Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Nguyễn Ái Quốc với nho giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.67 KB, 6 trang )

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Nho
giáo
Nguyễn Đình Chú
Có một điều hơi khơng bình thường là: Nho giáo đã từng bén duyên
với Nguyễn Ái Quốc từ thời niên thiếu và theo mãi Hồ Chí Minh cho tới
trọn đời và khoa Hồ Chí Minh học hình thành và phát triển cũng đã trên
dưới 30 năm, nhưng việc nhìn nhận ảnh hưởng của Nho giáo đối với Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh thì hầu như chỉ mới chính thức được đặt ra cách
đây ba năm (1993), trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Có lẽ
cái danh hiệu “danh nhân văn hoá” mà thế giới trao tặng cho Bác vào dịp kỷ
niệm trăm năm ngày sinh này, cộng thêm là khơng khí đổi mới từ sau Đại
Hội VI của Động sản Việt Nam đã đưa chúng ta vượt qua cái khơng bình
thường đó.
Vượt qua cái khơng bình thường này, chúng ta đã nhìn thấy ở Bác quả
là có ảnh hưởng của Nho giáo, mà các luận cứ là: hồn cảnh gia đình: Bác là
con một vị đại Nho: cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Bác sinh ra và lớn lên tại
mơt vùng văn hố mà dù đã có cảnh Hán học suy tàn, “cơ hàng bán sách lim
dim ngủ, Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi” (Tú Xương), trước sự tấn
cơng của văn hố phương Tây trong tình trạng “Á - Âu xáo lộn”, trong tình
trạng “mưa Âu gió Mĩ” xem ra đang một ngày một dồn dập, nhưng với riêng
vùng đất văn hoá này (tức vùng Nghệ - Tĩnh) thì ảnh hưởng của Nho giáo
vẫn đang được cố thủ, chưa hẳn đã lép vế so với Tây học. Bác còn lớn lên ở
cái xứ Huế, kinh đô của triều Nguyễn, dù Tây học đã tràn đến trong chiều
thắng thế dần, nhưng Nho học đâu đã chịu quy hàng hồn tồn. Chế độ Nam
triều cịn đó với hệ thống quan lại hầu hết xuất thân khoa bảng, dù có rệu rã
đến đâu, vẫn ít nhiều đóng vai trò căn cứ địa của Nho giáo, khác với Hà Nội,
càng khác với Sài Gòn. Cần nhớ rằng, Bác sinh năm 1890 mà tới năm 1915
ở Bắc Kỳ , năm 1918 ở Trung Kỳ, mới chấm dứt việc thi cử chữ Hán vốn là
dựa trên Nho học. Những điều kiện khách quan trên đây cho phép nói đến
ảnh hưởng Nho giáo đối với Bác như là một điều tất yếu đầu tiên.
Chúng ta lại cịn thấy: chính lúc thiếu niên Bác đã học chữ Hán trong


đó có Nho giáo. Bác học Nho qua những sách gì, đến trình độ nào, thật ra
ngày nay chúng ta suy đoán nhiều hơn là biết thật cụ thể. Điều có thể biết
thật cụ thể về trình độ Hán học của Bác là việc Bác làm thơ chữ Hán,


