Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Văn hóa biển trong văn hóa dân gian truyền thống Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.96 KB, 27 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI </b>


<b>TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN </b>
<b>--- </b>


<b>NGUYỄN THỊ HÀ ANH </b>



<b>VĂN HOÁ BIỂN TRONG VĂN HOÁ DÂN GIAN </b>


<b>TRUYỀN THỐNG HẢI PHÒNG </b>



<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI </b>


<b>TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN </b>
<b>--- </b>


<b>NGUYỄN THỊ HÀ ANH </b>



<b>VĂN HOÁ BIỂN TRONG VĂN HỐ DÂN GIAN </b>


<b>TRUYỀN THỐNG HẢI PHỊNG </b>



Chun ngành <b>: Văn học dân gian</b>


Mã số <b>: 60 22 36</b>


<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC </b>



<b>Ngƣời hƣớng dẫn: </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>MỤC LỤC </b>




<b>Số trang </b>


<b>Mở đầu</b>

2



<b>Nô ̣i dung </b>

7



<b>Chƣơng 1: Diê ̣n ma ̣o thành phố biển Hải Phòng</b> 7


1.1. Vị trí địa lí 7


1.2. Lịch sử, con ngươ<sub>̀ i Hải Phòng </sub> 9
1.3. Đặc trưng văn hoá biển Ha<sub>̉i Phòng </sub> 12
<b>Chƣơng 2: Văn ho ̣c dân gian trong các lễ hội tiêu biểu của </b>


<b>Hải Phòng </b> 22


2.1. Mối quan hệ giữa Văn hóa dân gian và văn ho ̣c dân gian 22
2.1.1. Tìm hiểu một số thuâ ̣t ngữ 22
2.1.2. Mối quan hệ giữa Văn hoá dân gian và văn học dân gian 23
2.2. Lễ hội cho ̣i trâu (lễ hô ̣i “Đấu ngưu”) 26
2.2.1. Truyền thuyết dân gian trong lễ hội cho ̣i trâu 26
2.2.2. Thơ ca dân gian trong lễ hô ̣i cho ̣i trâu 33
2.2.3. Thơ ca hiện đại trong lễ hội chọi trâu 36
2.2.4. Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cho ̣i trâu 38


2.3. Lễ hội đền Nghè 45


2.3.1. Nư<sub>̃ tướng Lê Chân trong chính sử </sub> 46
2.3.2. Truyền thuyết Lê Chân trong Thần ti<sub>́ch </sub> 48


2.3.3. Truyền thuyết Lê Chân trong lễ hội 53


<b>Chƣơng 3: Dân ca vùng biển Hải Phòng</b> 59


3.1. Hát Đú m (Thủy Nguyên) 59


3.1.1. Nghệ thuâ ̣t ngôn từ của hát Đúm 60
3.1.2. Thơ<sub>̀ i gian và không gian nghê ̣ thuâ ̣t của hát Đúm </sub> 61
3.1.3. Nghệ thuâ ̣t diễn xướng của hát Đúm 64


3.2. Ca tru<sub>̀ (Thủy Nguyên) </sub> 76


3.2.1. Ca trù – một hồn thơ dân tô ̣c 77


3.2.2. Hát trong ca trù 79


<b>Kết luâ ̣n</b>

83


<b>Phụ lục</b>

86


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>MỞ ĐẦU</b>



<b>1. Lí do chọn đề tài: </b>


Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, chăm lo phát triển văn hoá
chính là tạo động lực phát triển đất nước. Do vậy với những truyền thống tốt
đẹp của mình, văn hoá dân gian đóng vai trị tích cực trong sự phát triển của
xã hội Việt Nam.


Hiện nay, việc nghiên cứu văn học trong bối cảnh văn hoá đang được


thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam. Vì vậy, nhiều
nhà nghiên cứu, nhiều nhà khoa học rất quan tâm và đã có những cơng trình
nghiên cứu về lĩnh vực này.


Người viết luận văn quê ở Hải Phòng, vừa sinh sống vừa làm việc tại
Hải Phòng cho nên việc nghiên cứu, khảo sát đề tài về Hải Phịng có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng. Nó giúp tơi hiểu rõ hơn về văn hoá dân gian của quê
hương mình. Do vậy, tôi muốn dùng tư liệu Hải Phòng để minh chứng cho
vấn đề văn hoá biển trong văn học dân gian truyền thống.


Hiện nay, tôi đang giảng dạy cho sinh viên ngành văn hoá du lịch, do
đó đề tài này sẽ góp một phần phục vụ cho công viê ̣c da ̣y, học và nghiên cứu
về văn ho ̣c dân gian của Hải Phòng.


Với tất cả những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên
cứu Văn hoá biển trong văn học dân gian truyền thống Hải Phòng.


<b>2. Lịch sử vấn đề: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

khái lược. Về sau này ở Hải Phòng, còn có thêm cuốn Địa chí thị xã Đồ Sơn
của Thị uỷ - HĐND – UBND thị xã Đồ Sơn – Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn Hải Phòng (in năm 2003). Đây cũng là một trong những tài liệu
được biên soạn khá chi tiết và công phu về các vấn đề văn hoá, lễ hội, tín
ngưỡng, văn học… của cư dân biển Đồ Sơn. Tuy nhiên, cuốn sách vẫn mang
tính chất chí chung.


Nói chung, các tài liệu về địa chí đã cung cấp mợt sự nhận biết khá tồn
diện về quê hương Hải Phòng trên nhiều lĩnh vực từ lịch sử, địa lí, văn hoá,
tín ngưỡng, đến văn học dân gian… Đó là những cuốn sách được đánh giá là
có giá trị về mặt tư liệu. Tuy nhiên, vì là loại sách chung viết về lịch sử, con


người, văn hoá… nên tập sách chưa có điều kiện đi sâu vào những vấn đề của
văn học dân gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

tính chất sưu tầm, giới thiệu, chỉ ghi chép để bảo lưu là chính nên các tác giả
khơng có điều kiện đi sâu phân tích, đánh giá các loại hình của văn học dân
gian truyền thống.


