Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Giao duc gioi tinh o tuoi vi thanh nien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.6 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở TUỔI VỊ THÀNH NIÊN</b>


BS. HỒ MẠNH TƯỜNG
(Theo Contraception and Sexuality in Adolescence của K.E. Sapire)
<b>Một phần ba dân số thế giới ở vào độ tuổi từ 10 đến 24 tuổi; và 4 phần 5 dân số này </b>
<b>hiện sống ở các nước đang phát triển. Từ trước đến nay, các chương trình về sức khỏe</b>
<b>của đối tượng thanh niên trẻ ít khi được định hướng ưu tiên, bởi vì hầu hết các thống </b>
<b>kê về y tế đều cho thấy tỷ lệ bệnh tật và tử vong có khuynh hướng thấp đối với thanh </b>
<b>niên. Gần đây, với quan niệm rộng hơn và có chiều sâu hơn về sự phát triển về nhân </b>
<b>cách vị thành niên và các hậu quả lâu dài của nó đã đặt ra nhiều tranh cãi, địi hỏi </b>
<b>phải ưu tiên cho những chương trình phục vụ các yêu cầu bức thiết đảm bảo sự phát </b>
<b>triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của lứa tuổi này.</b>


Vị thành niên là một giai đoạn phát triển rất nhanh về thể chất, tâm sinh lý và tinh thần. Nhiều
vấn đề về sức khỏe ở người lớn xuất phát từ những thói quen dung nhập trong giai đoạn vị
thành niên, như hành vi tình dục, rượu chè, ma túy... Trong thời buổi bùng nổ thông tin như hiện
nay, các giá trị văn hóa phương Tây xâm nhập vào từng thành phố, làng mạc ở các nước thứ ba,
làm thay đổi và ảnh hưởng rất nhiều đến suy nghĩ và hành vi của lứa tuổi vị thành niên. Các em
đi kiếm tìm những giá trị từ bố mẹ, thầy cô, bạn bè cùng lứa, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao nhạc
nhẹ... để tự khẳng định mình. Trong bối cảnh đó, sức khỏe vị thành niên là một trong những
thách thức nghiêm trọng nhất đối với những nhà hoạch định chiến lược phát triển. Bên cạnh
những đặc điểm về số lượng dân số của lứa tuổi này, về tính cấp thiết và đặc thù của các nhu
cầu sức khỏe của các em, chúng ta phải nhìn thấy rằng tương lai của trẻ vị thành niên là tương
lai thật sự của nhân loại.


Người ta ước tính trên thế giới có khoảng 500 triệu trẻ vị thành niên sẽ đối mặt với sự chọn lựa
hành vi tình dục vào năm 2000. Nhiều triệu trong số đó bước vào tuổi hoạt động tình dục với
nguy cơ có thai ngồi ý muốn, AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (BLTĐTD) khác.
Rất nhiều lớn không chấp nhận một thực tế là con cái họ đang ở tuổi hoạt động tình dục, mặc dù
nhiều nghiên cứu cho thấy rằng bất chấp ràng buộc về văn hóa, tập tục, tơn giáo, phần lớn đều
bắt đầu có hoạt động tình dục, dưới các hình thức khác nhau, trước tuổi 20. Ở hầu hết các quốc
gia, trường học, chính phủ và bố mẹ vẫn chưa cung cấp cho trẻ vị thành niên những thơng tin


cần thiết để chúng có thể có những quyết định và hành vi đúng đắn, ảnh hưởng đến tương lai về
sức khỏe sinh sản của chính mình.


