Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Quy hoạch lâm nghiệp huyện tam nông tỉnh phú thọ giai đoạn 2012 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.64 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------

LÊ THỊ THU THUỶ

QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN TAM NÔNG - TỈNH PHÚ THỌ
GIAI ĐOẠN 2012 - 2020

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------

LÊ THỊ THU THUỶ

QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN TAM NÔNG - TỈNH PHÚ THỌ
GIAI ĐOẠN 2012 - 2020

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BẢO LÂM

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và trải dài theo nhiều vĩ độ,
với 2/3 diện tích đất đồi núi, do đó tài ngun rừng có vai trị đặc biệt trong cơng
cuộc phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường ở nước ta. Do nhiều nguyên
nhân khác nhau như sức ép gia tăng dân số, du canh du cư, đốt nương làm rẫy,
khai thác rừng khơng kiểm sốt, cháy rừng, chiến tranh,... nên diện tích và chất
lượng rừng nước ta bị suy giảm liên tục trong thời gian dài, đặc biệt trong giai
đoạn 1980 - 1985 trung bình mỗi năm chúng ta mất đi khoảng 235.000 ha rừng.
Từ năm 1990 trở lại đây, diện tích và độ che phủ rừng đã tăng lên liên tục
nhờ trồng rừng và phục hồi rừng tự nhiên, đặc biệt là chương trình 327 (phủ
xanh đất trống đối núi trọc); Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; chỉ thị số 286/TTg
ngày 02/05/1997 cấm khai thác rừng tự nhiên của Chính phủ,... cùng với sự hỗ
trợ của nhiều dự án quốc tế như PAM, KfW (Đức); JICA (Nhật Bản),.... Theo
thống kê đến 31/12/2009, diện tích rừng tồn quốc là 13.258.843 ha (độ che phủ
39,1%) (Quyết định 2140/QĐ-BNN-TCLN).
Mặc dù, diện tích rừng tăng nhưng trữ lượng và chất lượng rừng chưa
được cải thiện rõ rệt, chủ yếu rừng tự nhiên hiện nay thuộc đối tượng rừng nghèo
kiệt, giá trị kinh tế, phịng hộ, đa dạng sinh học,... khơng cao. Rừng trồng sản
xuất mới chỉ là rừng trồng nguyên liệu, gỗ nhỏ. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay,

việc xây dựng phương án qui hoạch phát triển lâm nghiệp hợp lý cho từng vùng,
địa phương cụ thể đang được các nhà quản lý rất quan tâm đặc biệt từ khi thực
hiện việc rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng theo Chỉ thị 38/2005/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ năm 2006.
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện là vấn đề cần thiết, được tiến hành theo
từng giai đoạn nhằm phát huy vai trò chỉ đạo, định hướng đối với sản xuất lâm
nghiệp trên địa bàn huyện. Những năm qua, một số địa phương trong cả nước đã
thực hiện công tác quy hoạch lâm nghiệp song vẫn cịn có những bất cập. Việc
đánh giá hiện trạng sử dụng đất đai, tài nguyên rừng và quy hoạch lâm nghiệp


2

cấp huyện chưa được thực hiện kịp thời và toàn diện trên cơ sở nhìn nhận cả 3
yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường và sự thu hút được sự tham gia của người dân
và cộng đồng còn hạn chế. Ngoài ra, mục tiêu và nội dung của quy hoạch thường
chưa quan tâm một cách thoả đáng tới những lợi thế và thách thức cũng như tiềm
năng cung cấp các nguồn lực và nhu cầu lâm sản đầu ra của các hoạt động sản
xuất nên vai trò của phương án quy hoạch còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, quá trình
đổi mới của nền kinh tế, phương thức quản lý sử dụng đối với các nguồn tài
nguyên trong đó có tài nguyên đất và rừng cũng có nhiều thay đổi.
Tam Nơng là huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ, có tổng diện tích tự
nhiên là 15.596,92 ha, trong đó diện tích đất quy hoạch cho Lâm nghiệp là
3.781,7 ha, chiếm 24,25% diện tích tự nhiên tồn huyện. Địa hình với những nét
đặc trưng của một vùng bán sơn địa, mặc dù tỷ lệ diện tích rừng so với tổng diện
tích tự nhiên của huyện khơng lớn (24,25%) nhưng do có vị trí gần các khu đơ
thị, gần thị trường tiêu thụ lâm sản nên việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả diện
tích rừng và đất rừng sẽ phát huy cao nhất khả năng phịng hộ, bảo vệ mơi
trường sinh thái làm “xanh, sạch, đẹp” các khu đô thị, các khu dân cư và phát
triển kinh tế-xã hội của huyện Tam Nơng.