Bên cạnh đó cũng có nhiều tạp chí văn hoá, văn học ở trung ương và
địa phương đều đề cập đến các di sản văn hoá dân gian, văn học dân gian của
cư dân biển Hải Phòng. Các tạp chí đã giới thiệu các bài viết của một số tác
giả nhưng còn khiêm tốn trên một vài lĩnh vực như khảo cổ, di tích, thắng
cảnh, quản lí văn hoá… Nhưng do khuôn khổ và tính chất của tạp chí nên ít
có bài viết thực sự mang tính chất nghiên cứu sâu.


Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu về văn hoá biển của Hải Phòng
là những tài liệu quý, có giá trị, nêu lên được những nét đặc trưng của vùng
biển Hải Phịng nói riêng và vùng biển Dun hải Bắc bợ nói chung. Các tác
giả đã đi sâu phân tích, chỉ ra được những nội dung, phương thức thể hiện,
những nét đặc sắc riêng… của từng lễ hợi, văn hóa dân gian như chọi trâu,
hát đúm, ca trù…Nhưng đó là những cơng trình nghiên cứu riêng chưa có
được cái nhìn tổng quan về văn hoá và văn học, chưa chỉ ra được những giá
trị của văn học dân gian trong bối cảnh văn hoá.


Ngồi ra, chúng tơi nhận thấy có mợt tài liệu rất có giá trị về văn hoá
của các làng ven biển Việt Nam, đó là <i><b>Văn hố dân gian làng ven biển do </b></i>
Ngô Đức Thịnh (chủ biên) – 2000. Tài liệu đã đề cập tới một số vấn đề về
folklore của cư dân ven biển và hải đảo ở một số vùng biển tiêu biểu của Việt
Nam như vùng biển Trà Cổ, làng biển Quan Lạn, vùng biển Đồ Sơn… Nhưng
đó mới chỉ là những nhận xét bước đầu nhằm định hướng cho việc nghiên cứu
lĩnh vực văn hoá biển nói chung. Tài liệu chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu


các thể loại văn học dân gian miền biển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cứu hơn. Họ tập trung chú ý đến các vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh…
Nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến văn hoá biển của khu
vực miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Bình
Thuận… Họ đã tổ chức được thành công các cuộc hợi thảo và có nhiều cơng
trình nghiên cứu có giá trị về văn hoá biển miền Trung như: <i><b>Văn hoá biển </b></i>


<i><b>miền Trung trong mối quan hệ với văn hố biển Đơng Nam Á</b></i> của GS.TS


Mai Ngọc Chừ; <i><b>Du lịch văn hoá biển miền Trung – </b><b>tiềm năng và thách </b></i>
<i><b>thức của PGS.TS Lê Hồng Lý; </b><b>Người Quảng Ngãi nhìn ra biển </b></i>của TS.
Nguyễn Đăng Vũ – Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 3-2007; Biển Đà Nẵng
<i><b>– những thách thức về văn hoá của Bùi Văn Tiếng – Tạp chí Văn hoá dân </b></i>
gian số 4-2007… Các công trình nghiên cứu đã nêu lên được những nét văn
hoá đặc sắc của cư dân các vùng biển, nêu lên được những tiềm năng và thách
thức về văn hoá trong bối cảnh hợi nhập.


Tóm lại, qua tất cả những sách, báo, các công trình nghiên cứu đề cập
ở trên, có thể nhận thấy rằng, đã có nhiều tài liệu nghiên cứu đến văn hoá dân
gian, văn học dân gian của cư dân biển Hải Phịng. Nhưng chưa có tài liệu
nào nghiên cứu nó thành một hệ thống, nghiên cứu văn học trong bối cảnh
văn hoá. Nhiệm vụ của chúng tôi là xem xét lại tồn bợ các tài liệu về văn hoá
dân gian của Hải Phòng, nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian truyền thống
trong các di sản văn hoá đó để phân tích, tổng hợp, đánh giá, khảo cứu, góp
phần bảo lưu và phát huy giá trị của các hiện tượng văn hoá dân gian trong
giai đoạn hiện nay.


<b>3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: </b>
<b>3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: </b>



Đối tượng nghiên cứu là các thể loại văn học dân gian truyền thống của
Hải Phòng, qua đó khám phá những yếu tố của văn hoá biển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Vì đề tài nghiên cứu khá rộng nên chúng tôi chỉ khảo sát, miêu tả, phân
tích một số hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu của cư dân biển Hải Phòng,
nghiên cứu văn học dân gian truyền thống trong các hiện tượng văn hoá dân
gian đó, để từ đó nêu mợt số giải pháp làm giàu và phát huy các giá trị văn hoá,
cụ thể như: lễ hội chọi trâu, lễ hội đền Nghè, hát Đúm và ca trù.


<b>4. Những đóng góp của luận văn: </b>


- Trình bày, bổ sung tư liệu về văn học dân gian có liên quan đến các
hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu của cư dân biển Hải Phòng.


- Luận văn góp tiếng nói vào cơng cuộc bảo tồn, phát huy giá trị văn
hoá dân gian của vùng biển Hải Phòng.


<b>5. Phƣơng pháp nghiên cứu: </b>


Để thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chính trong quá trình phân tích, tổng hợp, nghiên cứu.


- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: đứng trên mảnh đất của văn học
dân gian kết hợp với một số tri thức của các ngành khoa học khác như văn
hoá học, dân tợc học, lịch sử…


- Ngồi ra, luận văn còn kết hợp giữa phương pháp xử lí văn bản với
phương pháp điền dã thực địa.



<b>6. Bố cục của luận văn: </b>


Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục tham khảo, phụ lục, phần
nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>NỘI DUNG </b>



<b>CHƢƠNG 1 </b>



<b>DIỆN MẠO THÀNH PHỐ BIỂN HẢI PHÒNG </b>



<b>1.1. Vị trí địa lí: </b>


Hải Phịng là mợt thành phố ven biển , nằm phía Đông mi ền Duyên hải
Bắc bộ. Nơi đây cách thủ đô Hà Nô ̣i 102km, có tổng diện tích tự nhiên là
152.318,49 ha (số liệu thống kê năm 2001) chiếm 0,45% diê ̣n tích tự nhiên
cả nước.


