Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(Thảo luận Thị trường chứng khoán) Tìm hiểu những khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.14 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN..........................................................................7
1.1. Các kiến thức liên quan.....................................................................................7
1.1.1. Chứng khoán...................................................................................................7
1.1.2. Thị trường chứng khoán.................................................................................7
1.2. Các khía cạnh tiêu cực của thị trường chứng khốn....................................10
1.2.1. Giao dịch nội gián.........................................................................................10
1.2.2. Thao túng thị trường.....................................................................................10
1.2.3. Các hành vi khác (bán khống, “rải đinh” …)..............................................12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM...........................................................14
2.1. Giao dịch nội gián............................................................................................14
2.2. Thao túng thị trường chứng khoán................................................................15
2.3. Các hành vi khác.............................................................................................17
2.3.1. Mua bán cổ phiếu ngầm................................................................................17
2.3.2. Phao tin đồn khơng chính xác hay thơng tin lệch lạc..................................18
2.3.3. Bán khống chứng khốn...............................................................................18
2.4. Ngun nhân....................................................................................................19
2.4.1. Thơng tin khơng cân xứng............................................................................19
2.4.2. Sự ít tham gia của những nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường................20
2.4.3. Hoạt động của thị trường OTC lớn hơn nhiều lần so với thị trường chính
thức.......................................................................................................................... 20
2.4.4. Quy mơ nhỏ và mức độ cơng khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt
Nam.......................................................................................................................... 21

1


2.4.5. Các chế tài xử phạt và mức xử phạt cịn q nhẹ, thiếu tính răn đe, tính kịp


thời........................................................................................................................... 21
2.4.6. Các thông tin, thông tin mật, thông tin không được công khai bị sử dụng
bất hợp pháp............................................................................................................22
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN NHỮNG
KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM........................................................................................................................ 23
3.1. Đối với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)...................................23
3.2. Đối với các Công ty Cổ phần..........................................................................24
3.3. Đối với Nhà đầu tư...........................................................................................24
KẾT LUẬN.............................................................................................................25

2


MỞ ĐẦU
Cùng với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường chứng
khoán ra đời, tồn tại và phát triển như một điều tất yếu. Là một bộ phận thị trường tài
chính có cơ chế hoạt động khá phức tạp nhưng những lợi ích to lớn mà nó đem lại cho
nền kinh tế là khơng thể phủ nhận được. Thị trường chứng khốn có vai trị như một
hệ thống khơi thơng dịng chảy cho các nguồn vốn trong nền kinh tế. Vai trò này ngày
càng trở nên hữu hiệu hơn đối với nền kinh tế đang trên đà phát triển do bản thân nó
chưa có một cơ chế huy động và sử dụng vốn hiệu quả, phù hợp với các quy luật của
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ẩn sau những lợi ích tích cực mà thị trường chứng
khốn mang lại, cịn tồn tại những khía cạnh tiêu cực, ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự
phát triển của thị trường chứng khốn nói riêng mà cịn tác động đến sự phát triển
chung của tồn bộ nền kinh tế.
Bởi những lẽ đó, nhóm 3 chúng em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu
những khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khoán Việt Nam” và từ đó đưa ra
các biện pháp nhằm phịng ngừa và ngăn chặn những tiêu cực khơng mong muốn cịn
tồn tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.


3


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Các kiến thức liên quan
1.1.1. Chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán
Theo Luật Chứng khoán của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của Việt Nam thì “chứng khốn là
bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc
phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khốn được thể hiện dưới hình thức chứng
chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử”.
Chứng khoán đại biểu cho một số tiền nhất định mà người đầu tư đã ứng ra với
mục đích là nó sẽ đem lại cho người sở hữu các quyền và lợi ích nhất định.
1.1.1.2. Phân loại chứng khoán
Theo khả năng chuyển nhượng, chứng khoán được phân thành: chứng khoán ghi
danh và chứng khốn vơ danh.
Theo tính chất sở hữu và nguồn gốc của chứng khoán, chứng khoán được phân
thành: chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và chứng khoán phái sinh.
Theo đặc điểm thu nhập do chứng khoán mang lại, chứng khoán được phân
thành: chứng khốn có thu nhập cố định, chứng khốn có thu nhập biến đổi.
1.1.1.3. Các đặc trưng cơ bản của chứng khốn
Chứng khốn có nhiều loại, mỗi loại có những điểm khác nhau nhất định nhưng
chúng đều có các đặc trưng cơ bản sau:
Tính sinh lợi: Tính sinh lợi của chứng khoán là khả năng đem lại thu nhập cho
người sở hữu chúng.
Tính rủi ro: Tính rủi ro của chứng khoán là khả năng xảy ra những sự cố khơng
lường trước, và khi nó xảy ra làm thu nhập thực tế khác thu nhập dự kiến (rủi ro vỡ nợ,

rủi ro lạm phát, rủi ro hối đoái, rủi ro thị trường, rủi ro kỹ thuật…)
Tính thanh khoản: Tính thanh khoản của chứng khoán là khả năng chuyển đổi
chứng khoán thành tiền của người nắm giữ chứng khoán.
1.1.2. Thị trường chứng khoán
1.1.2.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
TTCK là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch mua bán chứng
khoán (chứng khoán nợ và chứng khoán vốn). TTCK là một bộ phận của thị trường tài
chính.
1.1.2.2. Đặc điểm của thị trường chứng khốn
Thứ nhất, hàng hóa của TTCK là các loại chứng khốn. Đó là những cơng cụ
chuyển tải giá trị. Chứng khốn khơng có những tính năng tác dụng và mục đích sử
4


dụng riêng như hàng hóa. Do vậy, việc phát hành, giao dịch các chứng khốn với tư
cách là hàng hóa trên TTCK của tổ chức phát hành, của nhà đầu tư nhằm mục đích huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi cho đầu tư, đồng thời thực hiện việc chuyển dịch các
dịng tiết kiệm và đầu tư nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
Thứ hai, TTCK được đặc trưng bởi hình thức chuyển giao tài chính trực tiếp,
những người có khả năng cung ứng vốn có thể điều chuyển vốn trực tiếp cho người
cần vốn mà không cần thông qua các trung gian tài chính với tư cách là một chủ thể
riêng biệt, độc lập thực hiện huy động vốn để phân phối vốn nhằm đạt được những lợi
ích riêng.
Thứ ba, hoạt động mua bán trên TTCK chủ yếu được thực hiện qua người môi
giới. TTCK là nơi phát hành, mua bán chứng khốn - cơng cụ chuyển tải giá trị, nên
bằng những giác quan thơng thường nhà đầu tư khó có khả năng phân biệt được chứng
khốn đó có đảm bảo yêu cầu về mặt pháp lý cũng như chất lượng của chúng. Vì vậy,
để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhà đầu tư, đảm bảo TTCK hoạt động đúng pháp
luật, công bằng, công khai và hiệu quả, luật pháp các nước thường quy định hoạt động
mua bán chứng khốn trên các thị trường có tổ chức phải thơng qua các trung gian, đó

