Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKNXay dung va su dung bai tap nhan thuc trong dayhoc lich su

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.89 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>PHẦN 1. MỞ ĐẦU</b>


<b>1.1. Bối cảnh, lý do chọn đề tài</b>


Trong dạy học lịch sử, ngoài việc giúp cho học sinh nắm được kiến thức cơ bản,
giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, giáo viên còn phải giúp cho học sinh
phát triển năng lực nhận thức.


Theo <i>Giáo trình phương pháp dạy học lịch sử, </i>hệ thống bài tập nhận thức là
điều kiện cần thiết để phát triển tư duy học sinh trong học tập lịch sử. Tuy nhiên, theo
nhận định của một số nhà nghiên cứu: “bài tập nhận thức hiện còn mới mẻ đối với việc
học lịch sử ở nước ta”, “chúng ta chưa có quan niệm đầy đủ về sự cần thiết của hệ
thống bài tập nhận thức trong học lịch sử, (thậm chí có người cho rằng học tập lịch sử
khơng cần bài tập”[3, tr.115-116]. Đây chính là lý do mà tôi quan tâm đến việc <i>“Xây</i>
<i>dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử”.</i>


<b>1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>


Do thực tế được phân công lớp dạy và điều kiện thời gian, nên phạm vi nghiên
cứu chỉ dừng lại ở giới hạn nghiên cứu quan niệm về bài tập nhận thức, cách xây dựng
bài tập, thử xây dựng một số bài tập và áp dụng vào thực nghiệm trên đối tượng học
sinh khối10.


<b>1.3. Mục đích nghiên cứu</b>


Qua nghiên cứu vấn đề này, bản thân mong muốn tìm cách áp dụng lý luận về
bài tập nhận thức vào thực tiễn dạy học, nghiên cứu hiệu quả, khả năng ứng dụng vào
dạy học lịch sử. Trình bày lại quá trình và kết quả nghiên cứu, tơi cũng rất mong được
q đồng nghiệp trao đổi, góp ý nhằm tìm ra cách thức xây dựng và sử dụng bài tập
nhận thức trong dạy học lịch sử một cách có hiệu quả nhất.


<b>1.4. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

vạch ra cách thức xây dựng và sử dụng bài tập. Bước tiếp theo, tôi thực hành nghiên
cứu, soạn một số bài tập và thực nghiệm sử dụng bài tập nhận thức vào dạy học lịch sử
ở một số bài. Qua thực nghiệm, nhìn lại quá trình nghiên cứu đề tài, tôi rút ra một số
kinh nghiệm làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng vào dạy học sau này.


<b>1.5. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>PHẦN 2. NỘI DUNG</b>



<b>2.1. Thực trạng xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử</b>
Vấn đề sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử được đặt ra từ những
năm 60 của thế kỉ XX. Người đi sâu nghiên cứu vấn đề này là I.Ia. Lerner, nhà giáo
dục học người Nga. Ơng có hẳn một cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, mang tên
“<i>Bài tập nhận thức</i>”. Công trình này đã được hai dịch giả Nguyễn Cao Lũy và Văn
Chu (Viện Chương trình và phương pháp – Bộ Giáo dục) dịch sang tiếng Việt. Việc sử
dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam
khẳng định <i>là điều kiện cần thiết để phát triển tư duy học sinh</i>.


Giá trị của bài tập nhận thức được khẳng định rất rõ ràng, song trên thực tế, việc
sử dụng bài tập nhận thức cịn rất hạn chế. Có nhiều ngun nhân dẫn đến thực tế này,
trong đó có nguyên nhân quan trọng là giáo viên chưa được hướng dẫn cụ thể về cách
xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức.


Hiện nay, ngồi cơng trình của I.Ia. Lerner, chưa có cơng trình nghiên cứu nào
đề cập một cách có hệ thống, chưa có ấn phẩm nào về <i>Bài tập nhận thức </i>được xuất
bản, làm tài liệu tham khảo cho giáo viên. Giáo trình phương pháp dạy học lịch sử viết:
“Bài tập nhận thức hiện còn mới mẻ đối với việc học lịch sử ở trường phổ thông ở
nước ta. Từ thực tiễn, chúng ta sẽ bổ sung nhận thức lý luận và kinh nghiệm thực hành
của loại bài tập này.”[3, tr.116]



Trong điều kiện như vậy, việc tìm ra cách thức xây dựng bài tập và áp dụng vào
thực tế dạy học một cách có hiệu quả là rất cần thiết.


