BỘ GIÁO DỤC VÀ DÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------
NGUYỄN THUẬN PHƯỚC
CHỌN LỌC CÂY TRỘI VÀ XÂY DỰNG VƯỜN GIỐNG
KEO LÁ LIỀM (ACACIA CRASSICARPA)
TẠI THỪA THIÊN HUẾ VÀ BA VÌ – HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Hà Nội- 2010
1
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu
về gỗ cũng gia tăng trong khi tài nguyên rừng ngày càng suy giảm cả về số
lượng và chất lượng. Từ đó đặt ra một yêu cầu cho các nhà nghiên cứu giống
trong lâm nghiệp là làm thế nào để đáp ứng nhu cầu về gỗ đồng thời phải đảm
bảo chất lượng giống để nâng cao chất lượng rừng trồng.
Trong lâm nghiệp diện tích kinh doanh lớn, lực lượng lao động ít, cây
sống dài ngày, việc tác động vào điều kiện hồn cảnh chỉ có thể thực hiện tốt
ở giai đọan vườn ươm và một số năm đầu khi trồng, ít có điều kiện chăm sóc
đến lúc khai thác như đối với cây nơng nghiệp, nên vai trò của chọn giống và
cải thiện giống càng quan trọng. Khơng có giống được cải thiện theo mục tiêu
kinh tế thì khơng thể đưa năng suất rừng lên cao được. Cải thiện giống cây
rừng chỉ có hiệu quả khi nó kết hợp được sự khéo léo các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh và chọn giống để sản xuất ra những sản phẩm cây rừng có năng suất và
chất lượng cao.
Để thực hiện chiến lược phát triển lâm nghiệp Chính phủ đã có quyết
định số 661/QĐ –TTg về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện
dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và sản xuất 1 triệu m3 ván nhân tạo. Trong đó
việc chọn lồi cây trồng hợp lý là vấn đề hết sức quan trọng. Trong tập đồn
các lồi cây được chọn thì các lồi keo nói chung và Keo lá liềm nói riêng là
một trong những lồi cây có nhiều giá trị và công dụng để phát triển rộng rãi
và đáp ứng nhiều mục đích quan trọng như phủ xanh, chống xói mịn, cung
cấp nguyên liệu làm bột giấy, ván nhân tạo.
Keo ( Acacia) là một chi thực vật họ phụ Trinh nữ (Mimosoideae)
thuộc họ Đậu (Leguminosae) bao gồm khoảng 1.200 lồi có phân bố rộng ở
Châu Á, và Châu Đại Dương. Riêng Australia có khoảng 850 lồi keo (
2
Acacia) với hàng trăm lồi có lá giả (Pedley, 1987). Keo lá liềm có tên khoa
học Acacia crassicarpa hay cịn có tên gọi khác là Keo lưỡi liềm, Keo lưỡi
mác, thuộc họ Đậu (Fabaceae), Bộ Đậu (Leguminosa). Keo lá liềm phân bố
tự nhiên ở vùng Bắc Queensland, bao gồm cả các quần đảo ở Torres Strait, và
New Guinea. Ở Queensland, Keo lá liềm phân bố chủ yếu trên đất cát, vùng
đất thấp, vùng duyên hải hoặc vùng đụn cát ven biển. Ở New Guinea, Keo lá
liềm phân bố ở vùng đất thấp phía Nam từ Tây nam Irian Jaya, Indonesia tới
Oriomo River của Papua New Guinea. Ở Việt Nam, Keo lá liềm được nhập
nội vào nước ta khoảng 25 năm trở lại đây. Một số khảo nghiệm loài và xuất
xứ trên vùng đồi cho thấy Keo lá liềm sinh trưởng nhanh hơn Keo lá tràm và
Keo tai tượng. Keo lá liềm là cây đa tác dụng, ngoài cung cấp gỗ, củi, ngun
liệu giấy, nó cịn có tác dụng cải tạo đất, cải tạo môi trường sinh thái và là
một trong những loài cây tiên phong phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
So với các loài Keo khác như Keo lá tràm và Keo tai tượng, Keo lá
liềm là một loài cây được nhập nội muộn hơn. Đồng thời cũng chưa có được
nhiều sự quan tâm thích đáng của các tổ chức trồng rừng.
Xuất phát từ thực tế đó đề tài: “ Chọn lọc cây trội và xây dựng vườn
giống Keo lá liềm ( Acacia crassicarpa) tại Thừa Thiên Huế và Ba vì - Hà
Nội” được thực hiện.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu
Nhu cầu của xã hội ngày càng tăng khơng chỉ về số lượng mà cịn u
cầu phong phú về chủng loại, đòi hỏi các ngành sản xuất trong đó có lâm
nghiệp cần nâng cao năng suất, chất lượng nhằm đáp ứng các nhu cầu đó. Để
giải quyết được vấn đề này sản xuất lâm nghiệp ngày càng phải có nhiều
giống tốt hơn nữa. Thực tế cho thấy trong lúc ở nước ta năng suất rừng tự
nhiên chỉ đạt 2-3 m3/ha/năm, năng suất rừng trồng từ giống chưa được cải
thiện chỉ đạt 5- 10 m3/ha/năm. Vì vậy, các nhà chọn giống cây trồng một mặt
vừa ứng dụng các biện pháp chọn lọc truyền thống, vừa nghiên cứu lai tạo
giống mới, nhất là đối với những loài cây được trồng rừng rộng rãi, có giá trị
kinh tế cao. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ sinh học người ta có
thể tạo ra nhiều dạng cây trồng bằng con đường khác nhau như gây đột biến,
đa bội hóa, vv…, song lai giống và chọn lọc giống lai vẫn là phương pháp chủ
yếu để tạo ra các giống cây trồng mới có năng suất cao trên thế giới
Mục tiêu của các chương trình cải thiện giống là tạo ra nguồn giống có
năng suất và chất lượng cao. Kết quả đó khơng chỉ dừng lại ở chỗ có được
những giống được cải thiện mà điều quan trọng hơn nữa là phải sản xuất được
những giống đó trên qui mơ lớn để phục vụ lâu dài cho các chương trình trồng
rừng. Có thể sản xuất vật liệu giống tốt từ những giống được cải thiện thơng
qua sinh sản hữu tính hoặc sinh sản sinh dưỡng. Vì thế xây dựng rừng giống
và vườn giống vẫn là một biện pháp quan trọng để cung cấp giống có chất
lượng cao cho các chương trình trồng rừng[14].
