giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm tối đạt được lợi nhuận cao nhất.
Cạnh tranh tồn tại trong tất cả các hoạt động kinh doanh và tồn tại dưới
nhiều hình thức như: canh tranh mua các yếu tố đầu vào có chất lượng cao,
giá rẻ…, cạnh tranh bán sản phẩm, cạnh tranh trong cùng một ngành, cạnh
tranh giữa các ngành, cạnh tranh trong ngắn hạn, cạnh tranh trong dài
hạn....
Nền kinh tế việt nam đang từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới. Trong năm nay (năm 2006) rất có thể sẽ ra nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO. Cùng với điều đó, nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn
chỉnh và cạnh tranh cũng trở nên khốc liệt hơn và mang tính toàn cầu. Nếu
doanh nghiệp nào không có năng lực cạnh tranh sẽ không thể tồn tại, có thể
nói năng lực cạnh tranh là nhân tố sống còn của các doanh nghiệp trong
giai đoạn hiện nay.
b, Nâng cao năng lực cạnh tranh - điều kiện sống còn của các doanh nghiệp
9
Trong thời gian qua, các doanh nghiệp trong nươc đã được sự bảo hộ
rất lớn từ Nhà nước như ưu đãi về thuế quan, hàng hoá nước ngoài nhập
khẩu vào Việt Nam bị đánh thuế rất cao và bị giới hạn bởi hạn ngạch…
Nhưng trong năm tới và những năm tiếp theo, những ưu đãi đó dần dần sẽ
không còn nữa, các doanh nghiệp trong nước cần phải có đủ sức để trụ

vững bằng đôi chân của mình. Song song với những khó khăn và thách
thức đó là những cơ hội đang còn ở trước mắt. Các doanh nghiệp Việt Nam
cần phải không ngừng sáng tạo đổi mới để chiếm lĩnh thị trường trong
nước và vươn ra thị trường quốc tế đang chờ đón với những cơ hội và thách
thức.
2. Những công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp
2.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm và cơ cấu sản phẩm
Khi bắt đầu công việc kinh doanh bao giờ cung phải đặt ra ba câu hỏi
đó là:
- sản xuất cái gì ??
- sản xuất cho ai ??
- sản xuất như thế nào ??
Để thành công trong kinh doanh và có thể chiến thắng trong cạnh
tranh thì cần phải xác định rõ sản phẩm sẽ sản xuất, từ đó xây dựng cho
mình một chính sách sản phẩm hợp lý nhất phù hợp với những đối tượng
khách hàng mục tiêu trong tương lai. Một số biện pháp dưới đây nhằm tạo
ra lợi thế trong cạnh tranh về sản phẩm đó là:
Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: mỗi sản phẩm khác nhau có những
chỉ tiêu riêng để xác định trình độ của sản phẩm qua các thời kỳ phù hợp
với từng thị trường khác nhau. Doanh nghiệp chỉ dành được lợi thế trong
cạnh tranh nếu lựa chọn được trình độ sản phẩm phù hợp với những yêu
cầu thị trường mà doanh nghiệp đó đang theo đuổi.
Cạnh tranh nhờ bao gói và nhãn mác: bao gói, nhãn mác góp phần
rất quan trọng cho sự thành công của doanh nghiệp. Trước đây, yếu tố này
10
chưa được xem trọng, nhưng trong thời kỳ hiện nay, đó thực sự là một yếu
tố rất quan trọng. Bao gói có bền, đẹp mới tạo được niềm tin ở khách hàng
hơn nữa nó còn góp phần chống lại hàng giả hàng nhái làm mất uy tín trên
thị trường.
Doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu để tạo ra những sản