Kết quả rà sốt 3 loại rừng đã làm thay đổi quy mơ, vị trí, diện tích 3 loại
rừng và kế hoạch hàng năm trong công tác quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm
nghiệp nói chung và của huyện Tam Nơng nói riêng. Những thay đổi trên đòi hỏi
phải xây dựng lại phương án quy hoạch lâm nghiệp huyện Tam Nông cho phù
hợp với quy hoạch 3 loại rừng, tiếp cận các quan điểm mới trong quy hoạch
nhằm góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người dân trong vùng, thực
hiện xố đói giảm nghèo và đưa kinh tế xã hội miền núi phát triển hồ nhập với
tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng thơn là hết sức cần thiết.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, để xây dựng luận văn tốt nghiệp
chúng tôi thực hiện đề tài: “Quy hoạch lâm nghiệp huyện Tam Nông - tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2012-2020”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Thực chất của công tác quy hoạch nói chung là tổ chức khơng gian và thời
gian phát triển chung cho kinh tế - xã hội, môi trường hoặc một ngành, một lĩnh
vực sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại, phát
triển thì nhất thiết phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý, mà trong
đó công tác điều tra cơ bản phục vụ cho quy hoạch phát triển phải được đi trước
một bước. Quy hoạch lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng
thể phát triển nông thôn và thuộc phạm trù của quy hoạch vùng.
1.1. Trên thế giới
Chúng ta biết rằng việc quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo
hướng bền vững nói chung và tài nguyên rừng nói riêng đã và đang được các
nhà khoa học trong nước và trên thế giới quan tâm.
Tuỳ theo cách nhìn nhận về quy hoạch lâm nghiệp sao cho hợp lý đã

được nhiều tác giả đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa
ra một khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua
các khái niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm
về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên quan đến tài nguyên rừng
phải được xem xét một cách toàn diện và đồng thời đảm bảo sử dụng nó theo
hướng lâu dài và bền vững.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh
tế, bảo vệ mơi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, các đặc điểm xã hội và
nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên
thế giới luôn gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội lồi người. Quy hoạch
lâm nghiệp ln phụ thuộc vào Quy hoạch vùng và Quy hoạch cảnh quan
trong quá trình xây dựng phương án quy hoạch.


4

1.1.1. Quy hoạch vùng
Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát
triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
- Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản
xuất của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân
tộc đó được phát triển đến mức độ nào”
Như vậy, sức lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
phân bố lực lượng sản xuất.
- Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên
kinh tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản xuất”.
Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất
cho một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm tàng và
tương lai phát triển của vùng đó.

Dựa trên học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu các
hướng cụ thể về kế hoạch hóa phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ
nghĩa. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo các nguyên tắc sau:
- Phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên tồn bộ lãnh thổ của đất
nước, tỉnh, huyện nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động
của tất cả các vùng và quá trình tái sản xuất mở rộng.
- Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của
từng tỉnh và từng huyện.
- Đưa các xí nghiệp công nghiệp đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế
chi phí vận chuyển.
- Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện
nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tiềm năng thiên nhiên.


5

- Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân
bố hợp lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện.
Trên cơ sở đó, tơi tìm hiểu quy hoạch vùng ở một số nước trên thế giới
như sau:
1.1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari
a) Mục đích của quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari:
+ Sử dụng có hiệu quả nhất lãnh thổ của quốc gia.
+ Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm bảo đảm tái sản xuất
mở rộng.
+ Xây dựng một môi trường sống đồng bộ.
b) Quy hoạch lãnh thổ quốc gia được phân thành các vùng:
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.
+ Lãnh thổ thiên nhiên khơng có vùng nơng thơn, sự tác động của con
người vào đây rất ít.

+ Lãnh thổ thiên nhiên có mạng lưới nơng thơn, có sự tác động vừa
phải của con người thuận lợi cho việc nghỉ ngơi, an dưỡng.
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp khơng có mạng lưới nơng thơn,
nhưng có sự tác động của con người.
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nơng thơn, có sự
can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
+ Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực
của con người.
Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước, tiến hành quy hoạch lãnh
thổ vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương. Đồ án quy hoạch lãnh thổ vùng
bao gồm các vùng lớn có ranh giới lớn hơn hoặc bằng một tỉnh. Nhiệm vụ
khảo sát quy hoạch lãnh thổ vùng, trong đó có quy hoạch vùng nơng nghiệp là
sự bố trí đúng đắn và hợp lý các hoạt động khác nhau trên lãnh thổ vùng, sử


6

dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên kết với các
mơi trường sống, hồn thiện mạng lưới nông thôn.
c) Nội dung của quy hoạch:
Đồ án quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể hiện quy hoạch chi tiết các
Liên hiệp nông - công nghiệp và Liên hiệp công - nông nghiệp đồng thời giải
quyết các vấn đề sau đây:
+ Cụ thể hóa, chun mơn hóa sản xuất nông nghiệp.
+ Phối hợp hợp lý giữa sản xuất cơng nghiệp và sản xuất nơng nghiệp
với mục đích liên kết theo ngành dọc.
+ Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích cơng cộng và sản xuất.
+ Tổ chức hợp lý mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp
trong phạm vi hệ thống nông thôn.
+ Bảo vệ môi trường thiên nhiên của vùng lãnh thổ, tạo điều kiện tốt