Về ranh giơ<sub>́ i hành chính: </sub>
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Ninh
Phía nam giáp tỉnh Thái Bình
Phía tây giáp tỉnh Hải Dương
Phía đông giáp biển Đông


Thành phố có tọa đợ địa lí:
Từ 200


30'39' - 21001'15' Vĩ độ Bắc.
Từ 1060



23'39' - 107008'39' Kinh đợ Đơng.


Ngồi ra cịn có huyện đảo Bạch Long Vi<sub>̃ nằm giữa Vịnh Bắc </sub>
Bợ, có toạ đợ từ 200


07'35' - 20008'36' Vĩ độ Bắc và từ 107042'20' - 107044'15'
Kinh đợ Đơng.


Hải Phịng nằm ở vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và
quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển,
đường sơng và đường hàng khơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần túy
nghiêng ra biển.


Vùng biển Hải Phịng là mợt bợ phận tḥc tây bắc vịnh Bắc bộ . Các
đă ̣c điểm cấu trú c đi ̣a hình đáy biển và đă ̣c điểm hải văn biển Hải Phòng gắn
liền với những đă ̣c điểm chung của vi ̣nh Bắc bô ̣ và biển Đông.


Đợ sâu của biển Hải Phịng khơng lớn. Đường đẳng sâu 2m cha ̣y quanh
mũi Đồ Sơn rồi hạ xuống 5m ở cách bờ khá xa. Ở đáy biển nơi có các cửa sơng
đở ra, do sức xâm thực của dòng chảy nên đô ̣ sâu lớn hơn . Ra xa ngoài khơi,
đáy biển ha ̣ thấp dần theo đô ̣ sâu của vi ̣nh Bắc bô ̣ , chừng 30 - 40m. Mă ̣t đáy
biển Hải Phòng được cấu ta ̣o bằng thành phần mi ̣n , có nhiều lạch sâu vốn là
những lịng sơng cũ nay dùng làm luồng lạch ra vào hàng ngày của tàu biển.


Hải Phòng có bờ biển dài trên 125km kể cả bờ biển chung quanh các đảo
khơi. Bờ biển có hướng mô ̣t đường cong lõm của bờ vi ̣nh Bắc bô ̣, thấp và khá
bằng phẳng, cấu ta ̣o chủ yếu là cát bùn do năm cửa sông chính đổ ra. Trên đoa ̣n
chính giữa bờ biển, mũi Đồ Sơn nhô ra như một bán đảo, đây là điểm mút của


dải đồi núi chạy ra từ trong đất liền, có cấu tạo đá cát kết (sa tha ̣ch) tuổi Đevon,
đỉnh cao nhất đa ̣t 125m, đô ̣ dài nhô ra biển 5km theo hướng tây bắc – đông
nam. Ưu thế về cấu tru<sub>́ c tự nhiên này đã ta ̣o cho Đồ Sơn có mô ̣t vi ̣ trí chiến </sub>
lược quan tro ̣ng trên mă ̣t biển ; đồng thời cũng là mô ̣t thắng cảnh nổi tiếng .
Dưới chân những đồi đá cát kết có bãi tắm, có nơi nghỉ mát nên thơ và khu an
dưỡng có giá tri ̣. Ngồi khơi tḥc địa phận Hải Phịng có nhiều đảo rải rác trên
khắp mă ̣t biển, lớn nhất có đảo Cát Bà, xa nhất là đảo Ba ̣ch Long Vĩ.


Biển, bờ biển và hải đảo đã ta ̣o nên cảnh quan thiên nhiên đă ̣c sắc của
thành phố Duyên H ải. Đây cũng là mô ̣t thế ma ̣nh tiềm năng của nền kinh t ế
đi ̣a phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Hải Phịng là mơ ̣t vùng đất nhanh nhạy, đi đầu trong nhiều viê ̣c và giàu
truyền thống đấu tranh . Kể từ những ngày nữ tướng Lê Chân chiêu mô ̣ dân
lành lập làng Vẻn . Bà là người đã khai phá đầu tiên mô ̣t vùng nơi đầu sóng
ngọn gió. Tiếp theo đó, phải kể đến những chiến công của Bạch Đằng lịch sử
lừng lẫy non sông . Hai lần đế quốc Pháp xâm lược nhưng Hải Phòng vẫn đi
đầu cả nước từ chống pháo th uyền trên đất bắc đến mở đầu tác chiến trong
thành phố. Trong kìm ke ̣p của hâ ̣u đi ̣ch sâu , cả nội ngoại thành đã vùng lên
giành chiến thắng để cuối cùng có “Biển lửa Cát Bi” phối hợp tuyệt đẹp với
toàn quốc làm nên chiến thắng Điê ̣n Biên Phủ chấn đô ̣ng đi ̣a cầu.


Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước , Hải Phòng đã đánh trả
quyết liê ̣t và lâ ̣p bến mở “Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Cùng với thủ đô Hà
Nô ̣i và mơ ̣t sớ các tỉnh khác, Hải Phịng vừa phịng ngự vừa tiến công đập tan
chiến di ̣ch tâ ̣p kích đường không lâ ̣p nên chiến thắng Điê ̣n Biên Phủ trên
không. Bên ca ̣nh đó, các cuộc đấu tranh xã hội khác cũng khá nhiều . Đặc biệt
là cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân chống la ̣i triều đình phong kiến như cuô ̣c
khởi nghĩa của Quâ ̣n He Nguyễn Hữu Cầu (1740 - 1750) lâ ̣p căn cứ Đồ Sơn
quyết chiến cùng quan qn . Có lúc, c ̣c khởi nghĩa mở rô ̣ng ra cả miền


Đông, làm rung động kinh thành Thăng Long thời vua Lê, chúa Trịnh.


Như vâ ̣y, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc,
người Hải Phịng đã góp phần xứng đáng, có mặt trên tuyến đầu của tất cả các
thời điểm nóng bỏng của li ̣ch sử . Nhiều đình chùa, đền miếu thờ các tiên
công, các danh tướng, danh thần…ở khắp nơi trong thành phố.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tô ̣c của thời kì câ ̣n hiê ̣n đa ̣i, giai
cấp công nhân Hải Phòng được hình thành sớm , Đảng bô ̣ cô ̣ng sản thành lâ ̣p
năm 1929. Nhiều cuô ̣c đấu tranh quyết liê ̣t nổ ra liên tiếp chống chế đô ̣ thực
dân phát triển ma ̣nh cả về số lượng và chất lượng. Qua những phong trào này,
rất nhiều cán bô ̣ của trung ương và đi ̣a phương đã được đào ta ̣o , rèn luyện có
xuất thân từ lao đơ ̣ng và cơng nhân.