phẩm mới khác biệt với đối thủ cạnh tranh để thắng thế và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, doanh nghiệp cần phải dự đoán và
nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm để có những quyết định sáng suốt,
đưa ra những sản phẩm mới hoặc ngừng cung cấp những sản phẩm sắp
không còn phù hợp với thị trường nữa.
Doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá sản một cách hợp lý trên
cơ sở một số sản phẩm truyền thống, tạn nên một cơ cấu sản phẩm đa dạng
nhằm thu hút được nhiều hơn các loại khách hàng, từ đó đem lại lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Có thể nói đây là biện pháp tránh rủi ro tốt nhất tuy
nhiên nó lại đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn vốn đủ lớn để kinh doanh
mở rộng.
2.2. Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm
Giá cả là yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp và khách hàng.
Trong giai đoạn đầu mới thành lập doanh nghiệp thường áp dụng phương
pháp này để thu hút khách hàng. Nó tác động trực tiếp đến khách hàng
trong việc ra quyết định mua sản phẩm này hay sản phẩm khác.
Giá cả được hình thành thông qua hệ thống cung cầu trên thị trường,
trong đó, người mua và người bán thương lượng với nhau để đi đến quyết
định về giá sao cho đôi bên cùng có lợi.
Để có được lợi nhuận thì cần phải có một mức giá hợp lý, đó thực sự
là một công cụ tác động trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận theo như
mong muốn. Đây cũng là một chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của
một doanh nghiệp. Do đó, để nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình,
11
các doanh nghiệp cần phải đưa ra được mức giá hợp lý nhất trong từng thời
kỳ nhất định ở mỗi loại thị trương khác nhau.
+ Chính sách định giá khuyến mãi:
Đây là chính sách định giá đang được áp dụng nhiều nhất ở thị
trường Việt Nam cũng như thị trường thế giới, mức giá được đưa ra thấp
hơn giá quy định và thậm chí còn thấp hơn cả chi phí để lôi kéo khách

hàng. Có một số hình thức khuyến mại như:
- Định giá lỗ để lôi kéo khách hàng: Theo chính sách này, doanh
nghiệp đưa ra mức giá thấp hơn thị trường. Mặt trái của phương pháp này
đó là làm hại đến uy tín hình ảnh của sản phẩm, nên cần cân nhắc kỹ lưỡng
trước khi đưa ra quyết định. Thường chỉ áp dụng đối với những sản phẩm
mới thâm nhập vào thị trường hoặc thị trường nhậy cảm về giá.
- Định giá cho nhữn đợt đặc biệt: Đưa ra các đợt giảm giá vào các
dịp như lễ tết, ngày khai trương… nhằm thu hút khách hàng.
- Bảo hành và hợp đồng dịch vụ: Doanh nghiệp có thể kích thích tiêu
thụ bằng cách kèm theo bảo hành hay hợp đồng dịch vụ miễn phí, xét cho
cùng đây cũng là một hình thức giảm giá sản phẩm nhưng làm tăng thêm
uy tín của sản phẩm.
- Chiết giá về mặt tâm lý: Lúc đầu, đưa ra mức giá cao giả tạo, sau đó
hạ dần mức giá. Tuy nhiên, khi sử dụng hình thức này cần lưu ý về mặt luật
pháp.
Khi sử dụng các hình thức trên, cần phải nhanh chóng và hiệu quả nếu
không sẽ bị đối thủ cạnh tranh bắt chước theo làm mất hết tác dụng. Hoặc
nếu áp dụng không thành công sẽ gây ra nhiều tốn kém cho doanh nghiệp.
+ Chính sách định giá phân biệt:
Mỗi một giai đoạn khác nhau doanh nghiệp sẽ áp dụng một mức giá
khác nhau, hoặc mỗi một thị trường khác nhau cũng có thể áp dụng mức
giá khác nhau cho phù hợp. Có một số hình thức định giá phân biệt sau đó
là:
12
- Định giá theo nhóm khách hàng
- Định giá theo dạng sản phẩm
- Định giá theo hình ảnh
- Định giá theo địa điểm
- Định giá theo thời gian
Khi sử dụng các phương pháp này doanh nghiệp cần phải nghiên cứu