Nhờ nghiên cứu theo hướng chọn lọc cây trội, nhân giống khảo nghiệm
giống mà trong thời gian qua một số giống có năng suất cao đã được trồng ở
nhiều vùng sinh thái của nước ta. Theo Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng
4
(1996), quá trình nâng cao năng suất, chất lượng rừng dựa trên cải thiện giống
cây rừng được tiến hành theo các bước sau:
Khảo nghiệm loài
(chọn loài)
Khảo nghiệm xuất
xứ ( chọn xuất xứ)
Chọn lọc cây trội
Lai giống
Rừng tự nhiên và
rừng trồng
Khảo nghiệm giống
Chuyển hóa rừng
giống
Rừng giống
Vườn giống
Vật liệu giống
( Hạt, hom….)
Rừng trồng mới
Hình 1.1: Sơ đồ chung của cải thiện giống cây rừng
Theo sơ đồ này thì cải thiện giống cây rừng là một quá trình liên tục
trong nhiều thế hệ. Tác động tích cực vào bất cứ một khâu nào trong sơ đồ
này cũng góp phần khơng ngừng làm tăng năng suất rừng. Song, việc chọn
lọc cây trội có thể được coi là khâu quan trọng nhất và có tính chất quyết
định. Cây trội là nền tảng của các chương trình chọn giống. Cây trội là những
cây có sinh trưởng nhanh nhất trong quần thể chọn giống, có đoạn thân dưới
cành dài nhất, hình dáng thân cây trịn đều, cành nhánh nhỏ. Vì thế thường là
những cây có tỷ lệ gỗ sử dụng cao nhất. Tuy vậy, cây trội mới chỉ là những
cây có kiểu hình ưu trội về sinh trưởng, hình dạng thân, chất lượng gỗ và các
5
đặc tính mong muốn khác, đồng thời có tính thích ứng tốt với hồn cảnh,
khơng bị sâu bệnh, nhưng muốn biết các cây trội này có thật sự di truyền các
đặc tính tốt cho đời sau hay khơng thì phải qua khảo nghiệm. Cùng với khảo
nghiệm loài và xuất xứ thì chọn lọc cây trội kết hợp với lai giống và khảo
nghiệm giống là những khâu có tính chất quyết định trong các chương trình
cải thiện giống cây rừng.
Chọn lọc khơng tạo ra biến dị, song có tác dụng phát hiện và tích lũy
biến dị có định hướng theo những mục tiêu nhất định, nên đã làm cho giống
được cải thiện từng bước và phân hóa thành những hướng khác nhau.
1.2. Cở sở khoa học của chọn lọc cây trội và khảo nghiệm hậu thế
Cải thiện giống cây rừng là áp dụng các nguyên lý di truyền học và các
phương pháp chọn giống để nâng cao năng suất và chất lượng rừng theo mục
tiêu kinh tế cùng với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật trồng rừng cao sản.
Chọn lọc là giai đoạn đầu tiên và là phần then chốt của bất kỳ một
chương trình cải thiện giống cây rừng nào. Công cuộc tuyển chọn các cá thể
trội trong một chương trình cải thiện giống là hết sức quan trọng mà là cơ sở
của chọn lọc cây trội dựa trên sự biến dị cá thể. Có cây trội được chọn lọc cẩn
thận, được khảo nghiệm hậu thế để đánh giá và từ đó xây dựng các rừng
giống, vườn giống để cung cấp cây rừng mới từng bước được cải thiện, năng
suất và chất lượng rừng mới được nâng cao đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng
của sản xuất xã hội, sau khi đã xác định được các xuất xứ thích hợp cho mỗi
vùng thì q trình nâng cao năng suất và chất lượng rừng có thể được trình
bày theo sơ đồ sau:
6
Quần thể sản xuất
Trồng rừng
Cây trội được chọn lọc
- Nhân giống sinh dưỡng
- Khảo nghiệm dịng vơ tính
Nhân giống hàng loạt
( công nghệ mô và hom)
- Nhân giống hàng loạt
- Khảo nghiệm
Vườn giống
Hình 1.2: Quá trình nâng cao năng suất và chất lượng rừng
Khảo nghiệm xuất xứ là một trong những giai đoạn quan trọng của
chương trình cải thiện giống cây rừng, vì mỗi lồi cây rừng đều có một khu
phân bố địa lý nhất định. Những lồi có khu phân bố rộng thường có biến dị
di truyền lớn hơn so với những lồi có phân bố hẹp. Những lồi có phạm vi
phân bố cây rộng trong điều kiện sinh thái khác biệt thì càng có nhiều biến dị
địa lý và khả năng chọn được những xuất xứ có giá trị kinh tế cao, so với
những lồi có khu phân bố hẹp. Trong điều kiện thử nghiệm tại địa phương
thì giai đoạn tiếp theo là chọn lọc các lâm phần tốt hoặc các xuất xứ tốt có
một số đặc tính trội hơn xuất xứ khác của cùng một loài và quản lý chúng như
các lâm phần giống hoặc chọn các cá thể tập trung vào vật liệu di truyền là
các cá thể chọn lọc vào vườn giống hữu tính hoặc vơ tính. Sau khi xác định
được các lồi có giá trị kinh tế phù hợp nhất với mục tiêu kinh doanh, có đặc
tính sinh thái học phù hợp với nơi gieo trồng, các xuất xứ tốt nhất trong lồi
đó các lâm phần tốt trong các xuất xứ tốt ấy, thì bước tiếp theo của một
chương trình cải thiện giống cây rừng sẽ là công tác chọn lọc cá thể và xây
7
dựng vườn giống. Chương trình cải thiện giống với sơ đồ đầy đủ như vậy sẽ
lợi dụng được triệt để nguồn biến dị tự nhiên sẵn có của các lồi cây rừng.
1.2.1.Cơ sở khoa học chọn lọc cây trội
a. Biến dị cá thể
Trong lâm nghiệp, việc lựa chọn các tính trạng của cây làm mục tiêu
cải thiện cũng như việc lựa chọn thích hợp đối với tính trạng cần cải thiện sẽ
chỉ được tiến hành một cách có hiệu quả khi đã hiểu về bản chất di truyền của
các tính trạng đó.
Biến dị cá thể là sự phân hố về mặt di truyền giữa các cá thể trong
cùng quần thể và được thể hiện ra kiểu hình. Biến dị cá thể có thể do điều
kiện sống gây nên và thường khơng có ý nghĩa di truyền. Vì vậy, người ta chú
ý đến biến dị cá thể sống trong cùng một điều kiện hồn cảnh và nó được tạo
bởi nhân tố di truyền và đây là cơ sở chọn lọc cây trội.