Hịa bình lâ ̣p la ̣i, đă ̣c biê ̣t là sau ngày 13-5-1955, Hải Phịng đã nhanh
chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội , phát triển kinh tế . Làm kinh tế bước đầu ,
“Sóng Duyên Hải” dâng cao trên trâ ̣n đi ̣a công nghiê ̣p , tổ đá nhỏ ca A - nhà
máy xi măng xây dựng tổ lao động xã hội chủ ng hĩa. Đầu những năm 80, khi
quản lí nơng nghiệp cịn nhiều lúng túng , nông nghiê ̣p Hải Phòng la ̣i là mô ̣t
nơi đi đầu trong viê ̣c tháo gỡ khó khăn . Do vâ ̣y, nông nghiê ̣p Hải Phòng đã
tiến lên mô ̣t bước mới đáng kể.


Như vâ ̣y , Hải Phò ng là mô ̣t thành phố nhanh nha ̣y với cái mới , giàu
truyền thống đấu tranh, “Trung dũng, quyết thắng”.


Vị trí địa lí của vùng đất đã tạo cho Hải Phịng trở thành mợt đầu mối
giao thông quan tro ̣ng , mô ̣t trung tâm công nghiê ̣p , thương ma ̣i và là mợt
Cảng biển có tiếng tăm ở Viễn Đơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Nói đến con người, người ta thấy con người nằm trong ba tiềm năng về


đất đai, ngành nghề và lao động. Lao đô ̣ng ở Hải Phòng là lao đợng có trí tuệ,
có khoa ho ̣c, có kĩ thuâ ̣t và rất quý giá. Lực lượng lao đô ̣ng xa xưa ở đất này
phổ biến là trồng tro ̣t , chăn nuôi và săn bắt . Sau hàng trăm nă m rèn luyê ̣n
trong nền kinh tế khá tổng hợp, nhiều mă ̣t chuyên dùng, ba da ̣ng lao đô ̣ng trên
vẫn là những lực lượng chủ ́u của thành phớ Cảng.


Hải Phịng có 80 vạn dân sống ở nông thôn . Đây là lực lượng lao động
khá hùng hậu . Cùng với khoa học kĩ thuâ ̣t trong nông nghiê ̣p , con người bớt
lam lũ hơn, đấu tranh với thiên nhiên miền biển có hiê ̣u quả hơn , đóng góp
nhiều mă ̣t cho xã hô ̣i...


Bên ca ̣nh đó lao đô ̣ng trí óc, đa ̣i học, trên đa ̣i ho ̣c có trên mô ̣t vạn người
so với số lượng cũ thời Pháp thuô ̣c. Lực lượng lao đô ̣ng thủ công nghiê ̣p được
phát triển nhảy vọt làm đủ các mặt hàng cơ khí tiêu dùng , xuất khẩu phu ̣c vu ̣
nông nghiê ̣p. Sức ma ̣nh tổng hợp của lực lượng lao đô ̣ng t hể hiê ̣n rõ đã dùng
trí tuệ , tài năng , kĩ thuâ ̣t, truyền thống tay nghề giải quyết được nhiều khó
khăn. Vâ ̣y mà có lúc tưởng chừng khơng thể khắc phục nổi trong cải tạo , xây
dựng, chống thiên tai , đối phó với chiến tranh , khôi phu ̣c kinh tế sau chiến
tranh, trong tiếp thu kĩ thuật mới của thời đa ̣i.


Khi nói đến con người Hải Phòng , trước hết phải nói tới đức tính d ũng
cảm, có dũng mà lại thơng minh , đa mưu sáng ta ̣o . Người Hải Phòng chống
hàng loạt kẻ thù đầu sỏ, chống thiên tai, bão lũ, chớng cướp biển, tàu ơ… góp
phần xây dựng và bảo vê ̣ đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

đấu… Lí tưởng lòng tin và nhân sinh quan cách ma ̣ng; trí tuệ và năng lực, tấm
lòng và trách nhiệm là những vấn đề thời sự gắn bó hữu cơ đang thử thách
quyết liê ̣t người Hải Phòng trong lúc đổi mới tư duy, đổi mới phong cách, lấy
dân làm gốc, xây dựng con người mới”[11, tr 20].



Đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế, xã hội chuyển đô ̣ng, với bản lĩnh
vốn có, con người Hải Phòng sẽ bắt nhanh tốc đô ̣, theo ki ̣p tình hình, phát huy
thế ma ̣nh , hạn chế dần những yếu kém . Chắc chắn họ sẽ làm nên những kì
tích trong việc xây dựng thành phố xã hội chủ nghĩa để xứng đáng với lịch sử
và vị thế của nó.


<b>1.3. Đặc trƣng văn hóa biển Ha<sub>̉ i Phòng: </sub></b>
<b>1.3.1. Nhƣ<sub>̃ng vấn đề về văn hóa biển: </sub></b>


Theo quan niê ̣m truyền thống, Viê ̣t Nam được phân thành “Tam sơn , tứ
hải, nhất phần điền” . Nghĩa là có ba phần núi , bớn phần biển và mô ̣t phần
ruô ̣ng. Nước ta la ̣i giàu tài nguyên thiên nhiên, có “Rừng vàng, biển ba ̣c”. “Và
cũng là một trong các quốc gia có bờ biển dài , nới từ Móng Cái (phía bắc) tới
Hà Tiên (phía nam), bao bo ̣c ba mă ̣t phía đông , nam và mô ̣t phần phía tây đất
nước, dài khoản g trên 3000 km. Theo Công ươ<sub>́ c quốc tế về Luâ ̣t biển </sub>
(1992,1994), thì Việt Nam có chủ quyền trên mợt diện tích khoảng