mà Nhật ký trong tù là đỉnh cao nhất. Nhưng đây là chuyện Hán học nói
chung chứ chưa hẳn là Nho giáo. Trong Nhật ký trong tù, ảnh hưởng của
Nho giáo khơng phải khơng có nhưng là gián tiếp vì dù sao đây là tiếng nói
của thơ chứ khơng là văn chính luận, rút cục lại, cái gọi là ảnh hưởng của
Nho giáo đối với Bác mà ai cũng đã thấy chính là thể hiện rõ nhất trong
nhiều bài viết của mình tính từ năm 1921 đến sau này mà có người đã tính
được là hơn 100 trường hợp, trong đó lời Khổng Mạnh chiếm nhiều nhất.
Xét ở mặt hình thức, cái gọi là ảnh hưởng của Nho giáo đối với Bác có
lẽ chỉ là như thế. Điều quan trọng là phân tích, đánh giá ảnh hưởng đó như
thế nào? Xin được dẫn ra đây một số kết luận tiêu biểu:
1. “Như vậy là thái độ của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với
Khổng Khâu và Nho giáo có sự phát triển qua các chặng thời gian nhưng rõ
ràng nhất quán một quan điểm lịch sử đúng đắn, khẳng định đúng mức với
lịng tơn kính những giá trị chân chính mà người xưa đã đạt được. Đương
nhiên là trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh đã triệt để phê phán bác bỏ ý thức Nho giáo phong kiến phản tiến hoá”
(Phan Văn Các: Hồ Chí Minh với Nho giáo, in trong sách “Hồ Chí Minh,
anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hố”, NXB KHXH HN 1990).
2. “Gần đây có cường điệu quá đáng dấu ấn Khổng giáo trên chân
dung văn hố tư tưởng Hồ Chí Minh. Có bạn tỏ ý coi như Hồ Chủ Tịch dùng
“cỗ xe Nho giáo” để mà tải Chủ nghĩa Mác về Việt Nam. Có bạn trình bày tư
tưởng Hồ Chí Minh như là một sự hội tụ giữa học thuyết Khổng Tử với học
thuyết Mác”. Đúng như trên kia đã nói là có thể dẫn chứng khơng ít điều Hồ
Chủ tịch nói đúng lời văn hoặc ý nghĩ của các “phu tử” Khổng giáo. Nhưng
Khổng giáo, do bản chất của nó là khơng thích hợp để tải chủ nghĩa Mác,

hay là để hội tụ với chủ nghĩa Mác” (Quang Đạm: con đường học thuật từ
cậu bé Cơơng đến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sách đã dẫn).
3. “Nhiều người nói rằng Hồ Chủ Tịch bị ảnh hưởng Nho giáo và đã
chấp nhận một số nội dung của Khổng giáo trong quá trình xây dựng nền
văn hố mới Việt Nam. Thật ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh có làm thơ bằng chữ
Hán nhưng quyết khơng thể kết luận rằng Người theo Nho giáo. Chủ tịch có
nhận xét rằng “về căn bản chủ nghĩa Khổng Tử là sự bình n trong xã hội
khơng bao giờ thay đổi”.” (Đỗ Huy: Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự hình thành
nền văn hoá mới Việt Nam. Sách đã dẫn).
4. “Vậy thì cùng với học thuyết của Mác – Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi là cẩm nang và “kim chỉ nam” của mình phải chăng đạo Khổng
cũng là một bộ phận cấu thành hết sức quan trọng trên diện mạo văn hoá của
Người giống như triết học Đức đối với Mác. Câu hỏi đó có thể được đặt ra


quan điểm của Lênin từng nêu bật ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành
trong học thuyết của Mác là: triết học Đức, kinh tế học Anh, chủ nghĩa xã
hội Pháp” (Đào Phan: Bác Hồ từ xuất thân nhà Nho. Sách đã dẫn).

Trong bốn ý kiến được trích lại trên đây, rõ ràng có hai quan điểm trái
ngược nhau trong cách kết luận về ảnh hưởng của Nho giáo đối với Bác Hồ.
Các ông Phan Văn Các, Quang Đạm, Đỗ Huy tuy lời lẽ khác nhau nhưng nét
chung là không thừa nhận xét trên phương diện cơ bản, hệ thống Hồ Chí
Minh theo hệ tư tưởng Nho giáo. Ơng Đào Phan thì ngược lại, dù phát ngơn
dưới dạng nghi vấn nhưng thâm tâm xem ra muốn coi Nho giáo là một “bộ
phận cấu thành hết sức quan trọng trên diện mạo văn hoá của Người”.
Chúng ta nghĩ như thế nào trước sự trái ngược nhau của hai loại quan
điểm này? Theo tơi, trước hết hãy đọc lại chính lời của Bác trong Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, bản dịch Trung văn của
Trương Niệm Thức (Hồ Chí Minh truyện NXB Tam Liên, Thượng Hải tháng