cho người lao động nghỉ ngơi, sinh hoạt.
1.1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp:
Theo quan niệm chung của hệ thống các mơ hình quy hoạch vùng, lãnh
thổ. M.Thénevin (M. Pierre Thénevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu
một số mơ hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền Tây Nam
nước Cộng hồ Cơte D’ivoire như sau:
Trong mơ hình quy hoạch này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu
cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có quan hệ
với các vùng khác và với nước ngồi.
Thực chất mơ hình là bài tốn quy hoạch tuyến tính có cấu trúc:
a) Các hoạt động sản xuất:
+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và
trồng trọt cơng nghiệp với các mức thâm canh cường độ cao, thâm canh trung
bình và cổ điển (truyền thống).


7

+ Hoạt động khai thác tài nguyên rừng.
+ Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, các loại
hình dịch vụ....
b) Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông - lâm nghiệp.
c) Cân đối xuất nhập khẩu, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc
về diện tích đất, nhân lực, tiêu thụ sản phẩm:
Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng
thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mơ hình hố trong điều
kiện thực tiễn của vùng, so sánh với các vùng xung quanh và nước ngoài.
1.1.1.3. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Thái Lan:
Công tác quy hoạch phát triển vùng được chú ý từ những năm 70 của
thế kỷ trước. Về hệ thống phân vị, quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc

gia, Vùng, Á vùng hay Địa phương.
Vùng (Region) được coi như là một Á miền (Subdivision) của đất
nước, đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các Á miền theo các
phương diện khác nhau như bố trí dân cư, khí hậu, địa hình... đồng thời vì lý
do quản lý nhà nước hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như
đơn vị hành chính hay đơn vị bầu cử.
Quy mơ diện tích của vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích
của đất nước.
Thơng thường vùng có diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất. Sự
phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp Á miền được xây dựng theo
hai cách:
+ Thứ nhất: Sự bổ sung kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những
mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch vùng
được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
+ Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của
vùng, các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.


8

Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải có sự phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.
Dự án phát triển của Hoàng gia Thái Lan đã xác định được vùng nơng
nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế xã hội, chính trị ở Thái Lan và
tập trung xây dựng ở hai vùng: Trung Tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm
(1961- 1988 đến 1992 - 1996 ) tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông
nghiệp giảm từ 80% xuống 66,6%, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan
trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường.
1.1.2. Quy hoạch cảnh quan sinh thái

Thuật ngữ “cảnh quan - Landscape” là tổng thể lãnh thổ tự nhiên của
bất kỳ một quy mơ nào, có sự đồng nhất tương đối về một số hợp phần tự
nhiên nào đó, chúng mang tính chất kiểu loại và được phân loại theo các chỉ
tiêu dấu hiệu của sự đồng nhất đó. Cảnh quan được các nhà cảnh quan học
Trung Quốc lý giải theo 3 cách:
- Theo phương diện mỹ học, thì cảnh quan đồng nghĩa với từ “phong
cảnh”. Cảnh quan là đối tượng thẩm mỹ, mà rừng được xem là phong cảnh
(rừng phong cảnh)
- Theo phương diện địa lý thì cảnh quan là tổng hợp các thành phần
sinh vật, địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu trên bề mặt địa cầu. Khái niệm cảnh
quan này rất gần gũi với thuật ngữ hệ sinh thái hoặc quần lạc sinh địa.
- Cảnh quan sinh thái học. Cảnh quan là sự tổ hợp các hệ sinh thái khác
nhau trong một không gian. Một cảnh quan bao gồm sự tụ họp của một số hệ
sinh thái ở liền kề nhau có sự ảnh hưởng lẫn nhau, có chức năng liên quan hỗ
trợ và phát sinh đặc điểm nhất định trong một không gian.
Cảnh quan có thể thay đổi phụ thuộc vào hình dáng vật lý và vị trí như
đỉnh núi, hồ, biển hay đất liền. Cảnh quan cũng có thể chia thành cảnh quan
nơng thôn hay thành thị tùy thuộc vào mức độ “nhân tạo” của cảnh quan đó.


9

- Các nghiên cứu làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan sinh thái
Nghiên cứu tính đa dạng sinh học. Tính đa dạng sinh học đối với mơi
trường sống của con người có tầm quan trọng đặc biệt, sự đa dạng sinh học có
quan hệ chặt chẽ tới đa dạng cảnh quan, Vì vậy, các nhà sinh học ở Mỹ
(California), Nam phi, Chi lê, Australia (Mayer, Lugo, Wilson) đã tiến hành
nghiên cứu sự đa dạng sinh học để làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan các
khu vực rừng nguyên sinh. Duy trì tính đa dạng cảnh quan, đa dạng lồi và
tính đa dạng di truyền là một trong những mục tiêu chủ yếu của quản lý tài

nguyên thiên nhiên nói chung, quản lý rừng nói riêng.
Để làm cơ sở quy hoạch cảnh quan sinh thái cho các khu bảo tồn, các
nhà khoa học gồm Simpson, Shannnon-Weiner, Richness đã tập trung nghiên
cứu về chỉ số đa dạng sinh học. Chỉ số đa dạng sinh học là cơ sở đánh giá đa
dạng cảnh quan sinh thái khi tiến hành quy hoạch cảnh quan.
1.1.3. Quy hoạch lâm nghiệp
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh
tế Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu
cầu khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa
phương của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản
chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã khơng cịn bó hẹp trong việc sản xuất
gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo
thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý
luận quy hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hồn cảnh như vậy.
Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc
“Khoanh khu chặt luân chuyển”, có nghĩa đem trữ lượng hoặc diện tích
tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành
khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này
phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.