1.000.000km2”. [32, tr 9]. Như vâ ̣y , nếu xét cả về diê ̣n tích và nguồn tài
nguyên… thì biển giữ vai trò quan tro ̣ng trong sự nghiê ̣p xây dựng và bảo vê ̣
đất nước cũng như trong sự nghiê ̣p công nghiê ̣p hoá, hiê ̣n đa ̣i hoá đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Các nhà nghiên cứu , các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện các di
chỉ khảo cổ học nằm dọc bờ biển và hải đảo . Đó là các văn h oá khảo cổ như:
Hạ Long (Quảng Ninh ), Hoa Lô ̣c (Thanh Hóa), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi ),
Tràng Kênh (Hải Phịng)… Mỡi mơ ̣t di chỉ khảo cổ như vâ ̣y mang những nét
đă ̣c sắc của vùng biển Viê ̣t Nam. Và ở đây cũng minh chứng cho sự hiện diện
của cư dân biển và hải đảo . Đặc biệt là di chỉ khảo cổ Tràng Kênh (Hải
Phòng). Đây là mô ̣t trong các di chỉ hiếm hoi thuô ̣c thời đa ̣i đồng thau sơ kì ở
ven biển đông bắc nước ta . Người Tràng Kênh điển hình cho giao lưu giữa
văn hoá biển và nô ̣i đi ̣a . Họ vừa làm nông nghiệp v ừa đánh bắt cá biển và đi


lại trên biển.


Trong quá trình phát triển của mình , người Viê ̣t đã “Lấn biển” do vâ ̣y
cái “Chất biển” trong văn h oá của họ ngày càng tăng. Với truyền thống li ̣ch
sử và thực tế khai thác biển hiê ̣ n nay của người Viê ̣t , các nhà nghiên cứu đã
chia người Viê ̣t ở do ̣c duyên hải từ Móng Cái đến Hà Tiên thành hai bô ̣ phâ ̣n.


Bô ̣ phâ ̣n thứ nhất là người Viê ̣t từ Móng Cái đến Nghê ̣ Tĩnh . Yếu tố
biển trong văn h oá truyền thống của họ chưa thật đậm nét . Viê ̣c khai thác tài
nguyên biển chưa mạnh. Người ta thấy có sự kết hợp giữa nông nghiê ̣p và
ngư nghiê ̣p trong từng cô ̣ng đồng dân cư . Tất cả những đă ̣c điểm trên có thể
là do vùng biển vịnh Bắc bộ là biển nông , biển nô ̣i đi ̣a do vâ ̣y cá không có
nhiều. Hoă ̣c nguồn gốc của cư dân ven biển ở đây chủ yếu là dân nông
nghiê ̣p… Chính điều này đã ta ̣o nên sự khác biê ̣t đối với cư dân ven biển của
người Viê ̣t từ Nghê ̣ Tĩnh trở vào nam. Đây chính là bô ̣ phâ ̣n thứ hai .


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

thống khai thác biển của người Chăm và v ùng biển nơi đây gần như là vùng
đô ̣c chiếm của người Viê ̣t.


Như vâ ̣y, cư dân đồng bằng Bắc bô ̣ và Nam bô ̣ là cư dân nông nghiê ̣p
kết hợp với khai thác ng̀n thủy sản . Cịn cư dân Dun Hải miền Trung lại
khai thác ma ̣nh nguồn lợ i thủy sản trên biển . Có thể nhận thấy rằng , những
điều kiê ̣n về đi ̣a lí , đă ̣c điểm kinh tế biển khác nhau đã ta ̣o nên những yếu tố
văn hoá biển khác nhau của hai bô ̣ phâ ̣n kể trên.


Do truyền thống dân cư và đi ̣nh hướng khai th ác đa dạng nên Việt Nam
xưa kia cũng như ngày nay không có mô ̣t nền văn h oá biển điển hình. Mà ở
đây chỉ là “Những yếu tố văn h oá biển đan xen với văn h oá nông nghiê ̣p ta ̣o
nên mô ̣t sắc diê ̣n văn hoá đă ̣c thù của cư dân ven biển”. [32, tr 69]. Tất cả góp
phần làm phong phú và đa da ̣ng hơn văn hoá Viê ̣t Nam.



<b>1.3.2. Văn hoá biển Ha<sub>̉ i Phòng tƣ̀ truyền thống đến hiê ̣n đa ̣i: </sub></b>


Vùng biển Hải Phịng là mợt bợ phận tḥc tây bắc vịnh Bắc bộ . Các
đă ̣c điểm cấu tr úc địa hình đáy biển và đặc điểm hải văn biển Hải Phòng gắn
liền với những đă ̣c điểm chung của vi ̣nh Bắc bô ̣ và biển Đông . Chính vì vậy,
văn hoá biển Hải Phòng cũng mang những nét văn h oá của người Việt từ
Móng Cái đến Nghê ̣ Tĩnh.


Hải Phịng là vùng đất có bề dày lịch sử với những sự kiện, những nhân
vật, những thời kì phát triển rất sinh động và độc đáo. Đây là vùng đất mà
trong suốt tiến trình lịch sử của mình vừa mang những nét cổ xưa vừa trẻ
trung sôi động. Là một vùng đất cửa sông, ven biển, Hải Phịng có sự giao
thoa rất đậm nét giữa văn hoá nông nghiệp với các yếu tố văn hoá biển. Hải
Phịng là mợt “Đầu mối giao thông”, là một “Cửa chính ra biển” của quốc gia
trên địa bàn Bắc bộ nên rất giàu có về văn hoá.


Đảo Cát Bà là mợt hịn đảo lớn và đẹp nhất trong quần thể Hạ Long.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

động sáng tạo của người Việt cổ xưa. Đó là nền văn hoá Hạ Long mang đậm
nét biển khơi.


Thuỷ Nguyên, vùng đất cổ xưa, nay vẫn còn lưu giữ nhiều di tích văn
hoá độc đáo. Di chỉ Tràng Kênh - một công xưởng chế tác đồ đá có quy mơ
lớn và đạt trình độ kĩ thuật tinh xảo bậc nhất của người xưa. Mộ cổ Việt Khê
với những đồ đồng đẹp và tinh xảo. Đặc biệt là tiếng hát Đúm ở Thủy Nguyên
đã cuốn hút nam thanh nữ tú khắp nơi đua nhau về đây trẩy hô ̣i . Tiếp đến là
tiếng hát ca trù Đông Môn nổi tiếng thu hút nghê ̣ nhân các tỉnh về lễ tiên sư ,
tiên thánh. Vì có thể nơi đây có truyền thống lâu đời và là mô ̣t nơi gốc nghề
của miền Bắc.