điều kiện thị trường có thể phân khúc hay không và việc phân biệt giá
không gây khó chịu cho khách hàng.
+ chính sách ổn định giá bán:
Áp dụng chính sách này, doanh nghiệp có thể bỏ qua quan hệ cung
cầu và tạo ra nét khac biệt với đối thủ cạnh tranh, và giữ vũng được thị
trường. Tuy nhiên nếu áp dụng chính sách này đối với thị trường có nhiều
biến động thì tỏ ra không hợp lý và để áp dụng thành công được chính sách
này doanh nghiệp cần phải có tiềm lực manh và uy tín lâu dài.
+ Chinh sách bán phá giá:
Phương pháp này rất nguy hiểm nhất là trong thời kỳ hiện nay, do đó
nó rất ít được áp dụng, nếu sử dụng chính sách này cần phải cân nhắc thật
kỹ lưỡng những mối lợi và những hiểm hoạ mà nó đem lại. Thường áp
dụng chính sách này khi sản phẩm tồn kho quá nhiều, và một số sản phẩm
đặc thù không để lâu được hoặc sắp hết hạn sử dụng.
Nhìn chung, việc đánh giá sản phẩm của doanh nghiệp cần phải căn
cứ vào các mặt như lượng cầu, chi phí sẳn xuất sản phẩm và giá thành đơn
vị sản phẩm. Trươc khi tiến hành các chiến lược về giá cần phải phân tích
thị trường một cách thật kỹ lưỡng.
13
2.3. Cạnh tranh bằng phân phối
Có rất nhiều phương pháp khác nhau để phân phối sản phẩm. Một
phương pháp phân phối tốt sẽ giúp cho sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn,
thị trường sẽ được mở rộng hơn. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh
nghiệp thường có cơ cấu sản phẩm rất đa dạng và mỗi loại sản phẩm lại
tương thích với một loại kênh phân phối nhất định. Do đó nhà sản xuất phải
chú trọng trọng trong việc lựa chọn hình thức phân phối cho sản phẩm của
mình sao cho phù hợp nhất.
Hình 1: Các hình thức kênh phân phối
A B C D
(Nguồn: Phòng Kế Hoạch Đầu Tư công ty T&T)

- Kênh A: là kênh trực tiếp, người sản xuất bán hàng trực tiếp cho khách
hàng tiêu thụ cuối cùng. Hình thức này có ưu điểm là làm tăng năng lực
tiếp xúc với khách hàng, dễ dàng tạo tin tưởng cho khách hàng về chất
lượng sản phẩm.
14
Người sản xuất Người sản xuất Người sản xuất Người sản xuất
Người tiêu dùng Người tiêu dùng Người tiêu dùng Người tiêu dùng
Người bán lẻ Người bán lẻ Người bán lẻ
Người bán buôn Người bán buôn
- Kênh B: là kênh một cấp, có thêm người bán lẻ, thường được sử dụng
khi người bán lẻ có quy mô lớn, có thể mua khối lượng lớn từ nhà sản xuất.
- Kênh C: Đây là kênh hai cấp, trong kênh có thêm người bán buôn,
thường được sử dụng phổ biến cho các loại hàng hoá có giá trị đơn vị thấp
và được tiêu dùng thường xuyên.
- Kênh D: là kênh dài nhất, thường được gọi là kênh ba cấp, được sử
dụng khi có nhiều nhà sản xuất nhỏ và nhiều nhà bán lẻ nhỏ, một đại lý
được sử dụng để cung cấp sản phẩm với khối lượng lớn.
Kênh càng nhiều cấp thì nhà sản xuất càng khó có thể kiểm soát được,
tuy nhiên đối với các hang hoá thông thường, phục vụ cho những nhu cầu
thiết yếu hàng ngày như: quần áo, giầy dép, xà phòng… thì cần phải có một
hệ thống bán hàng rộng khắp để đáp ứng một cách thuận tiện cho khách
hàng.
Nói chung, để tăng năng lực tiêu thụ, doanh nghiệp phải có hệ thống
bán hàng phong phú, đặc biệt là hệ thống kho tàng, các trung tâm bán hàng
có cơ sở vật chất hiện đại, thuận tiện cho tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa,
doanh nghiệp phải biết kết hợp nhiều kênh phân phối, phải có những biện
pháp quản lý các cấp phân phối mà mình đã định ra.
2.4. Cạnh tranh bằng xúc tiến hỗn hợp
Xúc tiến hỗn hợp còn được gọi là hệ thống truyền thông marketing
gồm năm công cụ chủ yếu đó là: quảng cáo, marketing trực tiếp, kích thích