<b>2.1. Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử</b>
<b>2.2.1 Thế nào là bài tập nhận thức?</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

của bài tập”. “Bài tập nào cũng địi hỏi học sinh phải tự mình trải qua bước đường phải
giải quyết hoặc tìm ra câu trả lời một cách độc lập và được chứng minh rõ ràng”.[2,
tr.2]


I.Ia. Lerner minh họa:


Khi giảng đề mục “Sự xuất hiện của tôn giáo”, thầy giáo kể cho học sinh biết
tôn giáo là gì, tơn giáo xuất hiện lúc nào và sau đó cho một bài tập: <i>“Các nhà khảo cổ</i>
<i>đã tìm thấy một ngơi mộ trong đó có hài cốt của một người được chơn từ hồi xưa nào</i>
<i>đó. Người này nằm theo tư thế của một người ngủ nằm nghiêng, 2 chân co và mặc</i>
<i>quần áo thường mặt hàng ngày. Bên cạnh hài cốt có vũ khí, bát, đĩa và di tích của</i>
<i>thức ăn.</i>


<i>Câu hỏi: Ngơi mộ thuộc về thời kì nào, trước khi có tơn giáo hay lúc tơn giáo đã</i>
<i>xuất hiện rồi? Hãy chứng minh câu trả lời của em.</i>


Để giải quyết bài tập này, học sinh đã xác lập mối tương quan giữa sự kiện về
ngôi mộ với những điều chúng được biết về tôn giáo (câu hỏi địi hỏi điều đó), con
người đã tin vào các lực lượng siêu tự nhiên, vào một cuộc sống ở bên kia thế giới sau
khi chết. Sau đó, học sinh phán đốn và kết luận: <i>Vì trong mộ có bát đĩa, thức ăn,</i>
<i>quần áo, vậy thì người ta đã cho rằng những thứ đó cần thiết cho người được chơn cất</i>
<i>sau khi chết. Và nếu như thế thì đó là những con người có tơn giáo và do đó, ngơi mộ</i>
<i>đã xuất hiện trong thời kì có tơn giáo.</i>[2, tr.4]



Theo cách nghĩ của tơi, có thể xem bài tập nhận thức là một <i>“bài toán”,</i> được
hiểu theo nghĩa là một cơng việc mà người ta chưa biết cách hồn thành và kết quả,
hay chưa biết một trong hai yếu tố đó, nhưng có thể tìm kiếm được với những điều
kiện đã cho.


Có thể chia bài tập nhận thức thành hai phần:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cũng là cơ sở mà dựa vào đó, qua thực hiện các thao tác tư duy, học sinh tìm ra câu trả
lời.


<i>- Phần kết luận:</i> là câu trả lời, là <i>“đáp số”</i> của <i>“bài toán”.</i>


Trong dạy học lịch sử, giáo viên thường đặt ra nhiều yêu cầu đối với học sinh
như: trả lời các câu hỏi, chứng minh một vấn đề nào đó hoặc xác định bản chất, ý
nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử… <i>Không phải yêu cầu hay bất cứ câu hỏi nào</i>
<i>đối với học sinh cũng là bài tập nhận thức.</i>


Những yêu cầu mà để trả lời, học sinh chỉ cần nhớ lại, hình dung lại những kiến
thức đã học, thơng qua bài giảng của thầy hoặc có sẵn trong sách giáo khoa, không
được xem là những yêu cầu trong bài tập nhận thức.


<i>Câu hỏi trong bài tập nhận thức phải là câu hỏi mà muốn trả lời được học sinh</i>
<i>phải có sự vận dụng kiến thức, tức là dùng kiến thức đã biết, chủ yếu là kiến thức trừu</i>
<i>tượng, khái quát soi vào những điều kiện đã cho để tìm ra câu trả lời.</i>


<b>2.2.2. Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức</b>


Dựa trên những yêu cầu của bài tập nhận thức, tôi tự định ra các bước xây dựng
bài tập nhận thức như sau:



- Bước 1: <i>Xác định mục tiêu của bài học và từng đề mục cụ thể</i>. Nghĩa là cần
xác định về mặt nhận thức, học sinh cần nhận thức được những gì; qua bài học, rèn
luyện được mặt nào của năng lực nhận thức; giáo dục được gì về tư tưởng cho học
sinh.