10

Sau Cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 Phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay bằng Phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai
thác dài. Và phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho
phương thức “Chia đều” của Hartig. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác
thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm.
Đến năm 1816, xuất hiện Phương thức luân kỳ lợi dụng của H. Cotta, Cotta
chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế

lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình qn thu hoạch” ra đời, quan điểm phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời
vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ 19,
xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương pháp này
khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản, Judeich cho rằng
những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào
diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh
tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng
khác nhau.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp
tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có
kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các
cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng
này được dùng phổ biến ở các nước có tài ngun rừng phong phú. Cịn
phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần”
không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần
tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ
phương pháp này, còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và
“Phương pháp kiểm tra”.


11

Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai
trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1946, Jack G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với
tên “phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài liệu đầu
tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại
vùng Rhodesia trước đây, nay là cộng hồ Zimbabwe, Bộ Nơng nghiệp đã

xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch
cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, Tạp chí
“East African Journal for Agriculture Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về
quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam châu Phi. Năm 1966, Hội Đất học của Mỹ và
Hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá
khả năng của đất và ứng dụng trong qui hoạch sử dụng đất.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Quy hoạch vùng chuyên canh cây trồng
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên
canh lúa nước ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long; các
vùng cây cơng nghiệp ngắn ngày: Vùng Mía đường (Thanh Hố, Quảng Ngãi,
Nghệ An); Vùng cây công nghiệp dài ngày: Vùng Cao su - Cà phê (Tây
Nguyên), Vùng Chè công nghiệp (Thái Nguyên)...
1.2.1.1. Tác dụng của quy hoạch vùng chuyên canh:
+ Xác định phương hướng sản xuất, chỉ ra những vùng chuyên mơn hố
và những vùng có khả năng hợp tác kinh tế.
+ Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp Nhà nước tập trung
đầu tư vốn đúng đắn.
+ Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất và sản phẩm
hàng hoá của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản
xuất, nhu cầu lao động.


12

+ Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển, nghiên cứu tổ chức quản lý
kinh doanh theo ngành và theo lãnh thổ.
Quy hoạch vùng chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí
cơ cấu cây trồng với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng tập trung
để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và chất

lượng sản phẩm cây trồng, đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho
từng cơ sở sản xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, lập kế hoạch của các
cơ sở sản suất.
1.2.1.2. Nội dung của quy hoạch vùng chuyên canh:
+ Xác định quy mô, ranh giới vùng.
+ Xác định phương hướng chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất.
+ Bố trí sử dụng đất đai.
+ Xác định quy mơ, ranh giới, nhiệm vụ chủ yếu cho các công ty trong
vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp.
+ Xác định hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống.
+ Tổ chức và sử dụng lao động.
+ Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế.
+ Dự kiến tiến độ thực hiện quy hoạch.
1.2.2. Quy hoạch cảnh quan sinh thái
Quy hoạch cảnh quan là một qúa trình xây dựng kế hoạch quản lý đất
đai cho một vùng đất trên cơ sở nghiên cứu sinh thái cảnh quan, nghiên cứu
đến thế giới sinh vật, vật chất và năng lượng có thể tồn tại và lưu thơng ngay
trong Cảnh quan đó.
Con người là một thành phần của thiên nhiên, tác động của con người
tới thiên nhiên là một yếu tố then chốt ảnh hưởng tới các chức năng của Cảnh
quan. Sinh thái cảnh quan giúp xác định những khiếm khuyết của chúng ta
trong quá khứ, và cũng như vậy giúp ta xác định cách tiếp cận tốt hơn để có