<b>Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tình dục của trẻ vị thành niên</b>


Có sự khác biệt giữa lứa tuổi từ 13 đến 17 và lứa tuổi trên 18 về hành vi tình dục, ngừa thai và
sự chấp nhận nguy cơ. Lứa tuổi dưới 17 có khuynh hướng ít chú ý đến những ảnh hưởng lâu dài
do hành động của mình gây ra. Lứa tuổi này thường thiếu kiến thức về các phương pháp ngừa
thai, dễ có thai ngoài ý muốn, dễ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đồng thời lứa tuổi
này cũng dễ bị chấn động về tâm lý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Thông tin đại chúng hiện nay ngày càng nhiều hình ảnh về sex, bạo lực, hút thuốc, uống rượu,
ma túy... Thời trang và các buổi biểu diễn thời trang, thi hoa hậu... trình bày những kiểu thời
trang theo khuynh hướng khêu gợi, ở trang phục cũng như cách biểu diễn. Thông tin đại chúng
cần hướng từng cá nhân chú ý xây dựng cho mình những giá trị tinh thần bên trong hơn là hình
thức bên ngồi.


Thơng tin đại chúng thường tránh né các vấn đề về tình dục vị thành niên, dẫn đến những thông
tin nhiều mâu thuẫn và khơng rõ ràng. Do đó thơng tin đại chúng khơng đáp ứng được nhu cầu
của lứa tuổi vị thành niên và sức khỏe sinh sản.


Các yếu tố liên quan đến gia đình có tác động xấu đến hành vi tình dục của trẻ vị thành niên bao
gồm: trình độ học vấn thấp, gia đình đơng con thiếu chăm sóc, tình trạng văn hóa xã hội thấp,
nghiện rượu, gia đình có người có thai trước hơn nhân (mẹ, chị), cha mẹ ly hôn...


Trẻ vị thành niên thành công trong học vấn, có kế hoạch lâu dài cho việc học tập, say mê cơng
việc thường có khuynh hướng chú ý đến hệ quả của hành vi tình dục; có kế hoạch cho việc lập
gia đình, có con.


<b>Giáo dục giới tính</b>



Giáo dục giới tính tốt nhất là từ cha mẹ, nếu cha mẹ yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, hịa hợp
trong cuộc sống gia đình, cởi mở và chân tình với con cái.


Giáo dục giới tính là một q trình lâu dài để có được những thơng tin chính xác, nó giúp hình
thành thái độ, niềm tin và những giá trị về bản ngã, về các mối quan hệ tình cảm. Giáo dục giới
tính bao gồm nhiều nội dung: sự phát triển của giới tính, sức khỏe sinh sản, các mối quan hệ cá
nhân, tình cảm, về ngoại hình, về vai trị của giới. Giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một
quan điểm tích cực về tình dục, đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành niên
có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Các
chương trình giáo dục giới tính cần sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.


Một số quan điểm lo ngại rằng nếu cung cấp cho trẻ vị thành niên những thơng tin và giúp chúng
phịng ngừa có thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ vơ tình thúc đẩy trẻ có hoạt
động tình dục sớm và bừa bãi. Tuy nhiên, thực tế thực hiện giáo dục giới tính ở nhiều nước cho
thấy hoàn toàn ngược lại. Tổ chức y tế thế giới đã khảo sát 19 chương trình giáo dục giới tính
trường học ở nhiều nước, tất cả đều cho thấy trẻ vị thành niên có hoạt động tình dục trễ hơn,
giảm hoạt động tình dục, biết cách sử dụng các biện pháp ngừa thai một cách hiệu quả, và hồn
tồn khơng thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và nhiều hơn. Giáo dục giới tính hiệu quả
nhất khi thực hiện trước khi trẻ bước vào tuổi hoạt động tình dục. Các bước tích cực này sẽ giúp
khuyến khích trẻ khơng hoạt động tình dục sớm và biết cách sinh hoạt tình dục một cách an
toàn, giảm thiểu thai ngoài ý muốn ở các em.