tiêu thụ, quan hệ công chúng và bán hàng trực tiếp. Mỗi công cụ đều có
kảh năng tác động và tạo sức hút với khách hàng taiềm năng theo những
hình thức riêng biêt.
- Quảng cáo: là hình thức sử dụng các phương tiện truỳên thông đại
chúng để tuyên truyền sâu rộng thông tin về sản phẩm mới và củng cố niềm
tin cho những sản phẩm cũ. Nếu làm tốt quảng cáo sẽ kích thích được sự tò
mò của khách hàng và dẫn đến hàng vi tiêu dùng thử của họ từ đó hình
thành nên thói quen tiêu dùng sản phầm đã gây được ấn tượng tốt cho họ.
15
Kích thích tiêu thụ bao gồm nhiều hoạt động đa dạng nhằm tăng
doanh số bán như: thưởng và tặng quà, mẫu chào hàng, hội trợ và triển lãm
thương mại… có tác dụng khuyến khích việc tiêu dùng. Chúng tạo ra được
sức hấp dẫn khi mà phần giá trị hỗ trợ thêm được khách hàng công nhận và
ưa thích.
- Marketing trực tiếp: đây là xu hướng mới trong ứng dụng
marketing trong giai đoạn hiện nay, đây là phương pháp sử dụng công nghệ
thông tin trong việc bán hàng. Từ hình thức truyền thống là gửi thư trực
tiếp, catalog, nay chuyển sang các hình thức như marketing qua điện thoại,
marketing đáp ứng trên truyền hình, internet…Hình thức này đã và đang
đem lại lợi ích cho khách hàng, đặc biệt là những khách hàng bận rộn.
- Quan hệ công chúng: là các chương trình được thiết kế nhằm đề
cao, bảo vệ hình ảnh của doanh nghiệp hay những sản phẩm cụ thể của
doanh nghiệp. Các công cụ của quan hệ công chúng điển hình đó là: tổ
chức các sự kiện, đăng tin, bài chuyên về doanh nghiệp hay về sản phẩm
hoặc các hoạt động mang tính xã hội cao như tài trợ trương trình văn hoá
thể thao, các hoạt động từ thiện, công ích… đều có tác dụng nâng cao uy
tín, hình ảnh của doanh nghiệp, giúp khách hàng hiểu biết thêm và quan
tâm hơn đến sản phẩm của doanh nghiệp.
- Bán hàng trực tiếp: ; là một trong những công cụ để tuyên truyền
hình ảnh của sản phẩm, của doanh nghiệp thông qua hệ thống bán hàng