là những nhà mơi giới chứng khoán đã được cấp phép là thành viên giao dịch của thị
trường đó.
Thứ tư, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. TTCK bao gồm nhiều bộ
phận thị trường khác nhau, trong đó TTCK tập trung là bộ phận trung tâm. Ở thị
trường này tất cả mọi người đều được tự do tham gia mua và bán theo nguyên tắc hoạt
động của thị trường. Khơng có sự áp đặt giá cả trên TTCK, giá cả ở đây được xác định
dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thơng tin có liên quan đến
chứng khốn.
Thứ năm, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục. Sau khi các chứng khoán được
phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị
trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển các chứng
khốn của họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn.
1.1.2.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Tham gia TTCK bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, nhưng thông thường và phổ
biến là: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức phụ
trợ, tổ chức quản lý TTCK.
Tổ chức phát hành chứng khoán là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động
vốn thông qua TTCK; là người cung cấp chứng khốn – hàng hóa của TTCK (Chính
phủ và các cấp chính quyền địa phương, Doanh nghiệp, Cơng ty quản lý quỹ đầu tư).
Nhà đầu tư chứng khoán là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khốn nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tư thành nhiều nhóm: Nhà đầu tư cá nhân;
5


Nhà đầu tư tổ chức (Các công ty đầu tư, Các cơng ty bảo hiểm, Các quỹ hưu trí, Các
cơng ty tài chính…); Nhà đầu tư trong nước; Nhà đầu tư nước ngồi.
Người tham gia kinh doanh chứng khốn có thể bao gồm nhiều tổ chức như:
Cơng ty chứng khốn, Công ty quản lý quỹ đầu tư… và cá nhân hành nghề độc lập.
Người cung cấp các dịch vụ kinh doanh chứng khoán như: Tổ chức lưu ký chứng
khoán và thanh toán bù trừ, Tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm, Tổ chức tài trợ chứng

khốn, Tổ chức kiểm tốn… đảm bảo cho TTCK có thể vận hành một cách bình
thường.
Người quản lý và giám sát thị trường thơng thường bao gồm: Nhà nước, Các tổ
chức tự quản… và còn các chủ thể thực hiện khác tùy thuộc theo chính sách phát triển
thị trường và thực tế phát triển TTCK của mỗi quốc gia.
1.1.2.4. Phân loại thị trường chứng khoán
Theo đối tượng giao dịch phân thành: Thị trường cổ phiếu, Thị trường trái phiếu,
Thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư, Thị trường chứng khoán phái sinh.
Theo các giai đoạn vận động của chứng khoán phân thành: Thị trường sơ cấp,
Thị trường thứ cấp.
Theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động phân thành: TTCK chính thức (Thị
trường tập trung - Sở giao dịch, Thị trường phi tập trung – OTC), TTCK khơng chính
thức.
Theo hình thức giao dịch phân thành: Thị trường giao ngay, Thị trường kỳ hạn.
1.1.2.5. Chức năng và vai trị của thị trường chứng khốn
Chức năng:
TTCK tập trung huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua các giao dịch
được thực hiện trên TTCK sơ cấp, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, trong
các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội… được tập trung cho các hoạt động đầu tư
của các tổ chức phát hành.
TTCK điều tiết các nguồn vốn trong nền kinh tế. TTCK nói chung, TTCK thứ
cấp nói riêng là nơi tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khốn. Nhà đầu tư có thể
thu hồi vốn hoặc chuyển vốn đầu tư một cách dễ dàng thông qua các hoạt động bán và
mua các loại chứng khoán.
Vai trò:
TTCK là kênh huy động, tập trung và luân chuyển vốn linh hoạt của nền kinh tế.
TTCK góp phần kích thích cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.
TTCK góp phần đa dạng hóa các hình thức đầu tư và huy động vốn trong nền
kinh tế.


6


TTCK là tấm gương phản ánh thực trạng và tương lai phát triển của doanh
nghiệp.
TTCK là công cụ hữu hiệu giúp Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mơ
nền kinh tế.
TTCK là cơng cụ góp phần thúc đẩy q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngồi ra, TTCK cịn đảm bảo tính thanh khoản cho chứng khốn, làm giảm áp
lực lạm phát, thúc đẩy quá trình cổ phẩn hóa doanh nghiệp Nhà nước…
1.2. Các khía cạnh tiêu cực của thị trường chứng khốn
TTCK khơng phải là cơng cụ vạn năng, nó khơng thể giải quyết được tất cả các
nhu cầu mà nền kinh tế đặt ra. Bên cạnh những tác động tích cực mà TTCK mang lại,
nó cịn chứa đựng những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK nói
riêng và tồn bộ nền kinh tế nói chung. Do đặc điểm của TTCK nên rất dễ nảy sinh các
hành vi vi phạm nguyên tắc, quy chế trong hoạt động mua bán. Đó là thao túng thị
trường, giao dịch nội gián, mua bán chứng khoán ngồi TTCK khơng chính thức làm
ảnh hưởng đến mục tiêu “công bằng, hiệu quả và phát triển ổn định” của thị trường.
1.2.1. Giao dịch nội gián
Giao dịch nội gián là trường hợp người trong nội bộ tổ chức phát hành, hoặc
những người do trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nào đó có được những
thơng tin chưa cơng bố ra công chúng, đã sử dụng hoặc trao cho người khác sử dụng
những thông tin này để đầu tư, tham gia giao dịch có lợi cho mình. Đối tượng để thực
hiện hành vi giao dịch nội gián là những người trong nội bộ nhờ vào chức năng của họ
trong tổ chức phát hành.
Thông tin nội bộ là những thông tin quan trọng, chưa được công bố, liên quan
đến một hoặc nhiều người phát hành, một hoặc nhiều người mua, bán chứng khốn có
kỳ hạn, một hoặc nhiều sản phẩm tài chính đã được niêm yết, mà nếu thơng tin đó
được cơng bố sẽ có khả năng ảnh hưởng đến giá chứng khoán, giá hợp đồng quyền

chọn, hoặc giá sản phẩm tài chính có liên quan. Thơng tin nội bộ bao gồm: những thay
đổi lớn trong chính sách đầu tư, quản lý của công ty niêm yết, giao dịch của công ty
với ngân hàng bị đình chỉ, cơng ty gặp tổn thất do hiểm họa thiên nhiên, các vụ kiện
tụng lớn, tình trạng phá sản hay thâu tóm của cơng ty, những khó khăn trong việc trả
nợ của cơng ty, những thay đổi trong ban quản trị, các kế hoạch sáp nhập, giải thể của
công ty…
Mua bán nội gián là một hành vi phi đạo đức về mặt thương mại và đi ngược lại
nguyên tắc mọi nhà đầu tư phải có cơ hội như nhau.
1.2.2. Thao túng thị trường
Thao túng thị trường có thể được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau, nhưng
tựu chung lại đều là những hành vi cố ý gây tác động đến thị trường bằng cách vận
7