Trong các loại biến dị đó, người ta thường chú ý trước tiên đến các biến
dị có liên quan đến năng suất của cây như tốc độ sinh trưởng, dạng tán cây,
thân cây, khả năng tỉa cành tự nhiên. Những biến dị cá thể nhất là biến dị có
liên quan đến sản lượng cây là khó phát hiện, những biến dị này gây nên bởi
những tính trạng số lượng do sự tác động của đa gen. Cần có dung lượng quan
sát đủ lớn, đồng thời phải dựa trên phương pháp thống kê toán học để phát
hiện và đánh giá. Tuy nhiên, nếu tìm ra được những biến dị tốt sẽ có ý nghĩa
lớn và đỡ tốn kém hơn con đường tạo ra các loại biến dị này.
b. Cơ sở di tuyền các tính trạng chủ yếu trong chọn giống cây rừng
Các yếu tố gây nên biến dị giữa các cá thể, quần thể (kiểu hình: P) có
thể được tách làm hai nguồn: nhân tố di truyền (G) và điều kiện hoàn cảnh
(E).
P=G+E
8
Các nhân tố này có thể tự biến đổi để gây nên sự khác biệt giữa các cá
thể, trong đó sự biến đổi của mơi trường có thể là sự biến đổi về độ dày tầng
đất, độ màu mỡ, độ ẩm của tầng đất từ cây này đến cây khác trong một khu
rừng. Các nhân tố di truyền lại thay đổi theo bộ gen được thu nhận từ các bố
mẹ của chúng thơng qua q trình sinh sản hữu tính.
Đối với cơng tác chọn giống nói chung cũng như chọn giống cây rừng
nói riêng thì chỉ có những biến dị cá thể nào được gây nên bởi các yếu tố di
truyền (biến dị di truyền) mới thực sự có ý nghĩa, còn những biến dị được gây
nên bởi các nhân tố hồn cảnh thì chỉ là kết quả phản ứng của cơ thể trước
điều kiện sống, nó khơng giữ lại ở hậu thế qua sinh sản hữu tính hay vơ tính.
Bằng phương pháp đồng nhất hóa điều kiện mơi trường sống người ta
có thể dựa vào kiểu hình để tiến hành chọn cây trội. Dùng phương pháp loại
trừ ảnh hưởng tốt của điều kiện mơi trường sống trong việc hình thành tính
trội bằng khảo nghiệm hậu thế hay khảo nghiệm dịng vơ tính, sẽ cho phép
đánh giá được phẩm chất di truyền của cây trội để chọn ra cây ưu việt.
Cây trội là vốn quí trong cải thiện giống cây rừng. Những cây trội được
tuyển chọn với độ vượt trội lớn sẽ là đối tượng cung cấp nguồn hạt giống có
phẩm chất di truyền được cải thiện ở mức độ thấp cho sản xuất trên qui mô
lớn. Theo kết quả nghiên cứu của một số nước thì sử dụng hạt được lấy trực
tiếp từ những cây này cũng có thể góp phần làm tăng sản lượng đời sau lên
10- 20% so với giống đại trà.
Ngoài tác dụng cung cấp nguồn giống cho sản xuất, cây trội còn là
nguồn gen quý để phục vụ cho công tác gây tạo giống mới ( bằng kỹ thuật lai
hữu tính) cây trội cũng đồng thời là cơ sở để ứng dụng công nghệ sinh học ở
mức độ cao bằng việc tạo ra các giống cây rừng có tính chống chịu sâu bệnh,
chịu nóng, chịu hạn…Đặc biệt trong tương lai thì những cây trội bằng cơng
nghệ gen có thể tạo nên những giống cây có khả năng cố định đạm.
9
Sau khi đã chọn lọc được cây trội công việc tiếp theo trong một chương
trình cải thiện giống là phải đánh giá đặc tính tốt của mình cho đời sau bằng
khảo nghiệm hậu thế. Khảo nghiệm hậu thế được tiến hành thông qua cây
sinh dưỡng ( cây mô, cây hom…) được gọi là khảo nghiệm dịng vơ tính,
thơng qua q trình khảo nghiệm hậu thế để xác định những cây trội có khả
năng di truyền các đặc tính tốt cho đời sau. Những cá thể khơng có khả năng
di truyền các đặc tính tốt cho đời sau cần phải loại bỏ khỏi chương trình chọn
giống.
Sau khi đã khảo nghiệm và được đánh giá là những cây trội có khả
năng di truyền tốt các đặc tính tốt cho đời sau thì cây trội sẽ là đối tượng cung
cấp nguồn vật liệu sinh dưỡng cho các vườn giống hoặc nguồn vật liệu cho
công nghệ mô hom tạo ra hàng loạt các bản sao giống nhau trên quy mô công
nghiệp phục vụ cho trồng rừng các dịng vơ tính cao sản.
Kết quả của công tác chọn lọc cây trội kết hợp với khảo nghiệm hậu thế
cho các loài cây bước đầu đã đưa lại hiệu quả thiết thực cho công tác chọn
giống cây rừng đang còn rất mới mẻ ở Việt Nam.
1.2.2. Xây dựng vườn giống
Vườn giống là nơi trồng những dịng vơ tính hoặc cây con từ hạt của
những cây trội đã được chọn lọc và đánh giá, được bố trí cây giống để hạn
chế tới mức thấp nhất sự tự thụ phấn giữa các cây cùng dịng hoặc cùng một
gia đình, được cách ly nhằm hạn chế hoặc tránh những nguồn hạt phấn bên
ngồi và được quản lý, chăm sóc tốt để sản xuất nhiều hạt giống một cách ổn
định, dễ thu hoạch, có phẩm chất di truyền cao.
Cây trồng trong vườn giống có thể là cây có nguồn gốc từ hạt hoặc cây
sinh dưỡng, nhưng điều quan trọng nhất là chúng phải được lấy từ những cây
trội đã được tuyển chọn và đánh giá hoặc đã được hội đồng giống của ngành
Lâm nghiệp công nhận.
10
Cây giống của các dòng cây mẹ tham gia xây dựng vườn giống phải
được bố trí theo một sơ đồ định sẵn nhằm hạn chế tới mức thấp nhất hiện
tượng thụ phấn giữa các cây cùng dòng.
Những vườn giống như vậy khơng chỉ có mục đích cải thiện chất lượng
di truyền cho những đặc tính mong muốn của giống mà cịn để sản xuất ra
nhiều hạt giống thích nghi với những điều kiện trồng riêng biệt.