trực tiếp. Công ty có một đội ngũ nhân viên làm nhiệm vụ bán hàng trực
tiếp cho khách hàng, đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
thu hút khách hàng, tạo ra một tác động mang tính dây truyền làm ảnh
hưởng lan toả đến toàn bộ thị trường.
III. NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG
1. Xét trên tầm vĩ mô
1.1. Môi trường kinh tế
16
Nền kinh tế ta đang giữ được mức tăng trưởng khá tốt. Tốc độ tăng
trưởng bình quân qua các năm luôn duy trì ở mức cao từ 7-8 %/năm, trong
năm nay sẽ phấm đấu đạt tốc độ tăng trưởng trên 8%. Cùng với sự tăng
trưởng ổn đinh của nền kinh tế, mức sống của người dân ngày một nâng
cao làm cho nhu cầu tiêu dùng ngày một tăng nhanh. Đây là một thuận lợi
lớn cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng.
Tuy nhiên, khi mức sống người dân ngày một nâng cao thì nhu cầu của họ
lại càng đòi hỏi cao hơn, xu hướng tiêu dùng sẽ chuyển từ số lượng sang
chất lượng. Khách hàng sẽ quan tâm về chất lượng sản phẩm, yếu tố giá rẻ
không còn hấp dẫn được nhiều khách hàng như trước đây. Trong khi các
doanh nghiệp xe máy của Việt Nam có trình độ còn thấp, chất lượng sản
phẩm chưa cao sẽ rất khó cạnh tranh với các hãng danh tiếng của nước
ngoài như: Honda, yamaha, Suzuki, Sym….
1.2. Môi trường chính trị
Có thể nói, giai đoạn vừa qua chính trị thế giới có nhiều biến động xấu.
Cuộc chiến tranh của Mỹ vào Irắc đã tạo ra một quán tính làm cho giá dầu
thế giới liên tục tăng làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế toàn cầu. Đối với
các doanh nghiệp sản xuất xe máy, giá xăng dầu tăng có ảnh hưởng trực
tiếp đến lượng cầu về xe máy. Tâm lý sợ tốn tiền xăng đã làm cho người
tiêu dùng không muốn mua xe mặc dù họ có đủ khả năng để mua và có nhu
cầu đi lại.

Trong thời gian qua, nạn khủng bố liên tục diễn ra ở rất nhiều nước
trên thế giới nhưng ở Việt nam tình hình chính trị vẫn rất ổn định. Đây là
điều kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế cả nước nói chung, doanh
nghiệp sản xuất xe mày nói riêng.
Về luật pháp, cho đến thời điểm này, doanh nghiệp sản xuất xe máy
trong nước vẫn được ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài về
thuế do đó doanh nghiệp trong nước sẽ có lợi thế hơn trong cạnh tranh.
17
Hơn nữa, gần đây đã bãi bỏ luật giới hạn đăng ký xe máy làm cho nhu cầu
mua xe máy tăng trong khu vực nội thị.
1.3. Môi trường công nghệ
Nền công nghệ của Việt Nam trong những năm gần đây đã được cải
thiện một cách đáng kể nhưng nhìn chung vẫn còn rất lạc hậu so với mức
trung bình của thế giới. Theo các nghiên cứu cho thấy, năng lực cạnh tranh
của Việt Nam trong tình trạng rất kém so với thế giới. Xét cho cùng, khả
năng cạnh tranh của ta còn thấp là do trình độ công nghệ còn rất lạc hậu
không đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Ngành sản xuất xe mày của việt nam cũng nằm trong tình trạng lạc hậu
về công nghệ. Một số chi tiết máy phức tạp vẫn còn phải nhập khẩu từ
nước ngoài, doanh nghiệp chưa thể sản xuất được. Do còn nhiều lệ thuộc
vào nước ngoài nên chưa thể chủ động hoàn toàn được và giá thành sản
xuất ra còn cao làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
2. Xét trong môi trường vi mô
2.1. Khách hàng
Bất kỳ sản phẩm nào đều sản xuất để phục vụ một đối tượng khách
hàng nào đó . Khách hàng - với vai trò là người tiêu thụ sản phẩm cuối
cùng có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp đánh mất khách hàng hoặc không thu hút được khách
hàng thì đó là lúc báo hiệu sự phá sản, diệt vong của doanh nghiệp.
Ở đây, ta không chỉ coi khách hàng chỉ là những người tiêu thụ sản