Vĩnh Bảo, một vùng đất vẫn cịn bảo lưu nhiều nét của nơng thơn cổ
xưa với những di sản văn hoá đầy ấn tượng như: Đền thờ Nguyễn Bỉnh
Khiêm – danh nhân văn hoá của đất nước; làng nghề tạc tượng Bảo Hà đậm
nét bản sắc dân gian; một Cổ Am đất học khoa bảng mà nay vẫn tiếp tục được
như xưa…


Ngoài ra phải kể tới Đồ Sơn - một khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng, mang
nhiều nét văn hoá biển độc đáo của Hải Phịng. Đây là nơi có nhiều di tích,
nhiều truyền thuyết tín ngưỡng đậm màu sắc địa phương. Và chọi trâu là một
lễ hội đặc sắc của cư dân biển Hải Phịng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

đó, kết cấu nghề nghiệp của cư dân trong làng cũng rất đa dạng, họ vừa đánh
bắt cá vừa làm nông nghiệp, nghề muối, bn bán…Tuy hình thức bề ngồi
làng ngư dân có mợt chút khác biệt so với các làng của nông dân, nhưng cách
thức phân chia thành xóm, phe giáp, phường, các công trình kiến trúc công
cộng cũng giống như ở một làng nông nghiệp có đình, đền… Cư dân la<sub>̀m </sub>
nghề biển Đồ Sơn tâ ̣p trung sinh sống ở bát va ̣n chài : Vạn Lê, Vạn Bún, Vạn
Ngang, Vạn Tác, Vạn Hoa, Vạn Hương, Vạn Thủ. Tám vạn chài đó nay được
chia thành các phường: Ngọc Hải, Vạn Hương.


Ngoài ra, chúng ta còn thấy trong các làng của ngư dân vẫn sử dụng
Hương ước như một loại luật tục của làng xã.


Về tín ngưỡng, tôn giáo: Đối với ngư dân, tín ngưỡng tôn giáo chiếm vị
trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần. Có lẽ bởi điều kiện sống và lao
động của họ trong môi trường biển cả vừa giàu có, ưu ái con người vừa thách
thức, đe doạ tới tính mạng của họ. Do vậy, họ luôn có niềm tin vào lực lượng
siêu nhiên trước biển cả bao la, hùng vĩ.



Người dân biển Hải Phòng cũng giống như người Việt đồng bằng Bắc
bợ, có tín ngưỡng dân gian như họ thờ cúng ông bà, tổ tiên. Họ lập bàn thờ
nơi trang trọng nhất trong nhà và tiến hành cúng lễ vào dịp giỗ và các ngày lễ
trong năm. Ngồi ra, họ cịn thờ Thần thánh và Thành hoàng làng, thờ Thuỷ
thần… Như ở Đền Nghè - Đồ Sơn thờ Thần biển là Thần Điểm Tước đồng
thời cũng là vị Thành Hoàng chung cu<sub>̉ a cư dân cả vùng Đồ Sơn. Và Đồ Sơn </sub>
còn nhiều địa điểm thờ cúng như Đình Ngọc, đền Vừng, đền Dáu…


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

nghiên cứu cho rằng Phâ ̣t giáo du nhâ ̣p vào Viê ̣t Nam từ Ấn Đô ̣ bằng đường
biển qua Đồ Sơn. Chùa Hang Đồ Sơn tương truyền là nơi nhà sư ở Thiên Trúc
đến trụ trì từ thế kỉ III (trước công nguyên). Hải Phòng còn lưu lại nhiều chùa
được xếp ha ̣ng di tích li ̣ch sử như chùa Dư Hàng , chùa Đông Khê, chùa Vẽ…
Những năm gần đây, hê ̣ thống chùa chiền, tượng tháp ở Hải Phòng từng bước
được chú tro ̣ng xây dựng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

bước xuống thuyền của ho ̣ . Thâ ̣m chí, những người đi dự đám tang về , phải
tắm rửa, thay quần áo sa ̣ch sẽ mới được xuống thuyền…Tất cả đều thể hiê ̣n
phong tu ̣c tâ ̣p quán của cư dân vùng biển Hải Phòng.


Những tri thức dân gian của ngư dân về thời tiết , về biển rất phong phú
và sinh đợng. Họ có thể xem thời tiết dựa vào các hiện tượng tự nhiên. Để biết
trước được những cơn bão sắp tới , người ta thường nhìn vào các hiê ̣n tượng
của mặt trời: nếu mă ̣t trời khi lă ̣n có tua hình dẻ qua ̣t , hoă ̣c gió nam thổi, mă ̣t
trời có mống ở đằng đông , hay ráng ở đằng tây đỏ rực , vê ̣t xanh cha ̣y ngang
qua mă ̣t trời đỏ (then cài) thì có nghĩa biển sắp có đợng. Họ cũng nhìn biển để
có thể đoán định được thời tiết . Chẳng ha ̣n : để biết trời có dơng mưa hay
không, người ta thường xem bo ̣t nước biển . Nếu bo ̣t biển màu trắng thì khí
hâ ̣u bình thường. Cịn nếu bọt biển có màu xám, nước biển sủi bọt, kiến bò ra
thì có nghĩa trời sẽ nổi dông , dông mưa sắp kéo đến . Ngồi ra, nếu thấy nước
biển đang trong xanh bỡng thấy đu ̣c ở dưới chân là sắp có bão , sóng biển


c ̣n hơn bình thường , nước vẩn đu ̣c, kéo lên thấy có n hiều bùn đất lẫn rong
rêu thì cũng báo trước ngày biển đợng…


Nói chung, vùng biển của Hải Phịng hiếm thấy có các bài hị vè đi biển
như mô ̣t số vùng biển ở miền Trung mà ở đây chỉ có sự phong phú của truyê ̣n
kể dân gian, đời sống tâm linh với các hình thức tín ngưỡng đa da ̣ng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

sau này thêm cải lương Nam bô ̣, leo cầu phao… Hô ̣i Tây thì có rước thánh, có
kèn đờng, xiếc…, sân khấu Tây có các loa ̣i cổ điển , câm bi, hài kịch… Tất cả
những cái đó đều thể hiê ̣n văn hoá phong phú, đa da ̣ng của Hải Phịng..