Cha mẹ, tham vấn ở học đường, thầy cô, bác sĩ, y tá, đồn thể thanh niên, thơng tin đại chúng là
những đối tượng sẽ phối hợp một cách tích cực trong các chương giáo dục giới tính cho trẻ. Vì
hầu hết người lớn chưa có được những kỹ năng để tham vấn chính xác và có hiệu quả, cần có
những chương trình huấn luyện cho các đối tượng trên về các vấn đề liên quan đến tình dục ở
trẻ vị thành niên, biết cách giáo tiếp một cách cởi mở, chân thành, tơn trọng và có hiệu quả với
trẻ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Để thật sự giúp đỡ thanh niên ngăn ngừa có thai ngồi ý muốn, cần phải tạo điều kiện cho trẻ vị
thành niên hiểu biết về tình dục, về nguy cơ có thai, cách thức ngăn ngừa có thai ngồi ý muốn,
và biết những nơi có thể tham vấn về tình dục trước khi chúng bắt đầu sinh hoạt tình dục. Việc
cung cấp dịch vụ ngừa thai cần được tổ chức để có thể đến được đối tượng thanh niên trẻ. Tình
trạng có thai sớm ngồi ý muốn phần lớn có thể dự phịng và giảm đáng kể nếu chúng ta chấp
nhận rằng vị thành niên là đối tượng bắt đầu hoạt động tình dục và cung cấp cho các em đầy đủ
thông tin và phương tiện để ngừa thai. Bằng khơng, việc có thai ngồi ý muốn và tình trạng phá
thai ở thanh niên trẻ sẽ tiếp tục gia tăng với những hệ lụy nguy hiểm cho từng cá nhân và xã
hội.


Cuộc sống hồn tồn khơng dễ dàng đối với trẻ vị thành niên, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế xã
hội hiện nay, đặc biệt đối với những trẻ không được chuẩn bị đầy đủ để đối mặt với các vấn đề
đặc thù của lứa tuổi. Thực trạng hiện nay đã và đang cho thấy điều đó. Nếu chúng ta mong đợi
trẻ vị thành niên những quyết định đúng đắn, có trách nhiệm trước những cạm bẫy và thách
thức của xã hội, chúng ta phải đảm bảo trẻ vị thành niên được cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ
năng và phương tiện để quyết định và các giá trị chúng cần tôn trọng và thực hiện. Chúng ta cần
nhận thức rằng đã đến lúc để đặt kế hoạch cho tương lai và chúng ta hồn tồn có thể thực hiện
được điều đó. Giáo dục giới tính cho vị thành niên: Chậm trễ là có tội


24/07/2009 10:23 (GMT +7)



<b>Một nửa dân số Việt Nam ở độ tuổi dưới 25, thụ hưởng một cuộc sống tốt hơn so với bố </b>
<b>mẹ chúng nhưng hành trang vào đời vẫn còn một lỗ hổng kiến thức lớn về giới tính. </b>


Một nghiên cứu của Trung ương Đồn TNCSHCM cho thấy phần đơng lớp trẻ khơng được học
các vấn đề về giới tính, SKSS khi ngồi trên ghế nhà trường, vì thế giới trẻ đang đứng trước rất
nhiều nguy cơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tuổi vị thành niên là giai đoạn phát triển đặc biệt của cuộc đời con người, là độ
tuổi chịu ảnh hưởng rất mạnh của các điều kiện văn hoá, giáo dục của gia đình



và xã hội


Việc soạn thảo chương trình đã bắt đầu từ những năm 1980. Nhiều khó khăn được nêu lên khi
thực hiện chương trình này, phụ huynh chưa nhất trí cao về việc giảng dạy mơn này, “vẽ đường
cho hươu chạy”, giáo viên cũng e ngại khi lên lớp – điểm yếu nhất hiện nay là vị thành niên
(VTN) ít được tiếp cận với thơng tin về SKSS hoặc thông tin không đầy đủ, khi gặp khó khăn họ
khơng biết tìm sự trợ giúp ở đâu.


Thật ngạc nhiên khi hiểu biết của VTN về SKSS được mô tả như trên nhưng một quan chức
ngành giáo dục lại cho rằng GDGT phải 20 năm nữa mới thực hiện được. Dù chương trình
GDGT đưa vào nhà trường có chậm nhưng cịn hơn là khơng bao giờ hoặc quá chậm trễ. Nên
nhớ rằng những số liệu về tình hình SKSS VTN nói trên đã có ngay từ khi chương trình GDGT
chưa đưa vào nhà trường, là hậu quả của việc để trẻ lớn lên tự nhiên như vây cỏ, khơng có hiểu
biết để tự bảo vệ.