6 – 1949 trang 91, do chính ơng Phan Văn Các dịch in lại như sau: “Học
thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân, Tơn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa
Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa
Tơn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó phù hợp với điều kiện
nước ta... Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng đã có những điểm
chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu
phúc lợi cho xã hội, nếu hơm nay họ cịn sống trên đời này, nếu họ họp lại
một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như
những người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị
ấy”).
Rõ ràng là ý kiến của Bác Hồ ở đây đã thể hiện một cách đích đáng
nhất luận điểm của Lênin: “Chủ nghĩa Cộng sản là sự thâu thái toàn bộ tri
thức nhân loại”. Trong ý kiến của Bác, điều đáng cho mọi người suy nghĩ
nhiều, suy nghĩ kỹ, suy nghĩ với tinh thần phản tỉnh là Bác cho rằng giữa
những người như Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tơn Dật Tiên có những điểm
chung. Những điểm chung đó chính là sự mưu cầu hạnh phúc cho lồi
người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Vì có những điểm chung như thế cho
nên nếu họ còn sống họp lại với nhau, nhất định sẽ chung sống với nhau rất
hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Và Bác cố gắng làm người học trò
nhỏ của các vị ấy. Quan điểm này của Bác thực sự là khó gần gũi với loại ý
kiến về cơ bản cứ muốn tách Bác ra khỏi ảnh hưởng Nho giáo, cũng như


không muốn thừa nhận một cái điểm nào chung nhau giữa Khổng Tử và
Mác.
Để cho rõ hơn quan điểm trên đây của Bác, cũng là để cho rõ hơn cái
gọi là ảnh hưởng của Nho giáo đối với Bác, theo ý tơi phải làm rõ hơn, thậm
chí cũng có thể nói là phải thay đổi, phải xoay chuyển cách nghĩ trong hai
vấn đề cơ bản sau đây:

1. Vấn đề đánh giá Nho giáo thế nào cho đúng.
2. Vấn đề quan niệm về con người Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh
thế nào cho hợp lý hơn.
Đây là hai vấn đề rất lớn và cũng rất khó, địi hỏi cơng sức suy nghĩ,
tìm hiểu của nhiều người, khơng chỉ trước mắt mà còn lâu dài. Ở đây chỉ là
những suy nghĩ ban đầu và trình bày dưới dạng đơn sơ, ngắn gọn, mong
được góp ý, trao đổi.
Với vấn đề thứ nhất, muốn tốt thì dứt khốt phải có sự tổng kết lịch sử
việc đánh giá Nho giáo, nếu chưa phải ở Trung Hoa – quê hương Nho giáo,
ở nhiều nước trên thế giới, thì chí ít cũng là ở Việt Nam từng diễn ra trong
lịch sử, đặc biệt là ở thế kỷ XX này. Tôi chưa làm được cái việc tày đình
này, nhưng cũng có đọc được tạm nói là những tài liệu cơ bản đã có thời
trước Cách mạng Tháng Tám mà nói chung là phi Mác-xít, đã có ở miền Bắc
sau cách mạng, đặc biệt là sau năm 1954 mà ai cũng biết là theo quan điểm
Mác-xít. Ngồi ra là một tí tài liệu ở miền Nam trước 1975 (dĩ nhiên có cả
một số tài liệu do người Trung Hoa dưới thời Mao Trạch Đông viết và một
số tài liệu của người Liên Xơ trước đây), thì dù chưa dám chắc mình nghĩ
đúng, nhưng cũng đã nghĩ và khơng khỏi thương cho thân phận của Nho
giáo, bởi nó bị hiểu sai đi rất nhiều so với bản chất của nó. Nói một cách
ngắn gọn thì Nho giáo đã bị mấy thứ này ám hại:
a. Sự áp đảo khơng ít phũ phàng của phương Tây đối với phương
Đông trên cơ sở sức mạnh vật chất, sức mạnh khoa học kỹ thuật của chủ
nghĩa tư bản trong hơn một thế kỷ rưỡi qua mà đến nay phương Đơng vẫn
chưa dễ gì thoát khỏi hẳn sự áp đảo này.
b. Sự lẫn lộn, đồng nhất, trong khi nghĩ đến Nho giáo trên hai phương
diện: văn bản và thực tiễn, sự thiếu tường minh, bất chấp lịch sử ngữ nghĩa
trong khi đọc văn bản Nho giáo.
c. Sự vận dụng lý thuyết giai cấp và lý thuyết về hình thái xã hội một
cách thơ thiển, thơ bạo, bệnh tự kiêu vơ sản, coi cái gì thời đại cách mạng vơ
sản, thuộc hình thái xã hội chủ nghĩa cũng là hơn tất cả, là nhất thế gian mà