13

thể đáp ứng nhu cầu của con người mà không gây ảnh hưởng không bền vững
tới các hệ sinh thái tự nhiên. Mục tiêu của quy hoạch cảnh quan là để bảo vệ
các thành phần chủ yếu của hệ sinh thái cảnh quan và giữ lại các dòng chuyển
động sống và … Một mục tiêu khác là hướng các hoạt động của con người

khỏi những nơi dễ bị tổn hại sinh thái.
Một Cảnh quan khơng có một kích thước cố định, do vậy quy hoạch
cảnh quan có thể thực hiện ở những quy mơ khác nhau.
Thành phần chính của cảnh quan có thể chia thành 2 loại là tự nhiên/
sinh thái, như rừng, sông hồ và nhân tạo như đất canh tác, thôn bản vv... Các
yếu tố cảnh quan nhân tạo lại có thể chia thành các yếu tố sản xuất, văn hóa,
lịch sử vv...
Mối tương quan tỷ lệ về thành phần cùng quan hệ tương hỗ giữa hai
thành phần này luôn biến đổi theo thời gian, điều này làm cho cảnh quan kiến
trúc luôn vận động và phát triển.
Theo Nguyễn Thế Thôn “Cảnh quan sinh thái là tổng thể lãnh thổ hiện
tại, có cấu trúc cảnh quan địa lý và có chức năng sinh thái của các hệ sinh thái
đang tồn tại và phát triển trên đó. Các cảnh quan sinh thái được phân biệt với
nhau theo cấu trúc cảnh quan và theo chức năng sinh thái khác nhau trên các
phần lãnh thổ khác nhau”
- Việc nghiên cứu cảnh quan trong lâm nghiệp đã được Nguyễn Văn
Khánh vận dụng trong đề tài “Góp phần nghiên cứu phân vùng lập địa lâm
nghiệp Việt Nam” (luận văn PTS). Tác giả xác lập cho toàn quốc theo 6 cấp
phân vị: Miền - á miền - vùng - tiểu vùng - dạng đất đai - dạng lập địa. Trong
đó 4 cấp phân vị đầu áp dụng cho vùng lớn, 2 cấp sau là đơn vị phân loại cơ
bản (vi mô) thường được sử dụng trong điều tra đánh giá ở phạm vi hẹp (xã,
lâm trường, tiểu khu, khoảnh). Đề tài mới dừng lại nghiên cứu ở 4 cấp phân vị
đầu, căn cứ vào các yếu tố: chế độ nhiệt mùa đông, chế độ mưa, địa mạo, kiểu


14

khí hậu, kiểu địa hình và nhóm đất để chia toàn quốc thành: 2 miền, 4 á miền,
12 vùng lập địa, 407 tiểu vùng lập địa. Dựa vào kết quả đạt được, tác giả đề
xuất những định hướng lớn trong sản xuất kinh doanh lâm nghiệp như về

chọn loài cây trồng rừng, xác định các tiểu vùng phòng hộ đầu nguồn, lập kế
hoạch sản xuất lâm nghiệp trong năm theo á miền, lập các trạm trại nghiên
cứu lâm nghiệp.
- Các tác giả Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình chủ biên cơng trình
“Đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp Việt Nam” (2001). Trong cơng
trình các tác giả đã tiến hành đánh giá đất lâm nghiệp trong phạm vi toàn quốc
trên 8 vùng kinh tế sinh thái lâm nghiệp, ở trên 4 đối tượng chính: đất vùng
đồi núi, đất cát biển, đất ngập mặn sú vẹt, đất chua phèn. Qua nghiên cứu các
tác giả đã đề xuất được các vùng thích hợp đối với một số lồi cây trồng[7].
- Trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam căn cứ vào phân
vùng kinh tế - sinh thái để xây dựng kế hoạch phát triển lâm nghiệp cho từng
vùng: Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam
Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Nam bộ[5].
- Các mơ hình quy hoạch cảnh quan trong lâm nghiệp có: Quy hoạch
khơng gian Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang - Hà Tĩnh. Quy hoạch không
gian Vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa....Trong các phương án quy hoạch
cho các khu rừng đặc dụng này đã đề xuất và chấp nhận sự tham gia của cộng
đồng vào hoạt động quản lý bảo vệ , vì vậy đã nâng cao được nhận thức, hạn
chế xung đột giữa hoạt động của con người với nhiệm vụ bảo tồn đa dạng
sinh học.
- Gần đây (tháng 10/2009), với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới
(WB), tại Thừa Thiên Huế đã tiến hành hội thảo quy hoạch cảnh quan cho 7
xã thuộc 3 huyện. Các vấn đề nêu ra tại hội thảo đang còn là bước đi đầu tiên
trong việc tiếp cận một cách nhìn mới trong quy hoạch sử dụng đất lâm


15

nghiệp (QHSDĐLN), thậm chí mới dừng lại ở phương pháp QHSDĐLN có
sự tham gia của cộng đồng dân cư và cấp chính quyền sở tại....