Việc sử dụng bài tập nhận thức là một trong những cách thức, biện pháp trang bị
kiến thức, rèn luyện năng lực tư duy, giáo dục tư tưởng cho học sinh. Do đó, việc xây
dựng, sử dụng bài tập nhận thức ở bài học nào đó phải bám sát yêu cầu về mục tiêu của
bài học, mục tiêu cụ thể của đề mục có liên quan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Cách trình bày của sách giáo khoa hiện tại vẫn còn theo lối giải thích hoặc
chứng minh kiến thức lịch sử, nghĩa là đưa ra nhận định trước, sau đó minh họa bằng
các sự kiện, hiện tượng hoặc trình bày các sự kiện, hiện tượng rồi đưa ra kết luận. Như
thế, giáo viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi chọn vấn đề để xây dựng bài tập. Nói như
vậy khơng có nghĩa là không thể xây dựng bài tập. Nghiên cứu sách giáo khoa chúng
ta thấy, bên cạnh những vấn đề được giải thích, chứng minh rõ ràng, <i>vẫn cịn nhiều</i>
<i>vấn đề, nhiều phần kiến thức, nhiều khía cạnh mà nếu chỉ đọc sách giáo khoa, học</i>
<i>sinh chưa thể hiểu</i>, cần có sự giúp đỡ của giáo viên. Đó là những “vấn đề” mà chúng ta
có thể khai thác để xây dựng bài tập.


Từ tư liệu do sách giáo khoa cung cấp, khai thác ở nhiều góc độ, nhiều mức độ,
giáo viên cũng có thể tìm được “vấn đề” để xây dựng bài tập nhận thức.


<i>- </i>Bước 3:<i> Xây dựng bài tập</i>


Trên cơ sở xác định được những vấn đề học sinh còn gút mắc, những vấn đề cần
khai thác thêm từ tư liệu trong sách giáo khoa nhằm giúp học sinh nhận thức thêm,
giáo viên tiến hành tìm tư liệu lịch sử qua các nguồn tài liệu tham khảo hoặc sử dụng
tư liệu từ sách giáo khoa để đặt vấn đề theo cách xây dựng bài tập nhận thức.



Do bài tập nhận thức giống như một “bài toán” nên <i>tư liệu lịch sử ở phần “giả</i>
<i>thiết” phải đảm bảo đúng và đủ để học sinh dựa vào đó, vận dụng kiến thức đã học</i>
<i>chứng minh, tìm ra “kết luận”. Kết luận đạt được qua giải bài tập phải hướng đến</i>
<i>giúp học sinh hiểu được những vấn đề còn gút mắc hoặc nhận thức lịch sử sâu hơn. </i>


<b>2.2.2.1. Xây dựng bài tập minh họa</b>


Trên cơ sở xác định những bước xây dựng bài tập như trên, tôi thử tiến hành xây
dựng bài tập nhận thức ở một số bài học trong chương trình lịch sử lớp 10 (Chương
trình chuẩn), cụ thể như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Một trong những mục tiêu quan trọng: giúp học sinh nhận thức <i>vai trò, thân</i>
<i>phận của nô lệ</i>. Sách giáo khoa chỉ cho biết nô lệ “<i>bị khinh rẻ”, </i>giáo viên cần giúp học
sinh nhận thức rõ hơn <i>biểu hiện cụ thể và hậu quả</i> của vấn đề này.


Chúng ta có thể sử dụng tư liệu sau đây để xây dựng bài tập nhận thức:


<i>Tầng lớp chủ nơ giàu có thường tổ chức đấu kiếm hay đấu võ giữa các đấu sĩ</i>
<i>với dã thú (hổ, báo…) để mua vui, nhân dịp sinh con trai nối dõi, gã chồng cho con</i>
<i>gái hoặc trong nhà có việc tang. Đấu sĩ trang bị nhiều kiểu khác nhau, có khi mũ bịt</i>
<i>đầu của họ chỉ chừa hai kẻ hở nhỏ ở vị trí đơi mắt, làm cho kẻ bất hạnh ấy chỉ cịn</i>
<i>đánh nhau trong tình trạng hoàn toàn như bị bịt mắt. Kiếm của họ thường rất ngắn.</i>
<i>tất cả những thứ ấy nhằm mục đích là làm cho các đấu sĩ không thể giết nhau ngay lập</i>
<i>tức. Cuộc đấu càng kéo dài, máu đấu sĩ chảy càng nhiều, càng được xem là hấp dẫn</i>
<i>và được người xem càng tán thưởng, hị reo, thích thú.</i>[5, tr.120]


Ở phương Tây cổ đại, nô lệ là lực lượng sản xuất chính, ni sống xã hội, nhưng
hiện tượng trên lại thường xuyên diễn ra.