phẩm cuối cùng (người tiêu dùng). Khách hàng là một khái niệm rộng hơn
thế, nó bao gồm: các nhà công nghiệp, nhà cung ứng nguyên vật liệu, nhà
phân phối, các đại lý bán buôn, bán lẻ…
Để hoạt động kinh doanh có thể tiến hành một cách suôn sẻ, doanh
nghiệp cần phải có những mối quan hệ tốt với khách hàng, cần phải giữ
được uy tín lâu dài, tránh tâm lý làm ăn chộp giật sẽ làm mất hết lòng tin ở
khách hàng.
18
2.2. Đối thủ cạnh tranh
Hiện nay trên thị trường Việt Nam có rất nhiều hãng sản xuất xe máy
nổi tiếng thế giới như Honda, Yamaha, Sym, Suzuki…Các đối thủ cạnh
tranh này có tiềm lực kinh tế thực sự mạnh và có một bề dày lịch sử hàng
trăm năm. Thật khó có thể giành được lợi thế trong cạnh tranh với các hãng
này. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp xe máy Việt Nam có một chiến
lượng cạnh tranh thích hợp, tạo ra sự khác biệt thì sẽ chiếm lĩnh được một
số đoạn thị trường mà đối thủ cạnh tranh tuy có tiềm lực mạnh về kinh tế
nhưng lại không phù hợp.
2.3. Các trung tâm Marketing
Trung gian marketing là các doanh nghiệp, các tổ chức giúp cho
công ty làm tốt khâu tiêu thụ sản phẩm tới tay người tiêu thụ sản phẩm cuối
cùng.
Trung gian marketing quan trọng nhất của bất kỳ doanh nghiệp sản xuất
nào đều là các nhà phân phối, nhà phân phối là người trực tiếp đưa sản
phẩm của họ tới tay người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng, là người quảng
bá sản phẩm ra thị trường để người tiêu dùng biết đến sản phẩm, tiêu dùng
sản phẩm và tạo ra thói quen tiêu dùng…
Các dịch vụ marketing khác như: các công ty tư vấn, báo, tạp chí,
các công ty quảng cáo, công ty nghiên cứu thị trường…, các tổ chức tài
chính tín dụng trung gian như: kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm… sẽ cung
cấp cho các doanh nghiệp các dịch vụ không thể thiếu trong hoạt động của

mình, bất kỳ sự thay đổi nào của họ đều có tác động tích cực hay tiêu cực
tới doanh nghiệp.
19
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHÂM XE MÁY
CỦA CÔNG TY TNHH T&T TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG
NHỮNG NĂM QUA
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
TNHH T&T
1. Quá trình hình thành và phát triển.
1.1. Quá trình hình thành.
* T&T là một cụng ty trách nhiệm hữu hạn, có tư có pháp nhân
được thành lập từ vốn góp của các thành viên sở hữu và nguồn vốn vay.
Với số vốn đầu tư ban đầu là 50 tỉ đồng năm 1993. Hiện nay vốn của công
ty lên đến gần 400 tỷ.
Cho đến nay tập đoàn đã được hơn 10 tuổi, và đang trên đà phát triển
khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường trong nước cũng như dần tạo
chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Tên gọi chính thức: Công ty công nghệ và thương mại T&T.
Tên tiếng Anh: T&T GROUP
TECHNOLOGY AND TRADE CO.,LTD
Giấy phép thành lập số 00044/GP-UB do uỷ ban nhân dân thành phố Hà
Nội cấp ngày11/12/1993.
Giấy phép kinh doanh số 040904 do trọng tài kinh tế cấp ngày 14/04/1993.
*Quá trình hình thành các đơn vị thành viên
Năm 1993, Tập đoàn có:
- Công ty T&T Hà Nội (Công ty Bất động sản T&T)
- Xí nghiệp lắp ráp xe máy Vĩnh Tuy I, II .
- Trung tâm sửa chữa và bảo hành National/Panasonic và Toshiba.
20