chính Lênin đã từng cơng kích. Nêu ra các điều bất ổn trên đây, dĩ nhiên là
để muốn có một cách nhìn đúng về Nho giáo. Nhìn đúng về Nho giáo khơng
có nghĩa Nho giáo cái gì cũng đúng. Nêu ra các điều bất ổn trên đây cũng
khơng có nghĩa là coi tất cả mọi người đã hiểu sai Nho giáo. Vẫn có người
hiểu đúng dù chưa phải là đúng tất cả. Có điều họ là thiểu số. Để hiểu đúng
Nho giáo hơn, phải bổ sung vào lý thuyết giai cấp và lý thuyết hình thái xã
hội, phương pháp tiếp cận văn minh luận, văn hố luận, nhân tính luận. Với
hệ phương pháp được bổ sung, hoàn thiện này, chắc chắn sẽ có nhận thức
mới, đúng về Nho giáo đã đành, mà còn là về cái gọi là ảnh hưởng của Nho
giáo đối với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Với vấn đề thứ hai: đúng là nếu nhìn Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
chỉ với tư cách một nhân vật chính trị lỗi lạc, một anh hùng giải phóng dân
tộc vĩ đại nhưng theo nghĩa giản đơn là cứu được đất nước thốt khỏi hoạ
xâm lăng, ngay có thêm một tư cách là nhà văn hóa vào bậc danh nhân thế
giới nhưng nội hàm khái niệm văn hoá cũng chỉ lấy từ chính trị, tư tưởng
chính trị làm chủ yếu, thì ít hay nhiều cũng hạn chế cách nhìn ảnh hưởng
Nho giáo ở Bác, một khi chính trị đó lại là chính trị vơ sản, giải phóng dân
tộc lại để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hãy thấy Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh trước hết là một con người như bao con người có sự sống toàn
diện bao gồm: sự sống với đời thường và sự sống với quốc gia đại sự, với
thế giới, sự sống thuộc tư đức và sự sống thuộc công đức, sự sống mang tính
cá thể và sự sống mang tính xã hội, sự sống vật chất và sự sống tâm linh vốn
dĩ rất phong phú, diệu kỳ. Với một nhà chính trị lỗi lạc như Nguyễn Ái Quốc
– Hồ Chí Minh, khơng chỉ có tư tưởng chính trị, đường lối chính trị mà cịn
có điệu, cách sống thường nhật. Đừng nghĩ trong điệu sống thường nhật
khơng có cái cao cả vĩ đại. Với cách nghĩ này, tôi thấy nổi lên ở sự sống
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh hai điều đáng nói nhất thuộc ảnh hưởng
Nho giáo.