dụng quy luật cung - cầu hoặc các hành vi nhân tạo khác tác động đến giá cả chứng
khoán, nhằm đạt mục tiêu có lợi cho riêng mình. Thao túng thị trường thường được thể
hiện dưới các hình thức cụ thể sau:
Một là, đầu cơ chứng khoán. Trên TTCK, hoạt động đầu tư chứng khoán được
xem là hoạt động cơ bản nhất của thị trường. Tuy vậy, cũng như bất kỳ hoạt động kinh
tế nào, bên cạnh hoạt động đầu tư chứng khốn tích cực thơng thường thì hoạt động
đầu cơ chứng khốn, hay các nhà kinh tế cịn gọi là hoạt động đầu tư mang tính chất
đầu cơ, cũng song song tồn tại và là nhân tố hết sức quan trọng và phức tạp trên thị
trường chứng khoán. Đầu tư và đầu cơ đều là những hoạt động kinh doanh nhằm tìm
kiếm lợi nhuận. Hoạt động đầu tư có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn, còn hoạt
động đầu cơ thường mang tính ngắn hạn. Các nhà đầu tư chứng khoán thường mua
chứng khoán để nhận thu nhập từ chứng khốn đó mang lại, cịn các nhà đầu cơ
thường là những người mua bán chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá
chứng khốn qua những lần mua đi bán lại trên TTCK. Bằng sự sáng tạo của mình, họ
chớp lấy thời cơ để mua hoặc bán chớp nhoáng các chứng khoán. Như vậy, mục tiêu
của người đầu cơ không phải là nhận lợi tức của chứng khốn và thâm nhập vào các

cơng ty danh tiếng mà là kiếm lời thông qua việc mua bán để hưởng chênh lệch giá
chứng khoán. Họ sẵn sàng chấp nhận sự rủi ro, mạo hiểm để hy vọng thu được nhiều
lợi nhuận cho mình. Vì vậy, những người đầu cơ thường hay tập trung vào những
chứng khoán mà nhiều người cho rằng chúng có mức độ rủi ro cao. Họ thường quan
tâm khai thác những thơng tin có tính chất nhất thời, thẩm định, dự đốn những khả
năng có tính chất bất thường. Đầu tư và đầu cơ đều là những hoạt động kinh doanh,
giữa chúng có mức độ độc lập nhất định và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Trên thực tế,
một người mua chứng khoán với mục đích ban đầu là đầu tư, nhưng do giá chứng
khốn họ đang nắm giữ lên giá hoặc sụt giá một cách nhanh chóng khiến họ phải quyết
định bán đi các chứng khốn mà mình đang nắm giữ nhằm kiếm lời từ sự chênh lệch
giá mua bán, hoặc bán đi để hạn chế rủi ro khi giá cuống, và vơ tình họ đã trở thành
một nhà đầu cơ chứng khoán tạm thời. Có thể nói rằng, trong hoạt động đầu tư đã nhen
nhóm những yếu tố mang tính chất đầu cơ và ngay trong đầu cơ cũng có nhân tố của
đầu tư. Thực tiễn hoạt động của TTCK có rất nhiều ví dụ sinh động về mối liên hệ rất
chặt chẽ cũng như ranh giới mỏng manh giữa đầu tư và đầu cơ. Trên TTCK, các nhà
đầu tư là những người giám bỏ tiền ra mua những loại chứng khoán khi có nhiều
người bán, nhưng có rất ít người mua. Và ngược lại, họ cũng sẵn sàng bán khi có nhiều
người mua nhưng có ít người bán. Chính các nhà đầu cơ, bằng kinh nghiệm, óc kinh
doanh và tiền bạc của mình, họ đã giúp cho hoạt động của thị trường khơng bị gián
đoạn. Trên góc độ đó, những nhà đầu cơ cũng có vai trị tích cực làm cho TTCK có
tính thanh khoản cao, hoạt động giao dịch trên thị trường thêm phần sơi động. Vì vậy,
8


những hoạt động đầu cơ này đều được các thị trường cho phép thực hiện. Tuy nhiên,
cũng có những hành động đầu cơ bị cấm. Đó là những hành động nhằm tạo ra sức ép
về cung cầu một loại chứng khốn nào đó trên thị trường dẫn đến hình thành giá chứng
khốn khơng đúng về giá trị đích thực của nó, để có lợi cho người đầu cơ và gây thiệt
hại cho những nhà đầu tư khác. Ví dụ: các nhà đầu cơ kết hợp với nhau cùng liên tục
mua, hoặc bán một loại chứng khoán, gây nên sự khan hiếm hay thừa thãi một cách giả

tạo, dẫn đến giá cả chứng khoán sẽ gia tăng hoặc giảm sút một cách đột ngột. Khi giá
đã tăng hoặc hạ đến một điểm tối ưu, một người trong số đó sẽ bán ra hoặc mua vào
hết…
Hai là, hiện tượng chèn ép, cá lớn nuốt cá bé. Đó là hành vi những thương gia
lớn thường đẩy giá lên hoặc ghìm giá xuống để thu lợi, gây nên những thiệt hại cho
những người có số lượng chứng khốn ít ỏi, vì trên TTCK giá cả hoàn toàn do cung
cầu quyết định.
Ba là, lan truyền thơng tin khơng chính xác hay một thơng tin lệch lạc về hiện
trạng và triển vọng của một đơn vị kinh tế. Điều này gây nên những hậu quả xấu cho
đơn vị phát hành, cho thị trường và các nhà đầu tư chân chính. Các hiện tượng này có
thể dẫn đến tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột
ngột, hoặc tình trạng đầu tư gia tăng làm cổ phiếu tăng nhanh vượt quá giá trị thực của
chúng. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua hoặc bán cổ phiếu đó để khống
chế cơng ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã được kiểm chứng.
Bốn là, cố ý gây sai lệch hay sự hiểu lầm về hoạt động giao dịch của một loại
chứng khoán.
Năm là, tìm mọi biện pháp để duy trì, ổn định mức giá chứng khoán nhằm tạo ra
những lợi thế cho việc chào bán hoặc phát hành chứng khoán mới.
Sáu là, thực hiện giao dịch được sắp đặt trước hay giao dịch giả tạo…
1.2.3. Các hành vi khác (bán khống, “rải đinh” …)
Mua bán chứng khoán trên TTCK tự do cũng có thể gây nên những hậu quả khó
lường, vì bộ phận quản lý không thể biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu của
một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngồi có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu
tư khác, thậm chí đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của công ty.
Bán khống chứng khốn (Short Sales) là hình thức giao dịch chứng khốn mà
người bán khơng sở hữu. Thay vào đó, họ mượn chứng khốn để bán với mong muốn
kiếm lợi nhuận bằng cách mua và trả lại chứng khoán này khi giá chứng khoán giảm.
Kinh doanh chụp giật kiểu rải đinh. Lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài khoản,
những kẻ đầu cơ đã tạo ra nhiều tài khoản riêng đứng tên những người khác. Khi thực
hiện lệnh mua hoặc bán, họ đặt giá ở nhiều cấp độ khác nhau. Việc làm này khiến