Hai năm sau, năm 1995, Tập đoàn đã phát triển thêm các đơn vị thành
viên:
- Công ty T&T Đà Nẵng
- Công ty T&T Thành phố Hồ Chí Minh.
Đến năm 1999, Tập đoàn đầu tư xây dựng Công ty T&T Hưng Yên.
Đây là nhà máy có diện tích 70.000 m
2
, có quy mô công nghiệp, dây
chuyền thiết bị hiện đại với tổng số vốn trên 21,5 triệu đô-la tại thị trấn
Bần, Yên Nhân, Hưng Yên, thu hút 1930 lao động thường xuyên, 450 lao
động thời vụ. Năm 2000, Công ty tăng vốn đầu tư, mở rộng dây chuyền sản
xuất, đặc biệt là công nghệ đúc, bao gồm đúc ép và đúc rót (chuyên đúc các
chi tiết khó, chất lượng cao).
Tháng 1 năm 2004, Tập đoàn thành lập thêm các đơn vị thành viên:
Công ty Điện tử viễn thông T&T, Công ty Đầu tư phát triển công nghệ
T&T, Công ty CK&T. Từ đây, Tập đoàn có thêm sản phẩm điện thoại di
động. Công ty T&T phân phối độc quyền thương hiệu điện thoại di động
Bird của Trung Quốc.
* Quá trình đa dạng hoá dần sản phẩm chính
Từ khi mới thành lập cho đến năm 1999, Tập đoàn có các sản phẩm
chính: phụ tùng xe máy, xe máy lắp ráp (linh kiện chính được nhập khẩu
chiếm phần lớn), điều hoà nhiệt độ Kamikaze.
Từ năm 1999 đến 2004 có thêm sản phẩm xe máy nguyên chiếc nội
địa hoá gần 100% mang nhãn hiệu Majesty.
Từ năm 2004 trở lại đây, Tập đoàn có 3 sản phẩm chính: xe máy
Majesty, điều hoà nhiệt độ Kamikaze và điện thoại di động Bird.
Với uy tín và chất lượng sản phẩm, bước đầu Tập đoàn đã khẳng định
được chỗ đứng của mình trên thị trường tiêu thụ, các sản phẩm không
ngừng nâng cao về chất lượng, tạo ra sự khác biệt về kiểu dáng, kết cấu hài
hoà...

21
Hiện nay, với đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, cán bộ kỹ thuật có
kinh nghiệm, công nhân viên lành nghề cùng trang thiết bị hiện đại, các sản
phẩm của Tập đoàn ngày càng đa dạng, chất lượng cao hơn, đáp ứng thị
trường trong nước và xuất khẩu, Tập đoàn đã đứng vững, làm ăn có lãi,
tăng chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước, tăng vốn tích luỹ đầu tư cho Tập
đoàn.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ
* Chức năng
- Sản xuất, kinh doanh hàng điện tử, điện máy.
- Sản xuất, lắp ráp, kinh doanh sản phẩm điện tử, điện máy: sản xuất
phụ tùng, lắp ráp, sửa chữa xe 2 bánh gắn máy.
- Sản xuất, lắp ráp, mua bán thiết bị máy văn phòng, máy điện thoại,
máy móc thiết bị viễn thông.
- Kinh doanh, lắp ráp các sản phẩm đồ gia dụng, dân dụng, hàng tiêu
dùng.
- Tư vấn, lắp đặt, bảo hành, sửa chữa các sản phẩm hàng điện tử, điện
lạnh, điện gia dụng.
* Nhiệm vụ
- Đăng ký kinh doanh và hoạt động đúng ngành nghề đăng ký, chịu
trách nhiệm trước nhà nước về các nghĩa vụ phải thực hiện.
- Chịu trách nhiệm trước khách hàng về sản phẩm và dịch vụ do Tập
đoàn cung cấp.
- Xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với chức năng hoạt động
và thị trường.
- Chăm lo, bảo đảm đời sống cho cán bộ công nhân viên toàn công
ty...
22
2. Các đặc điểm chính của công ty.
2.1.Cơ cầu tổ chức và nhiệm vụ các phòng ban.

Hình 2: Sơ đồ tổ chức công ty.
*Hội đồng thành viên. Là cơ quan quyết định cao nhất của công ty.
Hội đồng thành viên bao gốm tất cả các thành viên của công ty, hội đồng
quyết định phương hướng phát triển của công ty, quyết định tăng giảm vốn
điều lệ, quyết định thời điểm, phương thức huy động vốn và quyết định
những dự án lớn...
Quyết định mức lương của các thành viên quan trọng trong công ty
như tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc, các trưởng phòng và những
23
Hội đồng thành viên
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
nhân sự
Phó tổng giám đốc kỹ
thuật
P. nhân sự
P. vật tư
P. kinh doanh xm
P. hành chính
P. tài chính kế toán
P. xuất nhập khẩu
chức vụ quan trọng khác. Thông qua báo cáo tài chính hằng năm, phương
án sử dụng và phân chia lợi nhuận.
Hội đồng thành viên của công ty họp mỗi quý một lần để quyết định
những vấn đề lớn.
* Tổng giám đốc. Là người điều hành hoạt động các hoạt động hằng
ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng thành viên về quyền,
nghĩa vụ của mình.
Tổng giám đốc tổ chức thực thi các quyết định của hội đồng thành
viên, quyết định tất cả các vấn đề có liên quan đến hoạt động hằng ngày