1.3. Nghiên cứu trên thế giới
Lịch sử khảo nghiệm được đánh dấu bằng khảo nghiệm loài và xuất xứ
đầu tiên trong lâm nghiệp do Vilmorin tiến hành cho Thông châu Âu (Pinus
silvesstris) tại Les Bares của Pháp vào năm 1821. Sau đó là khảo nghiệm xuất
xứ cho Thông rụng lá châu Âu (Larix decidua) do Cieslar tiến hành tại
Vienerwald ở Áo vào năm 1887 (Mangini, 1974). Cuối những năm 1950 hàng
loạt khảo nghiệm loài và xuất xứ cho những loài cây trồng rừng quan trọng
nhất đã được xây dựng ở nhiều nước trên thế giới. Trong những năm 19801990 khảo nghiệm xuất xứ được tập trung cho các loài keo nhiệt đới như Keo
tai tượng (A.mangium), Keo lá tràm (A. auriculiformis), Keo lá liềm
(A.crassicarpa) v..v…[16].
Keo lá liềm (Acacia crassicarpa) thuộc họ đậu (Fabacae), bộ Đậu
(Leguminosa). Tên thường gọi: Keo lá liềm, Keo lưỡi liềm, Keo lá liềm là cây
gỗ thường xanh, cao 20m, đôi khi cao 30m, thân cây đơn trục, vỏ màu xám
nâu đến màu tối, nứt dọc sâu. Lá giả cong hình lưỡi liềm, màu xanh xám. Hoa
tự chùm, đi sóc, hoa nhỏ màu vàng sáng. Quả màu nâu, vỏ cứng, hóa gỗ.
Hạt đen Gỗ giác màu nâu nhạt gỗ lõi màu nâu vàng ánh đỏ, khối lượng gỗ
khơ khơng khí 720 kg/m3, khối lượng gỗ ở độ ẩm cơ bản (12%) là 620 kg/m3,
thích hợp cho gỗ xây dựng , đồ mộc, đóng thuyền, làm gỗ dán, làm củi [3]
[20] [21].
11
Keo lá liềm phân bố tự nhiên ở dọc bờ biển Tây Bắc Queensland
Australia, Nam Papua New Guinea và Irian Jaya của Indonesia từ vĩ độ 8 0N
đến 200N. Độ cao từ 0- 200m, có khi đến 700m. Keo lá liềm thích ứng được
với các loại đất cát nội đồng, đất đồi feralit, đất phù sa cổ, đất bồi tụ thoát
nước, độ sâu tầng đất >40cm [22] [27].
Keo lá liềm là lồi cây sinh trưởng nhanh, có khả năng cố định đạm tự
nhiên, sinh trưởng được trên nhiều loại đất khác nhau, là cây chịu lửa, chịu
gió, cát, cạnh tranh được với cỏ dại, sinh trưởng được trên đất nghèo dinh
dưỡng, được sử dụng phổ biến trồng rừng ở các vùng đất bị suy thoái [26].
Ở Australia Keo lá liềm được tìm thấy ở các đồi cát, các sườn dốc của
các đụn cát cố định, trên các đụn cát ven biển và các chân đồi. Chúng xuất
hiện trên các loại đất khác nhau kể cả cát biển (chứa nhiều Canxi và Kali), đất
cát vàng trên đá Granit, đất đỏ phát triển trên núi lửa, đất đỏ vàng phát triển
trên đá phiến thạch, đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch, đất bị xói mịn và
đất phù sa [28].
Ở Papua New Guinea và Indonesia chúng xuất hiện trên địa hình
khơng ổn định của phù sa cổ vùng cao nguyên Oriomo. Hầu hết chúng được
tìm thấy trên địa hình thốt nước tốt, đất có tính axit mạnh. Tuy nhiên, Keo lá
liềm cũng xuất hiện trên những vùng khơng thốt nước, thậm chí cả những
vùng ngập úng trong mùa mưa và nhanh chóng khơ vào mùa khơ, đất đỏ vàng
glay hóa và đỏ vàng sét. Người ta sử dụng A.crassicarpa làm gỗ đóng đồ gia
dụng, thuyền, ván sàn, gỗ củi, bột giấy…[27].
Tại Thái Lan, một số nghiên cứu cho thấy với rừng trồng A.crassicarpa
xuất xứ Papua New Guinea sau 3 năm đạt 207 tấn sinh khối khô/ha. Ở vùng
khô hơn là Ratchaburi- Thái Lan sau 3 năm có năng suất ngang bằng Keo lá
tràm 40 tấn sinh khối khô/ha. Nghiên cứu với 23 xuất xứ của 12 loài keo từ
Australia và một số nước khác được tiến hành trên 6 vùng sinh thái khác nhau
12
được thực hiện vào năm 1985, sau 36 tháng tuổi sinh trưởng của các lồi này
có sự sai khác rõ rệt, Keo lá liềm (A.crassicarpa ) là một trong 3 loài cho sinh
trưởng nhanh nhất [7].
Malaixia, sau khi đã gây trồng khá thành công Keo tai tượng và Keo lá
tràm, Malaixia đã thử nghiệm với một số loài keo khác trong đó có Keo lá
liềm, thơng báo gần đây nhất của Awang, Jamahari, Zukilfi and Shukor
(1997) cho biết thêm kết quả khảo nghiệm này ở Malaixia các xuất xứ có triển
vọng nhất: Smalleberr, Irian Jaya; Oliver River, Qld; Jardine River,
Qld…[14].
Tại Philippines, 13 xuất xứ của 11 lồi keo được thí nghiệm tại tỉnh
Cebu. Kết quả cho thấy Keo lá liềm (A.crassicarpa ) xuất xứ 17604 và 17948
là một trong những loài triển vọng nhất. Qua các khảo nghiệm tại Talisay và
Tabuelan cũng cho thấy A.crassicarpa là một trong những loài có tỷ lệ sống
cao nhất (100%)[7].
Tương tự, Yang Minquan and Zeng Yutian cũng đã xác định có sự sai
khác rõ ràng về sinh trưởng đường kính và chiều cao giữa các loài và xuất xứ
trong một khảo nghiệm tại Hải Nam, Trung Quốc. Xuất xứ Mata (PNG) của
A.crassicarpa có chiều cao cao nhất 14.3m [7].
Nhiều nghiên cứu của các nước trong khu vực cho thấy A.crassicarpa
sinh trưởng ngang bằng hoặc hơn cả A.auriculiformis và A.mangium (các
nghiên cứu ở Thái Lan, Mianma, Trung Quốc, Lào…). Các nghiên cứu ở
Mianma cho thấy A.crassicarpa sinh trưởng nhanh, cây 2 tuổi, tỷ lệ sống đạt
95-100%, H=7- 9,4m, D0= 7- 9,6cm. Ở Sara- Malaysia nó được trồng trên đất
đá có tầng mặt mỏng và đất cát cho kết quả H= 15- 23m, D1.3= 10- 16cm sau
4 năm tuổi, tốt hơn cả A.auriculiformis và A.mangium [8].