Yêu cầu có thể đặt ra:


<i>1. Em có suy nghĩ gì về nghịch lý ở hiện tượng trên?</i>


<i>2. Hãy cho biết ý kiến của em về hệ quả của những trị vui tàn bạo nêu trên của</i>
<i>chủ nơ.</i>


Có thể cho học sinh giải bài tập này ở nhà, sau khi dạy xong mục 2. <i>Thị quốc</i>
<i>Địa Trung Hải</i> (hết tiết 1 của bài này).


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Đối với câu hỏi thứ hai, trên cơ sở nhận thức được hiện tượng nêu trên là biểu
hiện của áp bức, vận dụng hiểu biết về quy luật “có áp bức có đấu tranh”, học sinh có
thể tìm được câu trả lời: <i>Hiện tượng nêu trên là biểu hiện cụ thể của hành vi áp bức.</i>
<i>Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Hệ quả chắc chắn xảy ra là nô lệ sẽ nổi dậy đấu</i>
<i>tranh.</i>


Bài 11. Tây Âu thời hậu kì trung đại; Mục 4. <i>Cải cách tơn giáo và chiến tranh</i>
<i>nông dân</i>


Một trong những kiến thức cần giúp học sinh hiểu rõ: nguyên nhân dẫn đến cải
cách tơn giáo.


Có thể sử dụng tư liệu sau đây để xây dựng bài tập:


<i>Đầu thế kỉ XVI khắp phố chợ ở Tây Âu người ta thấy các tu sĩ xà vào những chỗ</i>
<i>đông người, ra bán (thẻ xá tội): “Đem tiền ra mau! Hãy cứu vớt những người ruột thịt</i>
<i>và thân thích ! Chỉ cần đồng tiền kêu trong đáy túi của ta, linh hồn của người phạm tội</i>
<i>sẽ được lên thiêng đàng !”</i>[1, tr.36]


<i>Hỏi: Cho biết nhận xét của em về tính chất (bình thường hay khơng bình</i>


<i>thường) của hiện tượng trên? Theo em, hiện tượng trên có thể tồn tại lâu dài được</i>
<i>khơng? Vì sao?</i>


Có thể cho học sinh giải bài tập này trước khi giảng mục 4. <i>Cải cách tôn giáo và</i>
<i>chiến tranh nông dân.</i>


Để giải được bài tập này học sinh phải vận dụng những những kiến thức đã biết
về nghi lễ, luật lệ Kitô giáo làm căn cứ, đối chiếu với hiện tượng cụ thể mà tư liệu bài
tập cung cấp để phát hiện tính chất của hiện tượng đó. Trên cơ sở đó mà xác định mối
liên hệ giữa tính chất của hiện tượng với khả năng tồn tại của hiện tượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>tượng trên để bảo vệ giáo lý, lễ nghi, những điều rất thiêng liêng đối với họ. Bên trong</i>
<i>hiện tượng trên đã chứa đựng mầm mống của sự tiêu diệt. Hiện tượng trên không thể</i>
<i>tồn tại lâu dài được.</i>


<b>2.2.2.2. Thực nghiệm sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử</b>


Để đánh giá khả năng, hiệu quả, ý nghĩa của việc sử dụng bài tập nhận thức
trong dạy học lịch sử, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở một số lớp 10 do nhà trường
phân công giảng dạy trong năm học 2009 – 2010. Các lớp thực nghiệm là 10A11,
10A14; các lớp đối chứng là 10A13, 10T2. Đây là những lớp có trình độ nhận thức
lịch sử tương đối ngang bằng.


Việc tiến hành thực nghiệm được tiến hành qua hai bước. Bước 1: Cho học sinh
các lớp thực nghiệm giải bài tập nhận thức. Bước 2: Kiểm tra nhận thức của học sinh
các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng để so sánh và đánh giá khả năng, hiệu quả, ý
nghĩa của việc sử dụng bài tập.