của công ty.
Là người tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh, đầu tư của công ty;
ban hành quy chế nội bộ công ty. Tổng giám đốc phải trình báo cáo quyết
toán tài chính năm lên hội đồng thành viên; là người trực tiếp chỉ đạo công
việc của các phó tổng giám đốc, đưa ra các ý kiến khen thưởng kỷ luật; trao
đổi ý kiến với phó tổng giám đốc về một số vấn đề quan trọng như cơ cấu
tổ chức nhân sự, bổ nhiệm hay sa thải một số chức vụ quan trọng.
* Phó tổng giám đốc.
Hiện tại công ty có hai phó tổng giám đốc, một phó tổng giám đốc
nhân sự và một phó tổng giám đốc kỹ thuật.
- Phó tổng giám đốc nhân sự. Đây là người lập kế hoạch, điều hành
các hoạt động có liên quan đến nhân sự, kỷ luật, tiền lương hay đào tạo lao
động. Cùng với tổng giám đốc sẽ có những quyết định sa thải, tuyển chọn
những vị trí quan trọng của công ty như trưởng các phòng ban, phó
phòng...
- Phó tổng giám đốc kỹ thuật. Là người giúp việc trực tiếp cho tổng
giám đốc, là người chịu trách nhiệm chính về mặt kỹ thuật trong sản xuất.
Đồng thời là người điều hành và theo dõi các hoạt động sản xuất của các
24
phân xưởng, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về các hoạt động có liên
quan đến quản lý chất lượng,chế tạo sản phẩm mới; nghiên cứu về tình
hình thực tế, đưa ra những quyết định có liên quan đến công nghệ trình lên
cho tổng giám đốc cùng hội đồng thành viên quyết định.
- Khi tổng giám đốc vì một lý do nào đó không thể trực tiếp điều hành,
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình thì các phó tổng giám đốc sẽ
được uỷ quyền thay mặt tổng giám đốc điều hành các hoạt động của công
ty trong những khoảng thời gian nhất định.
* Phòng kinh doanhxe máy và phụ tùng
Có nhiệm vụ lập và điều hành, kiểm soát thực hiện kế hoạch kinh
doanh và triển khai sản xuất ở các phân xưởng, điều hành triển khai hoạt

động tiêu thụ sản phẩm của công ty.
* Phòng tài chính-kế toán
Có nhiệm vụ thực hiện công tác tài chính, kế toán, liên quan tới mọi
hoạt động của công ty, tổ chức và tiến hành việc kiểm toán nội bộ, phối
hợp các bộ phận liên quan tính toán chi phí và giải quyết kinh phí cho công
tác hoạt động của công ty.
* Phòng tổ chức và nhân lực.
Đây là phòng ra quyết định có được tuyển người cho các phòng ban
khác không Thực hiện các nhiện vụ lập kế hoặch, điều hành quản lý các
hoạt động có liên quan đến hoạt động nhân sự, kỷ luật, tiền lương, đào tạo
lao động của công ty.
*Phòng hành chính.
Đã soạn thảo, ban hành một số quy định: quản lý văn phòng phẩm,
trang thiết bị và công tác bảo vệ, phòng cháy chữa cháy.
Thực hiện chế độ đối với người lao động: BHXH, BHYT, bảo hộ lao
động, lương thưởng và các chế độ khác.
Giải quyết các thủ tục hành chính pháp lý khỏc…
25

×