khơng ít nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm cho rằng, cổ phiếu đang xuống thấp hoặc lên
cao ở các mức độ an tồn, có thể mua vào hoặc bán ra vào thời điểm đó là hợp lý. Khi
9


những nhà đầu tư non nớt làm việc trên thì các đại gia dựa vào nhiều tài khoản khác
mà họ lập sẵn để mua vào hoặc bán ra theo kế hoạch mà họ đã sắp đặt trước.
Ngoài nhưng kiểu kinh doanh chụp giật trên, cịn có kiểu chụp giật khác thường
thấy trên TTCK Việt Nam là: một số nhà đầu tư liên kết với nhau để đưa một loại cổ
phiếu nào đó lên đỉnh cao hoặc dìm xuống với giá thấp để thực hiện ý đồ xấu.

10


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Giao dịch nội gián
Giao dịch nội gián tồn tại ở ngay các thị trường tài chính và TTCK những quốc
gia phát triển, vì nó mang lại lợi ích rất lớn cho những người thực hiện. Tuy nhiên, do
hệ thống giám sát của những nước này rất chặt chẽ và có sự phối hợp của nhiều cơ
quan tham gia, với chế tài xử phạt đầy đủ, rõ ràng nên ở đó, các hành vi giao dịch nội
gián được hạn chế khá tốt. Còn ở Việt Nam, khi mà cơng ty đại chúng cịn sử dụng
thơng tin như là “món quà” cho một hoặc một nhóm nhỏ người đầu tư, thị trường
khơng thể khơng có giao dịch nội gián. Một số giao dịch nội gián có thể kể đến như:
Tháng 9/2009, bà Đào Thị Kiều cổ đông nội bộ của KSH (CTCP tập đồn
Khống sản Hamico) đã tiết lộ thông tin nội bộ về việc triển khai dự án khai thác mỏ
vàng Sa Khoáng của doanh nghiệp này cho bà Nguyễn Thị Nhung và ông Nguyễn Văn
Giống để giao dịch cổ phiếu KSH, trước khi thông tin này được cơng bố lên sở giao
dịch chứng khốn. Trong tháng 9/2009 Bà Nguyễn Thị Nhung và ông Nguyễn Văn
Giống đã sử dụng thông tin nội bộ về việc triển khai dự án khai thác mỏ vàng Sa

Khoáng của Hamico để mua, bán chứng khoán KSH. Đồng thời, bà Nguyễn Thị
Nhung là cổ đông lớn đã thực hiện giao dịch làm thay đổi vượt quá 1% số lượng cổ
phiếu đang lưu hành của KSH mà không báo cáo với UBCK, Sở giao dịch chứng
khoán TP. HCM. Với mức độ vi phạm trên, UBCK quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đối với bà Đào Thị Kiều, phạt tiền 50 triệu đồng, còn đối với bà Nguyễn Thị
Nhung phạt tiền 65 triệu đồng. Trong khi đó, ơng Nguyễn Văn Giống bị phạt tiền 50
triệu đồng.
Hành vi giao dịch cổ phiếu nội bộ của kế tốn trưởng của Cơng ty Cổ phần Tàu
cao tốc Superdong - Kiên Giang trước khi công ty cơng bố thơng tin xử phạt hành
chính về thuế. Bà Lưu Hải Anh, Kế tốn trưởng của Cơng ty Cổ phần Tàu cao tốc
Superdong - Kiên Giang (SKG) đã bị xử phạt 450 triệu đồng vì đã bán 5.400 cổ phiếu
SKG trong thời gian từ ngày 20/6 - 28/6/2017, trước khi Công ty Cổ phần Tàu cao tốc
Superdong - Kiên Giang công bố thông tin về việc Chi cục thuế huyện Phú Quốc xử
phạt hành chính về thuế đối với công ty này. Hành vi này giúp bà Hải Anh thu về
khoản lợi nhuận 85 triệu đồng. Ngoài ra, bà Lưu Hải Anh bị xử phạt 450 triệu đồng và
phải khắc phục hậu quả bằng việc buộc nộp lại số lợi nhuận bất hợp pháp có được do
thực hiện hành vi vi phạm. Tổng số tiền kế toán trưởng của Công ty Cổ phần Tàu cao
tốc Superdong - Kiên Giang phải nộp lại là 535 triệu đồng.
Nếu như hành vi thao túng giá cổ phiếu diễn ra khá âm thầm, thì hành vi lạm
dụng thơng tin nội bộ để giao dịch cổ phiếu diễn ra khá phổ cập trên thị trường. UBCK
đã ban hành nhiều quyết định xử phạt các lãnh đạo doanh nghiệp, người có liên quan
11


đến các chức danh quản lý tại doanh nghiệp, đã vi phạm các quy định về báo cáo
thông tin liên quan đến giao dịch cổ phiếu. Có thể kể đến một số vụ việc gần đây như:
Chẳng hạn, năm 2019 UBCK đã phạt ông Kakazu Shogo, Chủ tịch HĐQT kiêm
Tổng giám đốc CTCP PGT Holding 22,5 triệu đồng về việc báo cáo không đúng thời
hạn về kết quả thực hiện giao dịch. Ông Kakazu Shogo bán 829.021 cổ phiếu PGT từ
ngày 5/12/2018 đến ngày 7/12/2018, nhưng đến ngày 3/1/2019 Sở Giao dịch Chứng