A.crassicarpa được trồng 40.000ha ở Sumacha- Indonesia trên đất ẩm,
có pH thấp và thỉnh thoảng bị ngập nước.A.crassicarpa trồng trên đất ẩm cho
13
sinh trưởng bình quân hàng năm thấp hơn A.mangium trên đất khô nhưng do
tỷ trọng A.crassicarpa lớn hơn so với A.mangium nên sản lượng bột giấy vẫn
có thể ngang bằng, do đó sản lượng bột giấy/ha vẫn chấp nhận được. Từ
40.000ha A.crassicarpa cung cấp nguyên liệu cho nhà máy bột giấy thu được trên 1
triệu USD [7].
Các nghiên cứu về biến dị di truyền cho các vườn giống Keo lá liềm
cũng đã được tiến hành ở nhiều nước như Indonesia (Arif, N.,1997), Philipine
(Arnold và Cuevas, 2003) và Australia (Harwood và cộng sự, 1993). Các tác
giả ghi nhận rằng có sự sai khác rõ rệt giữa các xuất xứ và giữa các gia đình
trong xuất xứ [8].
Cùng với A.mangium và A.mearnsii, A.crassicarpa là một trong ba loài
cây cố định đạm tốt nhất thuộc Bộ Đậu Leguminosa và có vai trị hết sức quan
trọng trong việc bảo vệ và khôi phục đất thối hóa do canh tác q mức hoặc
khai thác rừng cạn kiệt ở các nước nhiệt đới. Những loài này cung cấp gỗ
nguyên liệu giấy, gỗ củi, tanin và gỗ lớn. Chúng cũng được trồng rộng rãi để
chống xói mịn và phục hồi đất.
A.crassicarpa được xác định là cây có khả năng hấp thụ CO2 tốt, chính
phủ Australia đã đầu tư một dự án lớn để trồng các loài cây có khả năng hấp
thụ khí CO2 tốt trên 9 nước khác nhau trong đó có Việt Nam.
1.4. Nghiên cứu về Keo lá liềm (Acacia crassicarpa) ở Việt Nam
Từ đầu những năm 1970, nhất là sau năm 1975, việc nghiên cứu cải
thiện giống được chuyển sang một giai đoạn mới bằng việc xây dựng khảo
nghiệm các loài/ xuất xứ cho một số lồi thơng (Pinus sp.,), bạch đàn
(Eucalyptus sp.,), keo (Acacia sp.,), phi lao (Casuarina equisetifolia và
C.C.junghuniana) trên các lập địa khác nhau tại vùng trung tâm miền Bắc,
một số điểm thuộc các trung tâm vùng của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
Nam và thuộc công ty giống phục vụ trồng rừng [12]
14
Đầu những năm 1980 bốn loài keo vùng thấp là Keo lá tràm, Keo tai
tượng, Keo lá liềm và Keo nâu đã được nhập trồng thử tại Ba Vì (Hà Nội),
Hóa Thượng (Thái Nguyên) và Trảng Bom (Đồng Nai). Đánh giá sơ bộ năm
1991 đã thấy trong 4 loài keo trồng thử năm 1982 và 1984 tại Hóa Thượng thì
3 lồi keo có sinh trưởng nhanh là Keo tai tượng, Keo lá liềm, Keo lá tràm
(Lê Đình Khả, Nguyễn Hồng Nghĩa, 1991) [4].
Trong những năm 1980 bên cạnh việc tiếp tục xây dựng các khảo
nghiệm loài- xuất xứ cho các loài bạch đàn, một loạt khảo nghiệm cho các
loài keo vùng đồi thấp đã được xây dựng ở nhiều nơi trong nước. Đó là các
lồi Keo lá tràm (A.auriculiformis), Keo tai tượng (A.mangium), Keo lá liềm
(Acacia crassicarpa), Keo nâu (A.aulococarpa) và Keo quả xoắn (A.
cincinnata).
Khảo nghiệm tại Hoá Thượng, Thái Nguyên được thực hiện vào năm
1984 bao gồm 4 xuất xứ lồi keo, song bộ xuất xứ này lại khơng giống như
các xuất xứ đã có mặt trong khảo nghiệm tại Đá Chơng. Các xuất xứ đó là:
Keo lá tràm (A.auriculiformis)- 13854, Oenpelli area (NT); Keo tai tượng
(A.mangium)- 13846, Mossman (Qld); Keo lá liềm (Acacia crassicarpa)13863, Shoteel L.A (Qld); Keo nâu (A.aulococarpa)- 13865, Buckley L.A
(Qld). Khảo nghiệm này cho kết quả tương tự như khảo nghiệm ở Đá Chông
[14].
Khảo nghiệm tại Đại Lải, Vĩnh Phúc năm 1986 với bộ xuất xứ gần
giống ở Hoá Thượng, tuy nhiên kết quả lại hồn tồn khác, chỉ có Keo lá tràm
chứng tỏ được khả năng chịu đựng tốt nhất trên nền đất xấu và khơ cằn, cịn
Keo lá liềm bị chặt ngay trong vài năm đầu vì sinh trưởng quá kém [14].
Vào năm 1988, trong một khảo nghiệm về Keo ( chủ yếu là các xuất xứ
của Keo tai tượng), Keo lá liềm chỉ có 1 xuất xứ (13863, Shoteel L.A). Kết
15
quả thu được là xuất xứ của Keo lá liềm có sinh trưởng cao nhất trong số 6
xuất xứ nội trội của lần khảo nghiệm.
Qua đó cho thấy trong những năm của thập niên 80 Keo lá liềm bước
đầu đã được lồng ghép trong các khảo nghiệm cùng với các xuất xứ khác
nhau của Keo lá tràm, Keo tai tượng… song vẫn chưa có nhiều sự quan tâm
thích đáng để đánh giá một cách rộng rãi khả năng gây trồng của loài keo này.