Tôi thực nghiệm sử dụng bài tập nhận thức ở hai bài học, cụ thể như sau:



<i>Bài thứ nhất:</i> Bài 10. Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở
Tây Âu (Từ thế kỉ V đến thế kỉ XIV).


Ở mục 1. <i>Sự hình thành các vương quốc phong kiến ở Tây Âu</i>, một trong những
vấn đề học sinh cần nắm vững: <i>sau khi chinh phục Rôma, người Giecman từ bỏ chế độ</i>
<i>bộ lạc, xưng vua, bắt đầu quá trình phong kiến hóa</i>.


Nhằm giúp học sinh thu nhận thêm kiến thức cụ thể, rèn luyện năng lực nhận
thức cho học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn kiến thức về sự chuyển biến của xã hội
người Giecman trước và sau khi chinh phục được Rôma, kết thúc bài học, tôi yêu cầu
học sinh giải bài tập nhận thức sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>đó. Một người lính đã đập vỡ cái bình đó và nói: “Anh chỉ được nhận phần nào mà</i>
<i>anh rút thăm được”. Clơvit căm tức, nhưng khơng nói gì. Năm sau, sau khi chinh phục</i>
<i>được đế quốc Rôma, Clôvit xưng vua. Khi duyệt binh, Clơvit gặp lại người lính cũ đã</i>
<i>đập vỡ cái bình . Lấy cớ người lính giữ gìn vũ khí khơng sạch, Clơvit vứt cái rìu của</i>
<i>anh ta xuống đất để anh ta cúi xuống nhặt. Lợi dụng lúc anh ta khơng đề phịng, Clơvit</i>
<i>liền bổ vào đầu anh ta và nói: “Mày cịn nhớ cái bình Xốt Xơng khơng?” Những</i>
<i>người lính khác khơng dám phản đối hành động của Clôvit.</i>[6, tr.14]


<i>Hỏi: </i>


<i>1. Thái độ, hành động của Clơvit và những người lính trước và sau khi chinh</i>
<i>phục được đế quốc Rôma khác nhau như thế nào?</i>


<i>2. Dựa vào những hiểu biết về xã hội của người Giecman trước và sau khi chinh</i>
<i>phục được đế quốc Rơma, em hãy giải thích vì sao có sự khác nhau này?</i>


Yêu cầu về mặt nội dung và phương pháp khi giải bài tập này:



Để trả lời câu hỏi thứ nhất, học sinh cần sử dụng năng lực phân tích tư liệu để
nêu lên cốt lõi của vấn đề:


<i>Trước khi chinh phục Rơma, những người lính đã phản đối việc Clôvit lấy của</i>
<i>chung làm của riêng; Clôvit phục tùng ý kiến của tập thể. Sau khi chinh phục được đế</i>
<i>quốc Rơma, Clơvit hành động tàn bạo; những người lính khơng dám phản đối hành</i>
<i>động của Clơvit.</i>


Câu thứ hai địi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức đã biết về xã hội
của người Giecman trước và sau khi chinh phục Rơma đối chiếu với tư liệu để tìm ra
câu trả lời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Sau khi chinh phục Rôma, xã hội của người Giecman bắt đầu quá trình phong</i>
<i>kiến hóa, theo đó quyền lực của vua là tối thượng, do đó Clơvit đã hành động tàn bạo</i>
<i>và những người lính đã khơng dám phản đối.</i>


Kết quả giải bài tập của học sinh ở các lớp thực nghiệm:
- Tỉ lệ học sinh trả lời được câu hỏi thứ nhất: 80,7%
- Tỉ lệ học sinh trả lời được câu hỏi thứ hai: 73,1%


Tiếp theo, tôi tiến hành kiểm tra nhận thức ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối
chứng. Câu hỏi kiểm tra nhận thức: <i>Xã hội của người Giecman trước và sau khi chinh</i>
<i>phục được đế quốc Rôma khác nhau như thế nào? </i>Kết quả:


- Tỉ lệ học sinh các lớp thực nghiệm trả lời được: 88,9%
- Tỉ lệ học sinh các lớp đối chứng trả lời được: 79,6%


<i>Bài thứ hai:</i> Bài 17. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến
(Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)



Ở mục <i>II.2. Luật pháp và quân đội</i>, một trong những kiến thức cần giúp học sinh
nắm vững: mục đích của việc ban hành luật là bảo vệ quyền hành của giai cấp thống
trị, một số quyền lợi chân chính của nhân dân và an ninh đất nước.