khoán Hà Nội mới nhận được báo cáo về kết quả thực hiện giao dịch của ông này.
Ngày 13/12/2019, bà Vương Ngọc Tuyết mua 5.280 cổ phiếu Công ty CP Hóa
An (mã CK: DHA), làm tăng số lượng cổ phiếu (tỷ lệ) sở hữu từ 732.400 cổ phiếu
DHA (4,97%) lên 737.680 cổ phiếu DHA (5,008%) và trở thành cổ đông lớn của
DHA. Ngày 10/2/2020, bà Vương Ngọc Tuyết lại bán 50.000 cổ phiếu DHA, làm giảm
số lượng cổ phiếu (tỷ lệ) sở hữu từ 774.250 cổ phiếu DHA (5,257%) xuống cịn
724.250 cổ phiếu DHA (4,918%) và khơng cịn là cổ đông lớn của DHA. Tuy nhiên,
đến ngày 23/4/2020, Sở Giao dịch Chứng khốn TP. Hồ Chí Minh mới nhận được báo
cáo của bà Vương Ngọc Tuyết.
2.2. Thao túng thị trường chứng khốn
Việc bn bán cổ phiếu ở Việt Nam đã diễn ra sôi động kể từ sau khi các doanh
nghiệp thực hiện cổ phần hóa, nhưng TTCK nước ta mới chính thức hoạt động từ năm
2000, kể từ khi ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh ngày
28/7/2000. Khi đó mới có một vài cổ phiếu được giao dịch với tổng số vốn 27 tỷ đồng
và 6 cơng ty chứng khốn thành viên. Hơn 6 năm đầu, mức vốn hóa của thị trường mới
chỉ tăng lên 0.5 tỷ USD. Sau đó mức vốn hóa thị trường đã tăng đột biến, tháng
12/2006 đạt 13.8 tỷ USD và đến cuối tháng 4/2007 đạt 24.4 tỷ USD, tăng hơn 1400 lần
so với năm 2000, và nếu tính cả trái phiếu thì đạt được mức 46% GDP. Số lượng
doanh nghiệp niêm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn đầu tư gián tiếp FPI đổ vào
TTCK Việt Nam cũng tăng đáng kể. Chỉ số VN - index cũng đã chứng minh sự tăng
trưởng nhanh chóng của thị trường. Càng ngày, số lượng nhà đầu tư mới tham gia vào
thị trường ngày càng đông, không những là nhà đầu tư nước ngồi mà số lượng nhà
đầu tư có tổ chức cũng tăng lên đáng kể…
Đây cũng là thời kỳ mà người dân đổ xô vào đầu tư, đầu cơ chứng khoán, chứng
khoán phổ biến đến nỗi cả những người bán rau, bán thịt, những người gần như khơng
có chút hiểu biết gì về thị trường cũng lao vào. Và đây cũng chính là cơ hội cho những
hành vi xấu, hành vi thao túng thị trường xuất hiện. Một số vụ việc điển hình gần đây
nhất phải kể đến như sau:
Trong năm 2019, UBCK Nhà nước (UBCKNN) đã phát hiện và xử phạt 9 vụ
thao túng cổ phiếu với tổng số tiền phạt là 4,5 tỷ đồng, trong đó có trường hợp phải

truy tố hình sự của bà Phạm Thị Hinh.
12


Trong số 9 trường hợp thao túng giá từ đầu năm đến nay, trường hợp của bà
Hoàng Thị Hoài và ông Chu Trường Giang chịu số tiền phạt nặng nhất (600 triệu đồng
cho mỗi vi phạm).
Bà Hoàng Thị Hoài - nguyên Chủ tịch HĐQT CTCP PIV (UPCoM: PIV) đã sử
dụng 42 tài khoản để liên tục mua bán, tạo cung cầu giả tạo, thao túng giá cổ phiếu
PIV. Được biết, bà Hoàng Thị Hoài bị miễn nhiệm chức danh HĐQT của PIV vào
ngày 29/6/2018. Trước khi cổ phiếu PIV chịu án hủy niêm yết do kiểm toán từ chối
đưa ra ý kiến đối với Báo cáo tài chính năm 2017, bà Hồi với chức danh Chủ tịch
HĐQT khi đó đã liên tục gom vào cổ phiếu PIV với khối lượng đăng ký từ 1-2 triệu cổ
phiếu bằng cả 2 phương thức thỏa thuận và khớp lệnh. Tuy nhiên, nguyên Chủ tịch
PIV chỉ gom được vài trăm cổ phiếu ở mỗi lần giao dịch.

Biến động giá cổ phiếu của PIV trong thời gian bị thao túng giá. Nguồn:
VietstockFinance
Với trường hợp của ông Chu Trường Giang - nguyên nhân viên môi giới tại một
Cơng ty chứng khốn đã sử dụng 43 tài khoản để liên tục mua, bán, tạo cung cầu giả
tạo, thao túng cổ phiếu của CTCP Viễn thông Vạn Xuân (HNX: VAT). Ngồi việc bị
phạt 600 triệu đồng, ơng Giang cịn bị UBCKNN thu hồi chứng chỉ hành nghề Mơi
giới chứng khoán.

Biến động giá cổ phiếu của VAT trong thời gian bị thao túng giá. Nguồn:
VietstockFinance

13



Song song đó, có 6 trường hợp khác bị phạt tiền 550 triệu đồng cho mỗi vi phạm,
cụ thể đối với ông Đinh Xuân Cường, ông Lê Văn Lâm, ông Nguyễn Thanh Lâm, bà
Nguyễn Thị Nhung, ông Nguyễn Quang Khải và ông Nguyễn Kim Dĩnh.
Riêng trường hợp của nguyên Chủ tịch HĐQT CTCP Cơng nghiệp Khống sản
Bình Thuận (KSA) - bà Phạm Thị Hinh, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành
phố Hà Nội đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ngày 21/03/2019
đã áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ hình sự đối với bà Hinh về tội thao túng
thị trường chứng khoán theo quy định tại Điều 211 Bộ Luật hình sự.
Theo cáo trạng, cuối năm 2015, bà Hinh thực hiện việc tăng vốn điều lệ của KSA
bằng cách phát hành thêm 56,5 triệu cổ phiếu KSA chào bán ra công chúng.
Sau khi phát hành, giá cổ phiếu KSA giảm mạnh, tính thanh khoản thấp. Lúc này,
bà Hinh nảy sinh ý định lập ra một số tài khoản để thực hiện giao dịch chéo, nhằm
tăng giá cổ phiếu, tăng tính thanh khoản.
Để thực hiện hành vi, bà Hinh chỉ đạo nhân viên công ty VSM là Trần Hồng
Ngọc lập ra 69 tài khoản và thỏa thuận với Tuấn và Hùng (đều là nhân viên cơng ty
chứng khốn Maritime - MSI) sử dụng 69 tài khoản trên liên tục thực hiện việc mua,
bán chứng khoán KSA.
Trong khoảng thời gian từ ngày 11/12/2015 đến 8/7/2016, hành vi của bà Hinh và
đồng phạm đã gây thiệt hại cho 1.496 nhà đầu tư tham gia giao dịch cổ phiếu KSA,
với tổng số tiền thiệt hại là hơn 8,1 tỷ đồng.
Ngoài ra, 3 cơng ty chứng khốn gồm: Cơng ty TNHH chứng khốn Mirae Asset
Việt Nam, cơng ty CP Chứng khốn Phú Hưng, cơng ty CP Chứng khốn Dầu khí cho
vay đối với các tài khoản do Hinh, Ngọc, Tuấn sử dụng giao dịch chéo cũng bị thiệt
hại hơn 761 triệu đồng.
Ngoài những vụ thao túng giá bị xử phạt hay bị khởi tố đã kể trên, vụ án liên
quan đến thao túng giá chứng khoán liên quan đến CTCP Mỏ và xuất khập khẩu
khoáng sản miền Trung (MTM) đã được xét xử sơ thẩm với 15 bị cáo đã bị kết án về 4
tội danh, với các mức án tù chung thân đến tù treo, trong đó Chủ tịch Trần Hữu Tiệp
lãnh án chung thân.
2.3. Các hành vi khác