Khảo nghiệm xuất xứ các loài keo vùng thấp được xây dựng tương đối
đồng bộ vào những năm 1990. Một đề mục khảo nghiệm xuất xứ một số loài
keo vùng đồi thấp do TS.Nguyễn Hoàng Nghĩa chủ trì. Vật liệu nghiên cứu là
73 xuất xứ thuộc 5 lồi keo (Acacia) và lơ hạt đã có mặt từ năm 1982 cho tới
năm 1992. Các khảo nghiệm được thiết lập tại 8 điểm thuộc 6 tỉnh trong cả
nước, 5 loài keo được khảo nghiệm: Keo tai tượng (A.mangium) với 34 xuất
xứ, Keo lá tràm (A.auriculiformis) với 19 xuất xứ, Keo lá liềm (Acacia
crassicarpa) với 11 xuất xứ, Keo nâu (A. aulococarpa) với 6 xuất xứ và Keo
bụi (A. cincinnata) 3 xuất xứ. Các khảo nghiệm được thiết lập tại Hà Tây, Bắc
Thái, Vĩnh Phúc, Sơn La, Đông Hà, Đồng Nai, Long An.
Khảo nghiệm xuất xứ đồng bộ ở Đá Chông được trồng năm 1990 trên
đất pheralit phát triển trên sa thạch, độ cao khoảng 50m so với mặt nước biển.
Một bộ hoàn chỉnh bao gồm 39 xuất xứ của 5 lồi keo chính đã được Trung
tâm nghiên cứu giống cây rừng trồng khảo nghiệm tại Đá chông – Ba vì – Hà
Nội. Trong đó A. mangiumcó 9 xuất xứ, A. auriculiformis có 13 xuất xứ, A.
crassicarpa có 9 xuất xứ, A.aulacocarpa có 5 xuất xứ, A.cincinata có 3 xuất
xứ. Kết quả khảo nghiệm cho thấy cũng giống như những khảo nghiệm trước
đó, Keo lá liềm là 1 trong 3 lồi có triển vọng nhất. Điều này chứng tỏ việc
chọn gây trồng các loài keo này để gây trồng trên diện rộng là có cơ sở khoa
học chắc chắn và đủ tin cậy [14].
16
Khảo nghiệm ở Đông Hà được xây dựng năm 1991 trên đất pheralit
phát triển trên diệp thạch. Vì thiếu cây, chỉ có một số lần lặp với ơ 49 cây, nên
số liệu chỉ có tính chất tham khảo. Tham gia các khảo nghiệm này là các lô
hạt của CSIRO được cấp qua dự án VIE 027 trong đó có 9 xuất xứ Keo lá
liềm (A.crassicarpa), [13]. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là kết quả ở lần
khảo nghiệm này các xuất xứ Keo lá liềm cho sinh trưởng tượng tự như khảo
nghiệm ở Đá Chơng Ba vì – Hà Nội và các khảo nghiệm ở nơi khác.
Theo kết quả khảo nghiệm thì trong 5 lồi keo được khảo nghiệm thì
ba lồi có sinh trưởng nhanh là Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lá
liềm.Trong đó thể tích sinh trưởng bình quân của các xuất xứ Keo lá liềm
khảo nghiệm tại Đá Chông (9 tuổi) là cao nhất (221dm3/cây) cịn tại Đơng Hà
đứng thứ 2 (85dm3/cây) chỉ sau Keo tai tượng:
Khảo nghiệm xuất xứ đồng bộ cho 38 xuất xứ của 4 lồi keo tại La Ngà
(1991). Trong đó Keo lá liềm có 8 xuất xứ, cũng như nhiều khảo nghiệm khác
kết quả thu được cho thấy các xuất xứ đầu bảng vẫn là Dimisisi, Gubam,
Mata, Oriomo, Deri- Deri [11].
Khảo nghiệm so sánh một số xuất xứ Keo tai tượng (A.mangium), Keo
lá tràm (A.auriculiformis), Keo lá liềm (A.crassicarpa), Keo nâu
(A.aulacocarpa) và Keo quả xoắn (A.cincinata) cũng được trung tâm cây
nguyên liệu giấy Phù Ninh xây dựng tại Mangyang ( Gia Lai) trên đất Bazan
và đất đồi phân hoá từ đá granit năm 1992. Số liệu đo đếm cho thấy, Keo lá
liềm, Keo tai tượng và Keo lá tràm là những lồi có sinh trưởng nhanh nhất.
Trong đó, Keo lá liềm chỉ được khảo nghiệm trên đất phân hoá từ đá granit và
là lồi có sinh trưởng nhanh nhất ( xuất xứ Chili- Beach (Qld)) [13].
Trung tâm nguyên liệu giấy Phù Ninh cũng đã thực hiện một số khảo
nghiệm loài ở vùng trung tâm miền Bắc và kết quả đã được Huỳnh Đức Nhân
và Nguyễn Quang Đức (1997) thông báo tỉ mỉ trong một số báo cáo khoa học
17
[13]. Trong khảo nghiệm keo 54 tháng tuổi ở Hàm Yên- Tuyên Quang, Gia
Thanh- Phú Thọ và Tam Đảo – Vĩnh Phúc đều cho kết quả Keo lá liềm đạt
sinh trưởng cao nhất trong 5 loài keo được khảo nghiệm, trong đó sinh trưởng
ở Hàm Yên cao hơn so với 2 địa điểm còn lại với chiều cao 12,56m và đường
kính 11,6cm.
Khảo nghiệm cho lồi Keo lá liềm tại Bầu Bàng (Đồng Nai) được tiến
hành từ tháng 4 năm 1991. Số liệu đo được vào tháng 12 năm 1999 cho thấy
sau 8,5 năm các xuất xứ có triển vọng nhất ở đây là Dimisisi (PNG), DeriDeri (PNG), Morehead (PNG) và Bensbach (PNG). Những xuất xứ này có thể
tích thân cây 387- 390 dm3/cây. Trong lúc các xuất xứ có sinh trưởng kém
như Samlenberr (Indonesia) và Jardine (Qld) chỉ có thể tích thân cây tương
ứng là 256dm3/ cây và 169dm3/cây. Cịn nịi địa phương Đồng Nai của có thể
tích thân cây 31dm3/cây. Khảo nghiệm này chứng tỏ Deri- Deri (PNG) và
Dimisisi (PNG) là những xuất xứ có sinh trưởng tốt nhất của Keo lá liềm ở
các nơi khảo nghiệm ở nước ta.
Trong giai đoạn 2000-2002, trong khuôn khổ dự án do chương trình khí
nhà kính của Australia tài trợ phối hợp với CSIRO đã xây dựng 2 vườn giống
cây hạt Keo lá liềm tại Đơng Hà và Hàm Thuận Nam, Bình Thuận. Trong
năm 2002, trong khuôn khổ dự án giống do chính phủ Việt Nam đầu tư đã xây
dựng 4ha vườn giống Keo lá liềm tại Phong Điền – Thừa Thiên Huế [9].