- Một là tinh thần tu thân trong lơgíc tu thân – tề gia – trị quốc – bình
thiên hạ. Điều này thể hiện rõ nhất trong điệu sống, lối sống hàng ngày của
Người, không chỉ lúc cách mạng chưa thành công mà đặc biệt cịn là lúc
cách mạng đã thành cơng, lúc Bác đã trở thành nguyên thủ quốc gia. Thử
tưởng tượng, nếu ở Bác khơng có tinh thần tu thân này để có điệu sống có
liên quan đến cơng đức nhưng trước hết là tư đức đó thì sức hấp dẫn, lịng
kính phục của nhân dân, của thế giới sẽ có được như mức nó đã có khơng.
Tơi vẫn tin rằng đây là sự thật: nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới kính
trọng Cụ Hồ bắt đầu từ sự kính trọng ý thức tu thân này, để kính trọng nhân
cách chính trị. Đúng là trong Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có một vị
chân Nho, thậm chí có thể nói: một vị chân Nho xứ Nghệ. Ở Bác cái gàn của


ông đồ xứ Nghệ, với riêng khía cạnh tốt đẹp của nó, khơng phải là khơng in
dấu ấn.
- Hai là, ý thức kết hợp đạo đức và chính trị. Theo tơi hiểu Nho giáo
trong phần chân chính, và cũng là cốt lõi nhất của nó, là một học thuyết đạo
đức trước khi là một học thuyết chính trị. Và về chính trị thì Nho giáo là một
học thuyết muốn đặt đức trị lên hàng đầu; chứ không phải là một học thuyết
chính trị đơn thuần. Đọc kỹ Khổng – Mạnh ta thấy rõ điều đó. Tìm hiểu sâu
vào phong cách chính trị của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, ta cũng thấy
rõ điều đó. Nếu tơi khơng lầm thì trên thế giới, có lẽ cũng ít có một nhà
chính trị lớn nào lại quan tâm đến vấn đề đạo đức gồm cả tư đức và cơng
đức (mặc dù có thể nặng về công đức) như Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Quan tâm bằng văn từ đã đành. Quan trọng hơn là bằng tự làm gương.Vấn
đề quan hệ giữa chính trị và đạo đức trong sự sống của nhân loại quả không
phải là điều đơn giản. Ở đây không phải là khơng có khả năng hịa hợp.
Nhưng khả năng tương phản khơng phải là ít, nhất là loại chính trị đã gắn
với quyền uy. Chả thế mà ở thế kỷ XV, Makiêven, trong tác phẩm Le
Prince (Ơng hồng) đã nói về tính mâu thuẫn giữa chính trị và đạo đức như

một tất yếu. Bởi thế với mà các nhà chính trị chân chính xưa nay trên thế
giới, nếu thật là chân chính, thì ít nhiều đều phải chăm lo đến sự hài hịa giữa
chính trị và đạo đức. Nhưng quả là ít thấy ai tự giác, kiên trì, có hệ thống
như cụ Hồ của Việt Nam, mà điều đó lại sao khơng có gốc rễ Nho giáo. Nho
giáo trong sách đã đành mà Nho giáo trong đời sống dân tộc Việt Nam ngày
trước, dĩ nhiên là ở phần tinh túy của nó. Đường lối chính trị cụ thể của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là khác, khác nhiều so với đường lối chính
trị mà Nho giáo nhe nhắm, hướng tới. Nói khác nhiều nhưng cũng khơng
phải khơng có nét chung, điểm gặp. Đó chính là tư tưởng đại đồng của Nho
giáo mà Nguyễn Ái Quốc đã nói đến trong bài Đơng dương (L'Indochine)
đăng trên Tạp chí La revue Communiste, số 15 tháng 5-1921. Xin nói thêm:
trong bài viết này Nguyễn Ái Quốc đã gọi tác giả trực tiếp của tư tưởng đại
đồng này là Khổng Tử vĩ đại (Le grand Confucius).
(Bài đã in trong sách Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh – truyền thống
dân tộc và nhân loại. NXB Khoa học xã hội- Hà Nội 1993)
Lên trang viet-studies ngày 31-12-10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×