<b>Khủng hoảng tâm lý tuổi VTN</b>


Con người ngày nay sống thọ hơn và cũng trưởng thành sớm hơn. Xã hội tiến nhanh đến mức
tạo ra giữa các thế hệ một khoảng cách về tâm lý, sở thích, lối sống, các giá trị… và hậu quả là
càng ít hiểu nhau hơn. Cha mẹ cần hiểu về lứa tuổi VTN nhiều hơn, đó là cách tốt nhất giúp VTN
vượt qua những khủng hoảng của lứa tuổi và để giảm bớt sự cách biệt giữa các thế hệ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Những biến đổi quan trọng ở tuổi VTN: Những biến đổi thể chất và tinh thần luôn song hành, tuổi
VTN bản thân nó là một “giai đoạn khổ ải”. Cơ thể thay đổi và VTN phải chống chọi với nhiều áp
lực có tính xung năng – nhất là xung năng tính dục và hầu hết các em ở lứa tuổi ln băn khoăn,
xao động về hình ảnh bản thân.


Quá trình khám phá bản thân là q trình hình thành nhân cách, chính trong giai đoạn này nhiều
khi VTN rơi vào tình trạng hoang mang, dao động, mất phương hướng đến mức có thể xem tuổi


VTN về bản chất như là tuổi hay có những rối nhiễu tâm trí: Hồi nghi, coi thường các giá trị, lo
hãi nhưng cũng bộc lộ con người thật và muốn tự khẳng định. VTN cần phá cách để xây dựng,
muốn từ bỏ tuổi thơ để tạo lập một phương thức quan hệ mới với xã hội.


<i>Giới hạn “bình thường” và bệnh lý của hành vi ở tuổi VTN:</i> Điều khơng “bình thường” lại chính là
những biểu hiện vượt q mức bình thường: Nói ln miệng, bốc, tình cảm q khích, trứng cá
đầy mặt… Tuổi VTN là tuổi rất dễ tự ái và nhạy cảm với mọi ánh mắt và lời nói của người xung
quanh, nhất là của bạn bè. Nhu cầu hoà nhập với nhóm bạn chuyển thành ý chí muốn vượt qua
tính rụt rè, nhút nhát và để được bạn khác giới yêu mến. Con trai hay tỏ ra trịch thượng, coi
thường con gái và con gái thì hay làm dáng rất lộ liễu. Mọi biểu hiện đó đều là bình thường, kể
cả tính hung hăng, gây gổ vì giai đoạn này các em đang dồi dào sức sống. Tuy nhiên, khi hành vi
vượt quá mức bình thường thì có thể là một triệu chứng bệnh lý.


<i>Nhận biết triệu chứng bệnh lý:</i> Khi nhận thấy VTN có những rối loạn như mỏi mệt, mất ngủ, nhức
đầu, ăn quá nhiều, dị ứng, cả những trạng thái như khi thì lo sợ khi thì liều lĩnh, sợ bị cơ lập,
khơng chịu đến trường, hay gây chuyện, hiếu động, hung bạo hoặc lặng lẽ, ít nói… nhưng triệu
chứng đáng ngại nhất lại là những biểu hiện trì trệ, thiếu năng động.


Trong sự phát triển của tuổi dậy thì (về sinh lý, tâm trí và thể chất ranh giới của trạng thái bình
thường và bệnh lý nhiều khi khó xác định. Nguyên nhân của những biến đổi bệnh lý không bắt
nguồn từ quá trình dậy thì mà từ các yếu tố bẩm sinh, cấu tạo tinh thần và sức nặng di truyền.
Những cá thể chịu áp lực của những yếu tố đó khơng thể đối phó được với những đòi hỏi của
một cơ thể đang phát triển cho nên cuối cùng đã phát sinh các biểu hiện bệnh lý.