Vì vậy, nghiên cứu và ứng dụng phương pháp quy hoạch cảnh quan vào
trong QHSDĐLN là vấn đề tương đối mới lạ, mặc dù công tác QHSDĐLN đã
và đang thực hiện đều trên cơ sở đề cập và phân tích đầy đủ các yếu tố tự
nhiên, kinh tế - xã hội.
1.2.3. Quy hoạch lâm nghiệp
Quy hoạch lâm nghiệp là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt
khơng gian tài ngun rừng và bố trí các hạng mục sản xuất kinh doanh các
cấp quản lý lãnh thổ và các cấp quản lý sản xuất khác nhau làm cơ sở cho việc
lập kế hoạch cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản
cho nền kinh tế quốc dân, cho nền kinh tế địa phương, đồng thời phát huy
những tác dụng có lợi từ rừng.
Công tác quy hoạch lâm nghiệp được triển khai dựa trên những chủ
trương, chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội và chính quyền các
cấp trên từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch lâm nghiệp phải
đạt được:
- Hoạch định rõ ràng ranh giới đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất
do các ngành khác sử dụng. Trong đó, đất nơng nghiệp, đất lâm nghiệp được
quan tâm hàng đầu vì hai ngành chính sử dụng đất đai.
- Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định, tiến hành hoạch định 3 loại
rừng (phịng hộ, đặc dụng, sản xuất). Từ đó, xác định các giải pháp lâm sinh thích
hợp với từng loại rừng và đất rừng (bảo vệ, làm giàu, khoanh nuôi phục hồi, trồng
mới, nuôi dưỡng, nông lâm kết hợp, khai thác lợi dụng rừng...).
- Tính tốn nhu cầu đầu tư (chủ yếu nhu cầu lao động, vật tư thiết bị và nhu
cầu vốn). Vì phương án quy hoạch nên việc tính tốn nhu cầu đầu tư chỉ mang
tính khái qt, phục vụ cho việc lập kế hoạch sản xuất ở những bước tiếp theo.


16

- Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy

hoạch (giải pháp lâm sinh, khoa học cơng nghệ, cơ chế chính sách, giải pháp
về vốn, lao động...).
- Đổi mới một số phương án quy hoạch có quy mơ lớn (cấp vùng, tỉnh)
và đề xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai bước tiếp theo là
lập dự án đầu tư quy hoạch báo cáo nghiên cứu khả thi.
Những nghiên cứu về quy hoạch lâm nghiệp nói chung ở Việt Nam
Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng vào nước ta từ thời Pháp thuộc. Như
việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi, điều chế rừng
Thông nhựa theo phương pháp hạt đều...
Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám và mô tả để ước lượng tài
nguyên rừng. Năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc.
Cho đến năm 1960 - 1964 công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp dụng ở
miền Bắc. Từ năm 1965 cho đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày
càng được tăng cường và mở rộng.
Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng Điều tra
quy hoạch của Sở NN & PTNT các tỉnh, không ngừng cải tiến cũng như áp
dụng các phương pháp điều tra hiện đại, quy hoạch lâm nghiệp của các nước
cho phù hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng của nước ta. Tuy nhiên,
so với lịch sử phát triển của các nước thì quy hoạch lâm nghiệp ở nước ta hình
thành, và phát triển muộn hơn rất nhiều.
Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, và tài nguyên rừng
làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải quyết triệt để,
nên công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu
áp dụng [33].
Theo Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 2020 một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp & PTNT đánh giá là:


17

“Công tác quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới,

chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính
bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết
lập được lâm phần ổn định trên thực địa... ”. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề có
tính chất lâu dài và cấp bách đối với công tác quy hoạch lâm nghiệp của nước
ta hiện nay [5].
Các văn bản, chính sách của Nhà nước đề cập đến quy hoạch phát triển
lâm nghiệp thể hiện qua:
+ Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (năm 1992)
khẳng định ''Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất
cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài''.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm (năm 2004) phân định rõ 3 loại
rừng (Đặc dụng, Phòng hộ, Sản xuất) làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm
nghiệp [19].
Luật Đất đai (năm 2003) quy định rõ 3 nhóm đất với 6 quyền sử dụng,
tuỳ theo từng nhóm đất và mục đích sử dụng mà giao cho các tổ chức cá nhân
quản lý và sử dụng [18].
Theo biên bản hội thảo quốc gia về "Quy hoạch sử dụng đất và giao
đất lâm nghiệp'' năm 1997, có nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu tính
thống nhất giữa hai luật: Luật Đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng trong
quy hoạch và giao đất nông nghiệp và lâm nghiệp, xác định rõ vai trò của địa
phương trong quy hoạch lâm nghiệp và giao đất, giao rừng [15].
Năm 1999, ngành lâm nghiệp thực hiện tổng kiểm kê rừng toàn quốc,
theo Chỉ thị 286/TTg ngày 02/5/1997 của Thủ tướng chính phủ, nhằm chuẩn
bị thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp,
nhiều địa phương đã tiến hành lập dự án quy hoạch lâm nghiệp. Kể từ đó
cơng tác quy hoạch lâm nghiệp được các địa phương hết sức quan tâm. Song
song với việc tiến hành áp dụng công tác quy hoạch lâm nghiệp vào thực tiễn