2.3.1. Mua bán cổ phiếu ngầm
Mua bán cổ phiếu ngầm làm việc mua bán khơng có TTCK. Điều này có thể gây
áp lực cho các nhà đầu tư đưa tới việc khống chế hay thay thế lãnh đạo.
Ở Việt Nam hiện nay đang có một thị trường cổ phiếu ngầm hoạt động rất sôi
nổi. Thị trường này được tạo nên bởi hiện tượng từ nhân hóa trong q trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhiều cá nhân bên ngồi đã móc nối với các chức sắc bên
trong các công ty cổ phần hóa để mua cổ phiếu của cơng nhân với mức giá thấp hơn
14


rất nhiều so với giá bên ngoài thị trường. Một số cổ đông do thiếu hiểu biết đã chuyển
nhượng tài sản vào tay cắt đầu nậu theo hình thức như vậy. Đơn cử như công ty cổ
phần Tr.T., 80% số cổ phiếu với số tiền mua bán trên 20 tỷ đồng đã được chuyển
nhượng bất hợp pháp cho một cá nhân bên ngoài. Hay trường hợp một số doanh
nghiệp lợi dụng chủ trương ưu tiên cho công nhân trong công ty mua cổ phiền ưu đãi
và cổ phần phổ thông để ôm trọn số cổ phiếu phát hành. Do tâm lý sợ lỗ công nhân
thường “bán đổ bán tháo” cổ phiếu của mình và số cổ phiếu này lại rơi vào tay một số
người quản lý doanh nghiệp. Số cổ phiếu bán ra chỉ để che mắt thế gian, chiếm có 8%
giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Đơn cử TTBKT đã định giá thấp tài sản của công ty,
400m2 đất của công ty chỉ được định giá 100.000 USD trong khi giá thị trường lên tới
7 triệu USD và chỉ có 9 người đã mua gần 39% số cổ phiếu cơng ty.
2.3.2. Phao tin đồn khơng chính xác hay thông tin lệch lạc
Đây là việc đưa ra thông tin sai sự thật về tình hình tài chính, tình hình nội bộ của
công ty hay về môi trường kinh doanh của công ty nhằm tăng hay giảm giá cổ phiếu
để thu lơi nhuận cho cá nhân.
Ví dụ điển hình là cổ phiếu DVD (Công ty Cổ phần dược Viễn Đông) đã có lúc
giá lên tới hơn 100.000 đồng rồi rơi về 3.500 đồng trước khi bị hủy niêm yết (4,5).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc này chính là do Tổng giám đốc của
DVD thao túng giá chứng khoán và vi phạm hàng loạt quy định công bố thông tin
doanh nghiệp. Dù ông này đã bị kết án, nhưng thiệt hại của nhà đầu tư không chỉ tiền

bạc mà cịn là lịng tin vào thị trường nói chung. Rất nhiều việc phải làm để người dân
không phải tự bơi trong những luồng thông tin hỗn tạp. Nếu nguồn tin khơng chính
xác thì các nhận định trên đó sẽ khơng còn thuyết phục được ai. Hy vọng rằng trong
thời gian tới sẽ có những số liệu xác thực hơn, khách quan hơn, khoa học hơn trong
các bản tin kinh tế.
Nhận diện hành vi tiêu cực trên TTCK. Cẩn trọng luôn là đức tính cần thiết của
bất kỳ nhà đầu tư chứng khoán nào. Những nhà đầu tư chứng khoán nên biết trước và
cảnh giác đối với những “cạm bẫy” thường trực trên TTCK. Có thế mới tránh được
những rủi ro lớn trong quá trình đầu tư. Sau đây là một số hành vi tiêu cực thưởng xảy
ra trên TTCK qua tổng kết kinh nghiệm của một số chuyên gia.
2.3.3. Bán khống chứng khốn
Bán khống chứng khốn (short sell) là hình thức vay mượn chứng khốn từ cơng
ty chứng khốn hoặc các tổ chức tài chính để bán với kỳ vọng rằng nó sẽ giảm giá để
mua vào ở một mức giá thấp hơn và hồn trả chứng khốn đã vay. Lợi nhuận từ mức
giá chênh lệch thuộc về nhà đầu tư và các tổ chức tài chính/ cơng ty chứng khoán sẽ
nhận được hoa hồng hoặc khoản lãi trên giao dịch. Các loại hình chứng khốn như cổ
phiếu, trái phiếu hay các sản phẩm phái sinh đều có thể được bán khống. Ngoài các
15


quỹ tương hỗ hay quỹ phòng hộ, những nhà đầu tư cá nhân có đủ tài sản bảo đảm để
vay mượn chứng khốn cũng có thể tham gia giao dịch bán khống.
Ví dụ:
Theo cáo trạng, Phan Thiên Hậu được nhận vào làm ở trị trí trưởng phịng mơi
giới Cơng ty CP Chứng khốn Viễn Đơng. Q trình thực hiện nhiệm vụ, Hậu cấu kết
với Nguyễn Ngọc Phước - Phó Tổng giám đốc Công ty Viễn Đông thực hiện việc bán
khống chứng khoán để chiếm đoạt tiền.
Từ tháng 8/2009 đến cuối năm 2009, Hậu và Phước đã nhờ bạn bè, người thân
đứng tên mở nhiều tài khoản giao dịch chứng khoán tại Cơng ty CP Chứng khốn Viễn
Đơng. Dù tài khoản khơng có chứng khốn nhưng Hậu và Phước vẫn chỉ đạo Lê Thị