Keo lá liềm có sinh trưởng tốt hơn các loài keo khác ở vùng cát nội
đồng ven biển miền trung Việt Nam, đây là những vùng có điều kiện đất đai
nghèo dinh dưỡng, bị ngập nước theo mùa. Đã có hàng ngàn ha Keo lá liềm
được trồng tại những vùng này, và diện tích sẽ tăng nhiều trong tương lai. Tuy
nhiên, trong điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng sẽ rất khó có thể sản xuất
được gỗ lớn phục vụ cho công nghiệp xẻ [9].
18
Các kết quả nghiên cứu đạt được đối với loài cây này vào thời điểm
năm 2000 là: [13]
Keo lá liềm là một trong những lồi có sinh trưởng nhanh nhất trong
các loài keo được khảo nghiệm ở nước ta
Các xuất xứ của Papua New Guinea thường là những xuất xứ có
sinh trưởng nhanh nhất. Trong đó Mata province (PNG), Gubam (PNG),
Dimisisi (PNG) va Deri- Deri (PNG) là những xuất xứ có triển vọng ở nhiều vùng
trong nước.
Một số xuất xứ sinh trưởng tốt ở một số vùng nhất định là Mata
province (PNG) và Gubam Village (PNG) cho các tỉnh miền Bắc, Morehead
(PNG) và Bensbach (PNG) cho các tỉnh vùng Đơng Nam Bộ ( Lê Đình Khả
và cs, 2001).
Từ kết quả khảo nghiệm thực tế của Trung tâm nghiên cứu giống
cây rừng, Bộ NN&PTNT đã có quyết định công nhận các xuất xứ Mata
province (PNG), Dimisisi (PNG) và Deri- Deri (PNG) là những xuất xứ có
triển vọng cho trồng rừng ở một số vùng trong nước.
Khảo nghiệm tại Hàm Thuận Nam được xây dựng tháng 8/2001, đánh
giá tháng 9/2005. Khảo nghiệm này gồm 56 gia đình của 11 xuất xứ trồng
trên 2 ha theo thiết kế hàng cột, 5 cây/ô, 3 lặp. Qua khảo nghiệm cho thấy
xuất xứ Chili Beach (Qld); xuất xứ Bimadebum (PNG) và 2 lơ hạt của xuất xứ
Bensbach (PNG) là nhóm có triển vọng theo ý nghĩa xuất xứ (sau 4 năm có
thể tích thân cây 76,6- 89,6dm3/cây), đồng thời có độ thẳng thân cây khá nhất
(2,8- 3,1) [19].
Một số nghiên cứu của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cho một
số loài cây trồng trên đất cát vùng Bắc Trung Bộ bao gồm: Phi lao, Keo lá
tràm, Keo tai tượng, Keo lá liềm, các loài keo chịu hạn, các loài bạch đàn,
muồng đen đã cho thấy Phi lao có khả năng thích ứng rộng nhưng cũng chỉ
19
trên đất cát vàng và cát di động còn Keo lá liềm là lồi cây vừa có khả năng
sinh trưởng nhanh, lại vừa có thể thích ứng được với vùng cát nội đồng úng
ngập và khơ hạn nên rất có triển vọng đối với các tỉnh miền Trung [10].
Khảo nghiệm tại Phong Điền ( Thừa Thiên Huế) được trồng trên cát nội
đồng có lên líp cao 0,5m với 1250 cây/ha vào tháng 12/2002. Khảo nghiệm
này gồm 4 gia đình 5 xuất xứ (chủ yếu là 4 xuất xứ của PNG: Bensbach PNG18947, Bimadebum PNG-18940, Oriomo PNG, 18937). Số liệu thu thập năm
2005, cho thấy đây là nơi Keo lá liềm có sinh trưởng rất kém, khác biệt giữa
các xuất xứ không đáng kể (trừ đối chứng ở vùng cát tại địa phương và xuất
xứ Oriomo có thể tích thân cây 8,8- 9,6 dm3/cây, số cịn lại có thể tích 10,010,8 dm3/cây. Tất cả các xuất xứ đều có nhiều hơn 2 thân và có độ thẳng rất
thấp (1,2- 1,9). Nguyên nhân của hiện tượng nhiều thân và cây bị cong queo
có thể là do q khơ hạn, song về cơ bản có thể nói các xuất xứ Keo lá liềm
tại đây đã tỏ ra khơng thích hợp, mặc dầu ở một số điểm nhất định trên vùng
cát nội đồng ở Thừa Thiên Huế [14].
Keo lá liềm là lồi có triển vọng nhất trên cát nội đồng vùng Bắc Trung
Bộ. Đây là lồi có khả năng thích nghi tốt trên điều kiện khắc nghiệt của cát
nội đồng. Chúng có khả năng sinh trưởng tốt trên cát nội đồng ngập úng khi
được lên líp, vừa thích ứng trong điều kiện cát bay cục bộ vì nó có bộ rễ đặc
biệt phát triển. Ngồi ra với bộ rễ phát triển, có nhiều nốt sần và tán lá phát
triển, rụng lá nhiều nên có ưu thế trong cải tạo đất, cải tạo môi [8].
Theo một số khảo nghiệm của WFP trên cát nội đồng tại Đơng PhongThừa Thiên Huế cho 1 số lồi cây lá rộng và lá kim thì sau 2 năm tuổi cho
thấy A.crassicarpa có tỷ lệ sống đạt >90% và cao tới 6m, trong khi đó
A.mangium chỉ sống 40% và cao 3m, cịn các lồi khác thì khơng sống được
[8].
20
Một số lồi keo vùng thấp và keo vùng khơ đã được CSIRO cung cấp
hạt và được khảo nghiệm ở hai địa điểm là Tà Pạ (huyện Tri Tôn) và Núi
Cấm (huyện Tịnh Biên) của tỉnh An Giang. Kết quả sau 8 năm trồng (19932001) đã được Nguyễn Thị Bích Thuỷ (2002) thông báo. Kết luận ở cả hai
khu vực khảo nghiệm là đối với lồi Keo lá liềm thì xuất xứ Bimadebum có
tiềm năng sinh trưởng khá, nhất là ở Tà Pạ. Kết quả này cũng rất phù hợp với
kết quả mà Viện Khoa học lâm nghiệp thu được trong nhiều khảo nghiệm trên
tồn quốc[14].
Keo lá liềm cịn là một trong số các loài cây lâm nghiệp ưu tiên trồng
tại 3 vùng sinh thái: Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và vùng Đông Nam Bộ
[5].