Nhằm giúp học sinh hiểu sâu kiến thức, rèn luyện năng lực tư duy cho học sinh,
sau khi học xong bài học, giáo viên yêu cầu học sinh giải bài tập sau:


<i>Luật Hồng Đức có quy định: Đào trộm đê đập làm thiệt hại lúa má thì xử tội đồ,</i>
<i>lưu, bắt đền tổn hại. [4, tr.89]</i>


<i>Hỏi: Mục đích trước mắt và sâu xa của điều luật trên là gì? Hãy giải thích câu</i>
<i>trả lời của em.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Đê đập có vai trị quan trọng trong việc ổn định nguồn nước. Giữ được đê đập</i>
<i>là góp phần đảm bảo năng suất sản xuất nông nghiệp. Như vậy, trước mắt, nhà nước</i>
<i>muốn thông qua việc bảo vệ đê đập để bảo vệ sản xuất nông nghiệp, ổn định kinh tế.</i>


<i>Mất mùa có thể ảnh hưởng đến việc nộp tơ thuế, gây mất ổn định xã hội. Luật</i>
<i>có vai trị bảo vệ quyền lợi của giai cấp, ổn định xã hội. Cho nên, ngồi mục đích bảo</i>
<i>vệ sản xuất nơng nghiệp, sâu xa hơn, điều luật trên cịn góp phần bảo vệ quyền lợi của</i>
<i>giai cấp thống trị, ổn định trật tự xã hội.</i>


Kết quả giải bài tập này của học sinh ở các lớp thực nghiệm:
- Tỉ lệ học sinh trả lời được <i>“mục đích trước mắt”:</i> 92,2%
- Tỉ lệ học sinh trả lời được <i>“mục đích sâu xa”:</i> 82,4%


Tiếp theo, tôi tiến hành kiểm tra nhận thức ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối
chứng. Câu hỏi kiểm tra nhận thức: <i>1. Cho biết vai trò của luật pháp? 2. Sự quan tâm</i>
<i>của nhà nước đối với nông nghiệp được thể hiện như thế nào? </i>Kết quả:



- Tỉ lệ học sinh các lớp thực nghiệm trả lời được câu 1: 97%, câu 2: 94%
- Tỉ lệ học sinh các lớp đối chứng trả lời được câu 1: 90%, câu 2: 65%
<b>2.2.2.2. Nhận xét về hiệu quả của việc sử dụng bài tập nhận thức </b>


Kết quả kiểm tra nhận thức sau khi sử dụng hai bài tập cho thấy, ở các lớp thực
nghiệm, <i>khả năng nhớ và vận dụng kiến thức lịch sử, cách lập luận, trình bày vấn đề</i>


của các em tốt hơn các lớp đối chứng. Những mặt tích cực có được như thế chắc chắn
là hệ quả của quá trình giải bài tập trước đó của các em.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tiến hành các hình thức hoạt động tư duy. Việc sử dụng bài tập nhận thức trong dạy
học lịch sử thật sự có tác dụng tích cực trong việc phát triển năng lực nhận thức cho
học sinh.


Ban đầu, khi yêu cầu học sinh giải bài tập các em rất ngỡ ngàng và cho rằng đây
là nhiệm vụ nặng nề, khó có thể hồn thành. Nhưng khi được giáo viên giải thích rõ
mục đích, hướng dẫn phương pháp giải bài tập, các em tỏ ra hứng thú khi thực hiện
nhiệm vụ này. Khi giải bài tập thứ hai, các em rất tích cực, cho rằng đó là thử thách thú
vị, muốn thử sức để qua đó chứng tỏ năng lực nhận thức của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>PHẦN 3. KẾT LUẬN</b>


<b>3.1. Những bài học kinh nghiệm</b>


Sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là một trong những biện pháp
tích cực đối với việc phát triển năng lực nhận thức cho học sinh, góp phần quan trọng
trong việc đảm bảo chất lượng bộ mơn. Với ý nghĩa tích cực như vậy, bài tập nhận
thức rất cần được đưa vào thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông.