Phương Anh (nhân viên môi giới) lưu ký khống các loại chứng khốn có giá trị cao
như ACB, EIB, SSI, PNJ… để bán ra lấy tiền sử dụng cá nhân. Hành vi của các bị cáo
đã gây thiệt hại cho công ty 4,4 tỷ đồng.
Cuối năm 2009, Công ty Viễn Đông phát hiện ra hành vi sai trái của các đối
tượng nên làm đơn tố cáo lên cơ quan công an. Tại cơ quan điều tra, các đối tượng
thừa nhận hành vi lưu ký và bán khống chứng khốn của mình.
Tại phiên tịa hơm nay, Đại diện VKS đề nghị phạt Hậu từ 12 đến 14 năm tù, hai
bị cáo còn lại từ 8 đến 10 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, Hội
đồng xét xử nhận định việc xác định tội danh lừa đảo là khơng chính xác. Vì các bị cáo
có nhiệm vụ quản lý tài sản và mục đích của họ khơng có ý định chiếm đoạt tiền của
cơng ty chứng khoán mà chỉ nhằm hưởng số tiền chênh lệch nên tuyên mức án như
trên.
2.4. Nguyên nhân
2.4.1. Thông tin không cân xứng.
Hiện nay cả nước có khoảng hơn 6.700 cơng ty cổ phần, bao gồm khoảng 2.000
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hố và cịn lại là các cơng ty cổ phần thành lập theo
Luật doanh nghiệp. Chỉ cần khoảng 10% số công ty trên tham gia bán cổ phần ra
TTCK thì chúng ta sẽ có con số “cung” cao gấp 15 lần hiện tại. Việt Nam hiện có tổng
số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng hơn 400.000 tỷ đồng, cộng với hàng chục ngàn
tỷ đồng tiền mua bảo hiểm hàng năm và một lượng tiền không nhỏ đổ vào bất động
sản, vàng… Nếu những khoản tiền này được đưa vào TTCK, đây chắc chắn sẽ là một
tiềm năng rất lớn từ phía “cầu”.
Nếu với lượng tiềm năng thị trường rất lớn cả về cung và cầu như vậy, tại sao
chúng ta chưa có số lượng trao đổi mua bán lớn. Cung và cầu chưa gặp được nhau
chính bởi sự ngăn cách của bức tường thông tin. Hiện nay, người mua có rất ít thơng
tin và điều kiện để thẩm định giá trị của loại cổ phiếu mình mua:

16



Thứ nhất, rất khó tìm kiếm báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, cần phải
nhìn nhận vấn đề cơng khai thông tin như một điều kiện tiên quyết cho một TTCK
lành mạnh.
Thứ hai, một số các công ty cung cấp thông tin một cách thiếu trung thực và
không đầy đủ, làm giảm độ tin cậy của thông tin. TTCK không thể thiếu các quy định
được tuân thủ nghiêm ngặt về kế tốn và kiểm tốn.
Thứ ba, nếu các cơng ty chứng khốn đưa ra thơng tin chính xác thì khả năng
phân tích tồn diện để xác định giá trị cổ phiếu là rất khó khăn đối với nhà đầu tư. Việt
Nam rất cần những tổ chức độc lập có đủ trình độ và uy tín để đánh giá đúng “sức
khoẻ” của các doanh nghiệp. Những đánh giá chính xác và công bằng của họ sẽ giúp
các nhà đầu tư đủ tự tin để quyết định “mua hàng”, đầu tư.
2.4.2. Sự ít tham gia của những nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường.
Về phía cầu, những nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường giao dịch chứng khoán
Việt Nam hầu hết là cá nhân mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn
định của thị trường.
Điều này làm cho chính các doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định huy động
vốn qua thị trường giao dịch chứng khoán.
Những nhà đầu tư tổ chức Việt Nam cũng như nước ngoài chưa tham gia nhiều
vào mua cổ phiếu của các công ty niêm yết, một phần là do tính kém hấp dẫn của các
cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng một phần do những khó khăn, phức tạp liên quan
đến khn khổ pháp lý. (trong tình trạng pháp luật thường xuyên được sửa đổi, bổ
sung, thiếu tính ổn định để tạo niềm tin cho nhà đầu tư).
Những khó khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số chưa
đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch thông tin, các quy định chưa rõ
ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước ngoài, các hạn chế về hạn
mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài…
2.4.3. Hoạt động của thị trường OTC lớn hơn nhiều lần so với thị trường chính
thức.
Việc bán cổ phiếu cho cơng chúng ở bên ngồi thị trường giao dịch chứng khoán
(thị trường phi tập trung OTC) diễn ra khá sơi động, nhưng hiện chưa có quy định

pháp luật nào kiểm sốt hoạt động này. Theo ước tính, số lượng doanh nghiệp huy
động vốn cổ đông từ công chúng trên thị trường khơng chính thức này gấp khoảng 30
lần số doanh nghiệp niêm yết chính thức. Trong số khoảng 1.000 doanh nghiệp nhà
nước đã được cổ phần hóa, chỉ có chưa tới 3% đã niêm yết, như vậy có thể cho rằng
một số lượng lớn cổ phiếu của các doanh nghiệp này đang được mua bán trên thị
trường khơng chính thức.

17


Ở các nền kinh tế phát triển, thị trường OTC thường cũng có quy mơ lớn hơn gấp
nhiều lần thị trường tập trung, song thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ khá
chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn chưa được thiết
lập ở Việt Nam. Thị trường phi chính thức khơng được kiểm sốt này có nguy cơ sụp
đổ cao và có thể gián tiếp làm tổn hại cho thị trường chính thức mới manh nha phát
triển.
2.4.4. Quy mơ nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt
Nam
Các công ty tư nhân của Việt Nam mới phát triển trong vòng hơn một thập kỷ
qua, đặc biệt là từ những năm 2000. Vì vậy, hầu hết các công ty tư nhân đều ở một quy
mô nhỏ hoặc rất nhỏ và thường được quản lý theo kiểu gia đình. Hơn nữa, nhiều doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam thường tìm cách duy trì chế độ nhiều sổ sách và khơng cơng
khai thơng tin. Ví dụ, số doanh nghiệp báo cáo tài chính theo quy định của Luật Doanh
nghiệp chỉ chiếm khoảng 15-20%.
Nguyên nhân của tình hình này khơng chỉ do ý định chủ quan, thói quen của
doanh nghiệp mà còn do sự thiếu vắng khung pháp lý và các chuẩn mực về cơng khai
thơng tin, kiểm tốn, kế toán… của Việt Nam. Các vấn đề này tiếp tục là trở ngại đối
với nhà đầu tư và không khuyến khích được hoạt động huy động vốn cổ đơng.
2.4.5. Các chế tài xử phạt và mức xử phạt còn quá nhẹ, thiếu tính răn đe, tính kịp
thời