18

sản xuất, môn học quy hoạch lâm nghiệp được đưa vào chương trình giảng
dạy ở các trường đại học chuyên ngành ở nước ta [33].
Trong những năm qua huyện Tam Nông đã xây dựng được quy hoạch
sử dụng đất đai giai đoạn 2001 - 2010, hàng năm đều tiến hành thống kê, theo
dõi biến động các loại đất [27]. Huyện cũng đã xây dựng quy hoạch phát triển
lâm nghiệp, tiến hành rà soát, sắp xếp lại tổ chức và các hoạt động sản xuất
kinh doanh lâm nghiệp. Đã có một số dự án lâm nghiệp triển khai thực hiện
trên địa bàn huyện: Lâm nghiệp xã hội; Dự án phát triển nông thôn miền núi;
Dự án trang trại; Dự án 327, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng; Chương
trình trồng rừng sản xuất theo hướng thâm canh...
Năm 2006, thực hiện Chỉ thị 38/2005/CT-TTg, của Thủ tướng Chính phủ,
tỉnh Phú Thọ đã tiến hành rà soát, quy hoạch lại 3 loại rừng (rừng phòng hộ, đặc
dụng và sản xuất). Kết quả rà sốt đã làm thay đổi quy mơ diện tích 03 loại rừng
trên tồn tỉnh cũng như diện tích rừng phịng hộ tại các huyện. Việc thay đổi quy
mơ diện tích đã làm thay đổi kế hoạch sản xuất của các chủ rừng và định hướng
phát triển lâm nghiệp trên địa bàn huyện. Sau đó năm 2008 huyện Tam Nơng
thực hiện việc điều chỉnh, bổ sung dự án 661 giai đoạn 2008-2013 cho phù hợp
với tình hình thực tế quy hoạch 3 loại rừng. Tuy nhiên nhiều tài liệu về quy
hoạch, dự án … qua quá trình sử dụng đã khơng cịn phù hợp với thực tiễn khách
quan và quy luật phát triển kinh tế xã hội của huyện. Trước tình hình đó, Tỉnh
uỷ và UBND tỉnh đã có nhiều văn bản chỉ đạo các ngành chức năng và huyện
Tam Nơng nghiên cứu, quy hoạch lại các diện tích rừng cho phù hợp, làm cơ
sở cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia
đình, nhằm quản lý bảo vệ chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quý
báu của huyện.


19


Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Về lý luận: Góp phần hồn thiện cơ sở khoa học cho quy hoạch lâm
nghiệp cho huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 - 2020 phát triển
ổn định, bền vững và phù hợp với quy hoạch 3 loại rừng và định hướng phát
triển chung của tỉnh, huyện.
Về thực tiễn
+ Xác định được cơ sở khoa học cho quy hoạch lâm nghiệp huyện
Tam Nông.
+ Xác định được các quan điểm và định hướng phát triển lâm nghiệp ổn
định trong giai đoạn 2012 - 2020 của huyện Tam Nông.
+ Đề xuất những nội dung cơ bản của quy hoạch lâm nghiệp huyện giai
đoạn 2012 - 2020.
2.2. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Rừng và đất lâm nghiệp của huyện
Tam Nông - tỉnh Phú Thọ.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Tồn bộ diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn 19 xã và 01 thị
trấn huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ.
- Các hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp, cơ chế chính sách, luật pháp liên quan.


20

2.4. Nội dung nghiên cứu

2.4.1. Cơ sở quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện Tam Nông
2.4.1.1. Cơ sở pháp lý: Tìm hiểu các luật, văn bản dưới luật và các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến quy hoạch lâm
nghiệp huyện Tam Nơng.
2.4.1.2. Phân tích cơ sở về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tài
nguyên đất, rừng.
2.4.1.3. Đánh giá hiện trạng quy hoạch lâm nghiệp và các hoạt động sản
xuất lâm nghiệp trước đây của huyện Tam Nông.
2.4.1.4. Đánh giá hiệu quả và tác động của sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp (Kinh tế; Xã hội và Môi trường)
2.4.1.5. Những dự báo cơ bản giai đoạn 2012-2020 của huyện Tam Nông
(Dự báo về dân số; Nhu cầu gỗ, củi, lâm sản và thị trường tiêu thụ; Về môi trường;
Nhu cầu sử dụng đất và Về phát triển khoa học công nghệ trong lâm nghiệp).
2.4.2. Đề xuất các nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện Tam Nông
2.4.2.1. Quan điểm phát triển lâm nghiệp huyện Tam Nông năm 2020.
2.4.2.2. Mục tiêu phát triển lâm nghiệp huyện Tam Nông đến năm 2020.
2.4.2.3. Định hướng phát triển lâm nghiệp huyện Tam Nông đến năm 2020.
2.4.2.4. Quy hoạch 3 loại rừng huyện Tam Nông (Quy hoạch Rừng sản
xuất; Quy hoạch Rừng phòng hộ và Quy hoạch 3 loại rừng theo chủ quản lý).
2.4.2.5. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Tam Nông giai
đoạn 2012 - 2020 (Quy hoạch Bảo vệ rừng; Quy hoạch phát triển rừng; Quy
hoạch khai thác rừng và Quy hoạch các hoạt động lâm nghiệp khác.)