Muốn sử dụng bài tập nhận thức trước hết phải nghiên cứu cách thức xây dựng
bài tập. Khi xây dựng bài tập cần bám sát mục tiêu của bài học, mục tiêu cụ thể của


các đề mục có liên quan. Trên cơ sở xác định kiến thức trọng tâm của bài học, đề mục,
cần khai thác những vấn đề, những khía cạnh mà học sinh khó hiểu, cần giáo viên giúp
đỡ để hiểu sâu để tìm tư liệu xây dựng bài tập như một “bài toán”. Yêu cầu hay câu hỏi
mà bài tập nhận thức đặt ra nhất thiết phải đảm bảo yêu cầu học sinh phải tư duy, vận
dụng kiến thức đã biết soi vào tư liệu do bài tập cung cấp mới có thể tìm ra câu trả lời.


Tùy theo chủ ý của giáo viên khi xây dựng bài tập, chuẩn bị bài giảng, đặc điểm
học sinh, có thể sử dụng bài tập nhận thức ở đầu, giữa hay cuối chương, bài hay đề
mục nào đó.


Thời gian đầu, giáo viên chỉ nên ra các bài tập đơn giản và cần hướng dẫn các
em cách giải bài tập, chẳng hạn giải thích các bước tiến hành, cách phân tích giả thiết,
cách xây dựng các bước trong lập luận… Khi học sinh quen dần với việc giải bài tập,
giáo viên có thể cho học sinh giải các bài tập phức tạp hơn, yêu cầu học sinh độc lập
tìm ra lời giải.


<b>3.2. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

chắc chắn đây sẽ là biện pháp tích cực nhằm phát triển tư duy học sinh, thực hiện tinh
thần đổi mới phương pháp, khắc phục tâm lý cho rằng học sử chỉ cần học thuộc lòng.
<b>3.3. Khả năng ứng dụng và triển khai</b>


Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là cơng việc khơng
đơn giản. Chính vì thế cho nên đến hiện tại cơng việc này “vẫn cịn mới mẻ”. Song đây
cũng khơng phải là cơng việc q khó. Thực tế nghiên cứu xây dựng và thực nghiệm
sử dụng bài tập cho phép tôi khẳng định điều này. Nếu giáo viên quan tâm đúng mức,
việc xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử sẽ trở thành phổ
biến.


<b>3.4. Những kiến nghị, đề xuất</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



1. Lương Ninh – Đặng Đức An, 1976, <i>Lịch sử thế giới trung đại</i> (quyển 1, tập1),
NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 36


2. I.Ia. Lerner, <i>Bài tập nhận thức</i>, người dịch: Nguyễn Cao Lũy và Văn Chu,
Viện Chương trình và phương pháp – Bộ Giáo dục, 43 trang.


3. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị (chủ biên), 1999, <i>Phương pháp dạy học lịch</i>
<i>sử</i>, NXB Giáo dục, 296 trang.


4. Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), 2008, <i>Lịch sử 10</i>, NXB Giáo dục, 208
trang.


5. Nhiều tác giả, 1983, <i>Tư liệu giảng dạy lịch sử thế giới cổ đại</i>, NXB Giáo dục,
Hà Nội, trang 120.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>MỤC LỤC</b>



<i>Trang </i>


Phần 1. Mở đầu ………..1


1.1. Bối cảnh, lý do chọn đề tài……….1


1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………..1


1.3. Mục đích nghiên cứu………1



1.4. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu………..1


1.5. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu………...2


Phần 2. Nội dung……… 3


2.1. Thực trạng xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức
trong dạy học lịch sử ………. 3


2.2. Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử…………....3


2.2.1 Thế nào là bài tập nhận thức? ……….. 3


2.2.2. Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức ………. 5


2.2.2.1. Xây dựng bài tập minh họa….. ………...6


2.2.2.2. Thực nghiệm sử dụng bài tập nhận thức
trong dạy học lịch sử………. 9


2.2.2.3. Nhận xét về hiệu quả của việc sử dụng
bài tập nhận thức………..………. 12


Phần 3. Kết luận ……… 14


3.1. Những bài học kinh nghiệm………14


3.2. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm………14


3.3. Khả năng ứng dụng và triển khai……….. 15



3.4. Những kiến nghị, đề xuất………15


</div>

<!--links-->

×