Hải Phịng có số lượng người Hoa du nhập vào đây rất nhiều. Vì vậy họ
cũng mang theo những nét vă n hoá của mình. Nơi đây có hơ ̣i quán Hoa Kiều ,
có trường dạy chữ Hán Kiều Tiểu, Kiều Trung, có câu lạc bợ thương mại, kiến
trúc lợp ngói máng.


Đến thời câ ̣n hiê ̣n đa ̣i , Hải Phịng có sự ti ếp xúc giữa nền văn hoá
truyền thống và trào lưu văn hoá phương Tây. Văn hoá phương Tây phát triển
mạnh ở nội thành và ngày càng mở rộng giao tiếp . Đầu tiên là tín ngưỡng tôn
giáo như đạo Gia Tô , đa ̣o Tin lành , đa ̣o Hồi… du nhâ ̣p vào Hải Phòng phát
triển ma ̣nh mẽ. Nhiều câu la ̣c bô ̣ Hô ̣i âm nha ̣c , câu la ̣c bô ̣ thể thao như bóng
đá, bóng bàn, q̀n vợt, bơi lơ ̣i… thu hút được giới t rẻ tập luyện phù hợp với
tốc đô ̣ của xã hô ̣i công nghiê ̣p . Các phong trào này từng có tiếng vang và
giành được nhiều giải thưởng lớn trong nước và quốc tế.


Hàng loạt kĩ thuật hiện đại ra đời từ sản xuất công nghiệp , khai thác,
dịch vụ đến nay đã thành truyền thống . Do ảnh hưởng của văn h oá phương
Tây nên kiến trúc đô thi ̣ mang ánh sáng nhâ ̣p chủ yếu từ nước Pháp . Nghệ
thuâ ̣t xây dựng công viên , trồng tỉa cỏ hoa được phổ biến khắp nơi . Đặc biê ̣t
là cây hoa phượng đã trở thành một biểu trưng của thành phố cảng mà âm


hưởng của nó còn vang mãi trong bài ca “Thành phố Hoa phượng đỏ”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Với phương châm phát huy truyền thống , xây dựng nền văn h oá xã hội
chủ nghĩa, phong trào văn h oá văn nghê ̣ trong quần chúng phát triển ma ̣nh .
Từ gốc với chi hô ̣i văn nghê ̣, chi hô ̣i đi ̣a phương và là cơ sở của Hô ̣i liên hiê ̣p
văn ho ̣c nghê ̣ th ̣t thành phớ có tiếng nói là tạp chí “Cửa biển” . Mơ ̣t số tác
giả là công nhân , lao đô ̣ng. Họ đã có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có
giá trị, ngày càng đổi mới tư duy, khám phá cuộc sống của giai cấp công nhân
và con người đất cảng.


Ngoài ra nếp sống văn minh lịch sự được phát động đã đem đến những
tiến bô ̣ đáng mừng trong gia đình và xã hô ̣i.


Con người đất cảng rất thân thiê ̣n , mến khách và là những người “Ăn
sóng nói gió”. Họ cũng biết “Ăn chơi” . Cách ăn mặc của người dân nơi đây
vẫn giữ bản sắc riêng, dù có lúc hịa đồng nhưng khi giao tiếp thì phân biệt rõ
tầng lớp, đi ̣a phương, dân tô ̣c. Mă ̣c thì phải đúng mốt và “sành điê ̣u”. Cịn các
món ăn thì mang những nét đă ̣c thù, đă ̣c sắc của miền biển với đa da ̣ng hải
sản. Đặc biệt là món bánh đa cua của Hải Phịng rất thơm ngon và có hương
vị riêng. Ở Hải Phịng, ngồi các món ăn hải sản cịn có thêm các món ăn Tàu
với đủ sơn hào hải vi ̣. Ăn Tây thì không nhiều món nhưng rượu quý , khách
sạn bàn ghế lại rất sang trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>Tiểu kết </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>



1. Nguyễn Chí Bề n (2006), <i>Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt</i>
<i>Nam</i>, NXB Khoa học xã hô ̣i, HN.



2. Nhiều tác giả (2003), <i>Đi ̣a chí thi ̣ xã Đồ Sơn</i>, NXB Ha<sub>̉i Phòng. </sub>


3. Lê Quý Đức (1996), <i>Thực trạng lễ hội dân gian cổ truyền ở nước ta </i>
<i>hiê ̣nnay</i>, Tạp chí Văn hóa dân gian, số1.


4. Nhiều tác giả (2000), <i>Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm , nghiên </i>
<i>cứuvăn hoá, văn nghê ̣ dân gian</i>, NXB Văn hoá dân tô ̣c, HN.


<i>5.</i> Đỗ Hạ – Quang Vinh (Biên soa ̣n, 2006), <i>Các lễ hội truyền thống Việt </i>
<i>Nam</i>, NXB Thanh Hoá.


6. Lê Như Hoa (Chủ biên, 2001), <i>Tín ngưỡng dân gian Việt Nam</i> , NXB
Văn hoá thông tin, HN.


7. Trịnh Minh Hiên (Chủ biên) – Trần Phương – Nhuâ ̣n Hà (1993), <i>Hải </i>
<i>Phòng di tích lịch sử - văn hoá</i>, NXB Ha<sub>̉i Phòng. </sub>


8. Trịnh Minh Hiên (Chủ biên, 2006), <i>Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải</i>
<i>Phòng</i>, NXB Ha<sub>̉i Phòng. </sub>


9. Nguyễn Đỗ Hiê ̣p (2008), <i>Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – Hải Phòng thời </i>
<i>hiê ̣nđại</i>, Tạp chí Văn hóa dân gian số 2.