21

2.4.3. Phân kỳ quy hoạch và tiến độ thực hiện
2.4.3.1. Phân kỳ quy hoạch
2.4.3.2. Tiến độ thực hiện
2.4.4. Ước tính vốn và hiệu quả đầu tư

2.4.5. Các giải pháp thực hiện
2.5. Phương pháp nghiên cứu:
2.5.1. Phương pháp điều tra điều kiện cơ bản và thu thập các tài liệu,
văn bản có liên quan phục vụ cho nghiên cứu về tác động kinh tế, xã hội và
môi trường.
Thu thập tài liệu theo 3 kênh thông tin:
1) Tham vấn các cơ quan quản lý: Chi cục lâm nghiệp tỉnh Phú Thọ,
Hạt kiểm lâm huyện Tam Nơng, Phịng Nơng nghiệp, Phịng TN&MT, Phịng
Thống kê huyện ... nhằm thu thập các văn bản, tài liệu, số liệu có liên quan.
2) Phỏng vấn các Chủ rừng và người dân: Công ty lâm nghiệp Tam
Thanh và 5 hộ dân. Nhằm tìm hiểu tình hình sử dụng đất của các chủ rừng,
các mơ hình trồng rừng và năng suất rừng.
3) Khảo sát thực địa: Một số trạng thái rừng có thay đổi trong thời gian
gần đây (trồng rừng mới, khai thác trồng lại rừng), cần kiểm tra kiểm chứng
lại cho phù hợp giữa bản đồ và thực tế.
2.5.2. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
- Xử lý số liệu bằng phần mềm Microsoft Excel: Hệ thống bảng, biểu,
phụ biểu kèm theo; phân tích các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
- Soạn thảo trình bày văn bản bằng Microsoft Word: Luận văn


22

- Xây dựng các loại bản đồ huyện Tam Nông bằng phần mềm Mapinfo 9.0.
+ Bản đồ Thổ nhưỡng.
+ Bản đồ hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp.
+ Bản đồ quy hoạch 3 loại rừng.
+ Bản đồ quy hoạch phát triển lâm nghiệp.
- Phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu (SWOT):
Đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã

hội; hiện trạng rừng, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
- Sơ đồ Venn mối quan hệ giữa lâm nghiệp với các ngành khác.
- Phương pháp chuyên gia tư vấn: Nhằm xây dựng các quan điểm, định
hướng phát triển lâm nghiệp huyện; các nội dung và giải pháp thực hiện quy hoạch.
- Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế một số hình thức kinh doanh
rừng sử dụng phương pháp động. Các chỉ tiêu kinh tế được tập hợp và tính
tốn bằng các hàm: NPV, BCR, BPV, CPV, IRR, trong chương trình Excel.
* Các tiêu chuẩn đánh giá:
- Giá trị hiện tại thuần tuý NPV: NPV là hiệu số giữa giá trị thu nhập và
giá trị chi phí thực hiện các hoạt động sản xuất trong các mơ hình khi đã tính
chiết khấu để quy về thời điểm hiện tại.
- Giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng (Net present value) là tổng giá trị hiện
tại của các khoản lợi nhuận đạt được trong cả chu kỳ kinh doanh của 1 chương
trình đầu tư nào đó (hay cịn gọi là giá trị đã được chiết khấu của lợi nhuận).
NPV 

Trong đó:

n

Bi

 Ci 

 1  r 
i 1

i



23

Bi: Thu nhập đạt được ở kỳ thứ i.
Ci: Chi phí bỏ ra ở kỳ thứ i.
(Bi –Ci): lợi nhuận đạt được ở kỳ thứ i.
r: tỷ lệ lãi suất vốn đầu tư.
(Nếu NPV >0: có lãi, NPV=0: hồ vốn, NPV<0: lỗ vốn).
- Tỉ lệ hoàn vốn nội tại IRR: Tỉ lệ hoàn vốn nội tại IRR (Internal Rate of
Return) là một hệ số mà nếu chương trình đầu tư vay vốn bằng đúng tỷ lệ đó sẽ hồ
vốn. Tức là nếu r = IRR thì : NPV(IRR) = 0. Hay:
NPV  
n

Bi  Ci 
1  IRR i
n

Bi

 1  IRR 

i

i 1


i 1

0


Ci
(1  IRR)

IRR: là chỉ số cho biết khả năng sinh lời tối đa của 1 chương trình đầu tư.
Trong đó 1 phần lợi nhuận sẽ được trả cho ngân hàng, phần còn lại mới thuộc
về người kinh doanh.
(Nếu IRR > r: có lãi, IRR = r: hoà vốn, IRR < 1: lỗ vốn).
- Tỷ suất thu nhập so với chi phí (BCR): Tỷ suất thu nhập so với chi phí
BCR (Benefits to Costs ratio) là tỷ lệ giữa giá trị hiện tại của thu nhập so với
giá trị hiện tại của chi phí trong cả chu kỳ kinh doanh của 1 chương trình đầu
tư nhất định.
n

BCR





i1
n



i1

Bi
(1  r )
C i
(1  r )


i

i

(Nếu BCR >1: có lãi, BCR =1: hồ vốn, BCR <1: lỗ vốn).


×