Trong hầu hết các khảo nghiệm ở Việt Nam, Keo lá liềm đều chứng tỏ
khả năng sinh trưởng tốt và rất tốt, đặc biệt là các xuất xứ có nguồn gốc từ
Papua New Guinea. Cây cũng được trồng thử thành công trên đất cát nội đồng
khơ cằn (như ở Huế) mà nhiều lồi cây khác, kể cả Phi lao đều sinh trưởng rất
kém. Keo lá liềm được xác định là một trong những loài cây ưu tiên cho trồng
rừng phòng hộ chống cát bay và sa mạc hóa [3].
Qua các khảo nghiệm có thể kết luận rằng Keo lá liềm có sức sinh
trưởng tương đối mạnh, có triển vọng gây trồng trên các loại đất pheralit vùng
đồi, chua, nghèo dinh dưỡng, vùng cát nội đồng và đất xám phù sa cổ.
Tuy nhiên loài Keo lá liềm mới được đưa vào Việt Nam trong vòng 25
trở lại đây. Vì vậy, các kết quả nghiên cứu cịn nhiều hạn chế do đó có thể nói
rằng đây là cơ hội nhưng cũng khơng ít thách thức đối với tác giả nghiên cứu.
21
Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Chọn lọc cây trội có khả năng sinh trưởng nhanh và các chỉ tiêu chất
lượng tốt (độ thẳng thân, cành nhánh nhỏ, không sâu bệnh…).
- Khảo nghiệm Keo lá liềm tại 2 vườn giống trên hai lập địa (Ba vì - Hà
Nội và Thừa Thiên Huế).
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Các cây trội Keo lá liềm (A.crassicarpa) chọn ở Thừa Thiên Huế .
Keo lá liềm tại hai vườn giống ở Phong Điền – Thừa Thiên Huế và Ba
Vì – Hà Nội được xây dựng từ tháng 2- 2007, đến thời điểm đề tài thực hiện
đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng thì Keo lá liềm tại 2 vườn giống này đã được
3 năm tuổi.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Các cây trội được chọn lọc ở Thừa Thiên Huế.
- Các gia đình Keo lá liềm tại 2 vườn giống Keo lá liềm (A.crassicarpa)
tại Ba Vì - Hà Nội và Thừa Thiên Huế.
2.4. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài triển khai các nội dung sau:
- Thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên của vùng khảo nghiệm:
- Chọn cây trội Keo lá liềm ở Thừa Thiên Huế .
- Xây dựng vườn giống tại Ba Vì, Thừa Thiên Huế và Đánh giá sinh
trưởng các gia đình tại 2 vườn giống ở 2 lập địa khác biệt (trên đất đồi tại Ba
Vì và trên đất cát cố định tại Thừa Thiên Huế) về các chỉ tiêu sau:
+ Sinh trưởng về đường kính 1.3 (D1.3).
+ Sinh trưởng về chiều cao vút ngọn (Hvn).
22
+ Sinh trưởng về thể tích thân cây (V).
+ Một số chỉ tiêu chất lượng: Độ thẳng thân, độ rậm tán, góc phân
cành…
2.5. Vật liệu nghiên cứu
Các cây trội Keo lá liềm được chọn ở 4 huyện của TTH là Phong Điền,
Quảng Điền, Hương Trà, Phú Lộc được lấy giống từ hạt giống nhập từ
Australia về và trồng những năm 1990 tại Thừa Thiên Huế. Các cây trội chọn
được sẽ được sử dụng trong bố trí vườn giống trên 2 lập địa.
2.6. Phương pháp nghiên cứu
* Kế thừa các tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên
cứu
* Điều tra chọn lọc cây trội
Chọn lọc cây trội theo Tiêu chuẩn ngành 04TCN 147- 2006, quy phạm
QPN 15- 93.
+ Đường kính ngang ngực (D1.3) được đo ở vị trí 1,3m tính từ mặt đất
lên, đơn vị tính centimet (cm).
+ Chiều cao của cây (H) được đo từ mặt đất lên tới đỉnh sinh trưởng cao
nhất, đơn vị tính bằng mét (m).
Thu thập một số chỉ tiêu chất lượng như: Độ thẳng thân, độ nhỏ cành,
sức khỏe, màu sắc lá và độ rậm của tán lá theo phương pháp cho điểm của Lê
Đình Khả, Dương Mộng Hùng (1998).
Độ thẳng thân cây (Đtt) được cho điểm theo 5 cấp (từ 1-5 điểm):
+ Cây rất cong:
1 điểm
+ Cây cong:
2 điểm
+Cây hơi cong:
3 điểm
+ Cây thẳng:
4 điểm
+ Cây rất thẳng:
5 điểm
23
Chỉ tiêu sức khỏe (SK) được cho điểm theo cấp (từ 1-5 điểm):
+ Cây rất kém phát triển (ngọn bị teo hoặc mất ngọn chính, tán lá rất
thưa hoặc lá úa vàng):
1 điểm
+ Cây kém phát triển (ngọn chính thiếu sức sống, tán lá thưa, lá xanh
nhạt):
2 điểm
+ Cây phát triển trung bình (ngọn chính phát triển bình thường, tán lá
vừa phải):
3 điểm
+ Cây phát triển khá (ngọn chính phát triển khá, tán lá phát triển, lá
4 điểm
xanh):
+ Cây rất phát triển (ngọn chính rất phát triển, cây khỏe mạnh, có sức
sống, tán lá cân đối, lá xanh thẫm):
5 điểm
Độ nhỏ cành (Đnc) được cho điểm theo 5 cấp (từ 1-5 điểm):
+ Cành rất nhỏ (< 1/10 đường kính gốc cành):
5 điểm
+ Cành nhỏ (từ 1/9 – 1/7 đường kính gốc cành):
4 điểm
+ Cành trung bình (1/6 – 1/5 đường kính gốc cành):3 điểm
+ Cành lớn (từ 1/4 – 1/3 đường kính gốc cành):
2 điểm
+ Cành rất lớn (> 1/3 đường kính gốc cành):
1 điểm
Màu sắc lá (Msl) được cho điểm theo 5 cấp (1-5 điểm):
+ Màu lá xanh thẫm:
5 điểm
+ Màu lá xanh:
4 điểm
+ Màu lá hơi vàng:
3 điểm
+ Màu lá vàng:
2 điểm
+ Màu lá rất vàng:
1 điểm
Độ rậm tán lá (Đrt) cho điểm theo 5 cấp (từ 1-5 điểm):
+ Tán lá rất rậm:
5 điểm
+ Tán lá rậm:
4 điểm
+ Tán lá rậm trung bình:
3 điểm