Ví dụ, trầm cảm thường được coi là một trạng thái bình thường của tuổi dậy thì lại có thể báo
hiệu bệnh sa sút trí tuệ sớm nhưng bệnh lý này có thể qua đi khi chấm dứt giai đoạn biến động
gay gắt nhất của tuổi dậy thì. Trong cuốn sách “Bệnh học giới tính” Hirschfeld đã nói về những
khủng hoảng của tuổi dậy thì, nêu lên những rối nhiễu thần kinh và tâm lý. Theo ông, những bất
thường đo liên quan trực tiếp đến giai đoạn khủng hoảng của tuổi dậy thì với nhiều biểu hiện từ
nhẹ đến nặng như tính ăn cắp vặt, thích đi lang thang, thích đốt nhà, thích đặt chuyện hoang


đường và cả tự tử.


Khi các bậc cha mẹ nhận thấy con cái có những biểu hiện bất thường đừng vội hốt hoảng, lắng
nghe ý kiến của chúng chứ không vội phản đối, tôn trọng sự khác biệt kể cả khi chúng sống
không ngăn nắp lắm, phòng bừa bộn, ăn mặc như bụi đời hay như siêu sao. Bị áp đặt một lối
sống do người lớn đặt ra là điều khó chịu với VTN và dễ gây phản ứng. Ngược lại quá quan tâm
cũng làm cho VTN cảm thấy gị bó vì nhân cách đang cịn biến động và chính VTN cũng chưa
hiểu nổi mình. Khơng coi nhẹ mọi vấn đề của VTN, làm sao để các em giữ được lòng tin vào cha
mẹ vì lúc này các em vẫn cần có cảm giác an tồn. Chúng cần cảm thấy sự hiện diện của cha
mẹ nhưng không muốn cha mẹ quá sốt sắng với cuộc sống của chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

VTN có những thay đổi về sinh lý, xúc cảm, nội tiết có ảnh hưởng đến hành vi tình dục, các hoạt
động tình dục xảy ra ở lứa tuổi này thường không dự kiến trước và không thường xuyên, thường
khơng tin rằng những nguy cơ về hành vi tình dục có thể xảy ra với chính mình (có thai, lây
nhiễm bệnh…). Không mấy khi chủ động chuẩn bị các biện pháp tránh thai, hoạt động tình dục
thường do những địi hỏi bên ngồi vấn đề tình dục, ví dụ: Do nể nang, do xúc động, đặc biệt
nhạy cảm với những ảnh hưởng tương đồng.


Tính cách dễ xấu hổ của nam nữ VTN cũng là một trong những tính cách thường thấy có thể gây
trở ngại cho vấn đề bảo vệ sức khoẻ: Các em thích sự kín đáo, riêng tư vì vậy khi gặp khó khăn
trong đời sống (ví dụ có biến cố do quan hệ u đương) các em khơng thích đến các phịng
khám nên thường hay bị chậm trễ, ngại dùng các biện pháp tránh thai vì lo lắng bố mẹ, bạn bè
biết.


Nhiều trung tâm chăm sóc sức khoẻ cho VTN đã tạo ra một bối cảnh gần gũi dễ tiếp cận hơn cho
VTN chứ không phải là một khung cảnh giống như phòng khám hay bệnh viện


Trong bối cảnh xã hội ngày nay (những nguy cơ đe doạ của đại dịch AIDS, VTN quan hệ tình
dục, sử dụng ma tuý) gia đình và nhà trường cần làm sao để các em biết sợ sự lây nhiễm
HIV/AIDS (tỷ lệ VTN biết sợ lây nhiễm HIV là bao nhiêu quan trọng hơn nhiều thơng tin khác) vì


đó là cơ sở để các em thay đổi hành vi.


Ngày nay xã hội nhìn nhận nhân cách phổ biến nhất ở lứa tuổi VTN như thế nào? Còn cần thêm
các khảo sát xã hội học, nhiều xã hội vẫn nhìn nhận VTN là những người chưa phát triển đầy đủ,
thiếu trách nhiệm và chưa có khả năng để quyết định trong cuộc đời. Bởi thế, VTN phải trải qua
một giai đoạn dài khi họ không được coi là trẻ con nhưng cũng chưa được xem là người lớn.
VTN biết về tình dục và có hoạt động tình dục là do sự phát triển tâm sinh lý, do nhiều ảnh
hưởng của đời sống hiện đại và thường sớm hơn sự mong đợi của người lớn và xã hội.