10. Hợi liên hiê ̣p văn ho ̣c nghê ̣ thuâ ̣t Hải Phòng (2001), <i>Văn hóa văn nghê ̣</i>
<i>dân gian Hải Phòng</i>, NXB Ha<sub>̉i Phòng. </sub>


11. Hội đồng li ̣ch sử thành phố Hải Phòng (1990), <i>Đi ̣a chí Hải Phòng</i> (tập
1).


12. Đinh Gia Kha<sub>́nh (1993), </sub><i>Hội lễ dân gian truyền thống trong thời hiê ̣n</i>


<i>đại</i>, Tạp chí Văn hóa dân gian, sớ 2.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

14. Đinh Gia Kha<sub>́nh (Chủ biên ) – Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn </sub>
(2006), <i>Văn học dân gian Viê ̣t Nam</i>, NXB Giáo du ̣c.


15.<i>Đinh Gia Khánh toàn tập</i> (Tập 3, 2007), NXB Giáo du ̣c.


16. Đi<sub>̀nh Kính – Lưu Văn Khuê (1997), </sub><i>Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch</i> ,
NXB Hải Phòng.


17. Nguyễn Xuân Ki<sub>́nh (2006), </sub><i>Thi pháp ca dao</i>, NXB Đại ho ̣c Quốc gia
Hà Nội.


18. Lê Hồng Ly<sub>́ (1987), </sub><i>Người anh hùng Lê Chân và hội đền Nghè</i> , Tạp
chí Văn hóa dân gian, sớ 4.


19.<i>Lịch sử Việt Nam</i>, tập I, 1971, NXB Khoa ho ̣c xã hô ̣i, HN.


20. Thu Linh – Đặng Văn Lung (1984), <i>Lễ hội truyền thống và hiê ̣n đại</i> ,
NXB Văn hóa Hà Nô ̣i.


<i>21.</i> Nguyễn Đức Lữ (Chủ biên, 2007), <i>Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân </i>
<i>gian ở Viê ̣t Nam</i>, NXB Tơn gia<sub>́o, HN</sub><i>. </i>


22. Hồng Nam (2005), <i>Một số giải pháp quản lí lễ hội dân gian</i> , NXB
Văn hóa dân tô ̣c, HN.


23. Đinh Phu<sub>́ Ngà (2003), </sub><i>Tản mạn lễ hội chọi trâu Đồ Sơn</i>, NXB Văn hoa<sub>́ </sub>
thông tin, HN.



24. Đinh Phu<sub>́ Ngà (2003), </sub><i>Đồ Sơn lịch sử và lễ hội chọi trâu</i> , NXB Văn
hóa thơng tin, HN.


25.Ngơ Linh Ngo ̣c – Ngô Văn Phú (Biên soa ̣n – giới thiê ̣u,1987), Tuyển
tâ ̣p thơ ca trù, NXB Văn ho ̣c, HN.


26. Nhiều ta<sub>́c giả (2000), </sub><i>Nhân vật li ̣ch sử Hải Phòng (tập I)</i>, NXB Ha<sub>̉i </sub>
Phòng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

28. Nhiều ta<sub>́c giả (1997), </sub><i>Văn hoá truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ (kỷ </i>
<i>yếu hội thảo khoa học)</i>, NXB Khoa học xã hô ̣i, HN.


29. Nhiều tác giả (2004), <i>Văn hoá dân gian một chặng đường nghiên cứu</i>,
NXB Khoa học xã hội.


30. Lê Chi<sub>́ Quế (Chủ biên) – Võ Quang Nhơn – Nguyễn Hùng Vĩ ( 1990), </sub>
<i>Văn học dân gian Viê ̣t Nam</i>, NXBVH, HN.


31. Lê Chi<sub>́ Quế , 1999, </sub><i>Lễ hội chọi trâu – nhìn từ góc độ văn h oá và du </i>
<i>lịch</i>, Tạp chí Văn hoá nghệ thuâ ̣t, số 11.


32. Lê Chi<sub>́ Quế (2001), </sub><i>Văn hoá dân gian khảo sát và nghi ên cứu</i>, NXB
Đa ̣i ho ̣c quốc gia Hà Nô ̣i.


33. Ngô Đứ c Thi ̣nh (1999), <i>Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền , </i>Tạp chí
Văn hoá nghê ̣ thuâ ̣t, số 11.


34. Ngô Đư<sub>́ c Thi ̣nh (Chủ biên , 2000), </sub><i>Văn hóa dân gian làng ven biển , </i>
NXB Văn hóa dân tô ̣c, HN.



35. Đinh Tiếp (1987), <i>Hát Đúm Hải Phòng</i>, NXB Ha<sub>̉i Phòng. </sub>


36. Giang Thu – Vũ Thiệu Loan (1999), <i>Tìm hiểu ca trù Hải Phòng</i>, NXB
Hải Phòng.


37. Giang Thu – Trần Sa<sub>̉n – Phạm Thị Huyền (2003), </sub><i>Tìm hiểu hội mở mặt </i>
<i>Thủy Nguyên hội hát Đúm Hải Phòng</i>, NXB Văn ho<sub>́a HN. </sub>


38. Trịnh Cao Tưởng (1978), <i>Non nước Đồ Sơn</i>, NXB Văn hóa HN.


39. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Hải Phịng (2001), <i>Mợt sớ di </i>
<i>sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng (tập I)</i>, NXB Ha<sub>̉i Phòng. </sub>


40.Trung tâm Khoa ho ̣c xã hợi và nhân văn Hải Pịng (2002), <i>Mợt sớ di </i>
<i>sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng (tập II)</i>, NXB Ha<sub>̉i Phòng. </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

42. Trần Quốc Vượng (2000), <i>Văn hóa Viê ̣t Nam – tìm tòi và suy ngẫm</i> ,
NXB Văn hoá dân tộc và tạp chí Văn hoá nghê ̣ thuâ ̣t, HN.


43. Giang Hà Vũ – Viết Linh (1998), <i>Nữ tướng Lê Chân : truyê ̣n lich sử</i>,
NXB Văn ho<sub>́a, HN. </sub>


44. Nguyễn Khắc Xương (1978), <i>Nữ tướng thời Trưng Vương</i> , NXB Phụ
nữ, HN.


45. Viện khoa ho ̣c xã hô ̣i Viê ̣t Nam – viê ̣n sử ho ̣c – quốc sử quán triều
Nguyễn, <i>Đại Nam nhất thống chí</i> (tập III , 1992), NXB Thuâ ̣n Hoá ,
Huế.





</div>

<!--links-->

×