Một đặc điểm nhân cách của VTN là bất mãn với người lớn nhưng lại luôn bắt chước người lớn
(Jame Baldwin). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tuổi VTN là lực lượng quan trọng làm thay đổi
xã hội chứ không phải chỉ là nỗi phiền muộn của gia đình và xã hội. Tuổi VTN là một hiện tượng
văn hoá cho nên chịu ảnh hưởng từng giai đoạn phát triển của xã hội và mỗi thế hệ VTN có
những vấn đề đặc thù mà gia đình và cộng đồng phải đối diện. Những thế hệ VTN trước đây ở
nước ta, chưa có vấn đề ma tuý như hiện nay. Vào những năm 60 thế kỷ trước ở Mỹ, chính sinh
viên Mỹ là lực lượng tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống chiến tranh ở Việt Nam, góp
phần làm cho chính phủ Mỹ phải thay đổi chính sách.


Trong Hội thảo cơng bố kết quả Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam,
ngày 26 tháng 8 năm 2005 cũng có những nhận định về VTN như sau:


Thanh thiếu niên Việt Nam ngày nay lạc quan và tràn đầy hy vọng. Họ nhìn thấy tương lai với
những cơ hội rộng mở hơn cha mẹ mình ngày trước. Họ thấy được giá trị của nhà trường, công
việc và phần lớn khơng có những hành vi gây hại cho bản thân…


Thanh thiếu niên Việt Nam hiện có tỷ lệ sử dụng thuốc lá cao và các chất gây nghiện khác tương
đối thấp, ít bạo lực giữa các cá nhân, vấn đề tự tử khơng phổ biến và hành vi tình dục nguy cơ
cao cũng không nhiều. Thanh thiếu niên Việt Nam đồng thời cũng có nhiều hồi bão về học tập
và làm việc. Vậy mục tiêu trong thời gian tới phải là tiếp tục duy trì sức khoẻ và hạnh phúc của
thanh thiếu niên đồng thời cải thiện các cơ hội kinh tế và xã hội nói chung cho họ” (Trích trang 4,


phần tóm tắt Thơng tin).


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Tuổi VTN là giai đoạn phát triển đặc biệt của cuộc đời con người, là độ tuổi chịu ảnh hưởng rất
mạnh của các điều kiện văn hố, giáo dục của gia đình và xã hội, đồng thời cũng là lứa tuổi gây
nhiều lo ngại cho các bậc cha mẹ và cho cộng đồng vì các nghiên cứu xã hội học ở nhiều nước
đều đã nêu lên những hành vi đáng lo ngại của lứa tuổi này.


<i>Nguồn gốc của nguy cơ: </i>Có một giai đoạn quan trọng mở màn cho những tác động tâm lý – tình
cảm tiêu cực mà VTN phải vượt qua là giai đoạn các em gặp một hoàn cảnh, một sự cố không
thuận lợi xảy đến, khiến các em phải đối diện với những tác động stress (cơng kích tâm lý hay
căng thẳng thần kinh đến mức làm cho cơ thể mất thăng bằng và phát sinh bệnh). Những tác
nhân gây stress rất đa dạng, từ nhỏ đến lớn, từ sinh lý đến tâm lý: Những bực bội ở trường, bất
mãn với chính bản thân, mắc bệnh mạn tính, xích mích với bạn, mơi trường sống khơng an tồn
(bất hồ với hàng xóm), mất người thân yêu, cha mẹ chai tay (với một số VTN thì việc cha mẹ li
dị và phải sống với những người xa lạ, bố dượng hay mẹ kế hay các anh chị em không cùng cha
mẹ sinh ra là những điều “khơng chịu nổi”), gia đình khó khăn, mất hy vọng…


</div>

<!--links-->

×