Thời gian qua, UBCK nhà nước đã tăng cường việc giám sát, thanh tra và xử
phạt trên TTCK, nhiều lần xử lý các vi phạm “làm giá” của các cơng ty chứng khốn.
Bộ Tài chính ban hành Thơng tư 09 hướng dẫn về công bố thông tin trên TTCK đã
được giới đầu tư hoan nghênh và kỳ vọng về một thị trường minh bạch. Tuy nhiên,
mức phạt cịn q nhẹ, do đó cần thiết phải có hình thức xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khốn nặng hơn, mức độ răn đe nghiêm khắc hơn.
Thực tế, trên TTCK Việt Nam, theo đánh giá của các chuyên gia những trường
hợp thao túng giá là khơng khó để nhận biết.
Luật Chứng khốn năm 2019 cũng đã bổ sung một số quyền cho UBCK Nhà
nước. Trong đó, đặc biệt phải kể đến việc UBCK Nhà nước được quyền yêu cầu các tổ
chức tín dụng cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch trên tài khoản của khách
hàng đối với các trường hợp có dấu hiệu thực hiện hành vi bị cấm trong hoạt động
chứng khoán… Sự tăng cường thẩm quyền này được kỳ vọng sẽ hạn chế vấn đề thao
túng giá chứng khoán.
Dù vậy, đây vẫn là vấn nạn lớn khi ngay trong nửa năm 2020, UBCK Nhà nước
phải xử lý nhiều trường hợp thao túng giá, mà chủ yếu trong số này là đều không thu
lời. Điểm chung của những cuộc thao túng giá cổ phiếu là đa số xuất hiện qua nhiều tài
18


khoản cá nhân liên quan đến đối tượng bị xử phạt, tuy nhiên lại khơng có chế tài xử
phạt các chủ thể liên quan này. Điều này một phần xuất hiện từ quy định cơng bố
thơng tin người có liên quan khơng rõ ràng.
Do đó, với góc nhìn của các nhà đầu tư thì đa phần đều có ý kiến cho rằng hiện
nay các chế tài xử phạt phần nào cịn chưa mang tính chất kịp thời, hành động của các
cơ quan quản lý chưa tương thích với tính chất biến động nhanh nhạy của thị trường.
Và cần bổ sung chế tài xử phạt về thao túng đối với các tổ chức, cá nhân cho mượn
hoặc vô ý để đối tượng thao túng sử dụng tài khoản nhằm tăng cường tính răn đe.
2.4.6. Các thơng tin, thơng tin mật, thơng tin không được công khai bị sử dụng bất
hợp pháp

Đối với các giao dịch nội gián, giao dịch sắp đặt trước, họ sử dụng các thông tin,
thông tin mật, thông tin không được công khai lấy từ nhiều nguồn - các nhân viên
ngân hàng đầu tư, những người làm việc ở các công ty… để thực hiện các giao dịch
trái phép. Đồng thời những người thực hiện giao dịch nội gián này thống nhất với nhau
sẽ chia sẻ những thông tin này và những lời đồn thổi. Nếu có thơng tin nội gián, họ sẽ
đưa cho nhau và thông đồng giao dịch với nhau.
Vấn đề minh bạch thông tin trên TTCK Việt Nam lâu nay vẫn là điều ấm ức của
hầu hết nhà đầu tư, làm đau đầu các nhà quản lý. Thực tế cho thấy, những năm trước
đây, khi suốt một thời gian khá dài thị trường tăng nóng, lợi nhuận dễ dàng, hầu hết
các nhà đầu tư không quan tâm lắm đến tính minh bạch trong thơng tin chứng khốn.
Nhưng giờ đây, khi tình hình đã hồn tồn khác, những tin đồn thiếu cơ sở, những
thông tin nội gián và sự rị rỉ có ý đồ đã trở thành điều nhức nhối của thị trường.

19


CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN NHỮNG
KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM
Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được xem là đặc trưng
cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. TTCK chi phối tồn bộ hoạt động của
thị trường vốn nói chung và hoạt động của các công ty cổ phần tại Việt Nam nói riêng.
Các mối quan hệ về huy động và luân chuyển nguồn vốn trên TTCK được hình thành
và biến đổi trên cơ sở phản ánh các điều kiện kinh tế vĩ mơ. Chính vì vậy các chính
sách, giải pháp nhằm đảm bảo tính vững chắc và ổn định của TTCK có vai trị quan
trọng trong phát triển kinh tế quốc gia lớn mạnh.
3.1. Đối với Ủy ban Chứng khốn Nhà nước (UBCKNN)
Hồn thiện khung pháp lý về thanh tra, giám sát và xử phạt sai phạm đối với
những hành vi tiêu cực trên TTCK; ban hành những văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt
động của TTCK tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho sự hoạt động và phát triển của
TTCK ở Việt Nam.

Nâng cao trình độ đội ngũ thanh tra cả về năng lực chuyên môn cũng như các kỹ
năng cần thiết về ngoại ngữ, công nghệ thông tin, kỹ năng giao tiếp để đáp ứng nhu
cầu ngày càng nâng cao của Việt Nam vào môi trường quốc tế. Dự thảo Luật Chứng
khoán năm 2019 (sửa đổi) đã bổ sung những quy định tăng cường thẩm quyền thanh
tra của UBCKNN. Điều này giúp nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát,
phát hiện các sai phạm liên quan.
UBCKNN cần tăng cường phối hợp với các cơ quan công an, các cơ quan chức
năng khác trong đấu tranh, phòng ngừa, phát hiện, xử lý các đối tượng vi phạm. Tăng
cường phối hợp giữa các Sở giao dịch chứng khoán, các tổ chức kinh doanh và đầu tư
chứng khoán trong hoạt động giám sát các giao dịch bất thường.
Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô và sự nhất quán trong chiến lược phát triển,
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng.
Cập nhật thơng tin, quy định minh bạch, kịp thời, có chế độ thuế đối với các nhà
dầu tư hợp lý.
Sự phát triển TTCK và chương trình cổ phần hóa có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Do đó cần đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa để lựa chọn một số doanh nghiệp có
thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu, cởi trói nhiều hơn trong quyền tự chủ của doanh
nghiệp.
Bất kỳ thị trường nào muốn hoạt động thì cần phải có cung và cầu đối với hàng
hóa phát triển trên thị trường. Đẩy mạnh cung qua các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi cho các
doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Đẩy mạnh cầu qua các
biện pháp khuyến khích tổ chức, cá nhân mua chứng khốn trên cơ sở phát triển kinh

20


tế nhanh, bền vững, kiểm sốt lạm phát; khơi thơng dịng vốn tích trữ lớn trong dân
cư…
Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của trung
tâm giao dịch chứng khoán như: vận hành rộng rãi hệ thống giao dịch khớp lệnh liên

tục, hoàn thiện và phát triển hệ thống công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh tốn
bù trừ…
Cần có những chính sách khuyến khích các nhà đầu tư lớn và có tính chuyên
nghiệp tham gia vào thị trường để họ trở thành những nhà dẫn dắt chính cho sự phát
triển thị trường.
Thực hiện chính sách dần mở cửa thị trường một cách thích hợp để khuyến khích
đầu tư nước ngồi (vốn, chất xám, công nghệ…), thúc đẩy việc niêm yết trên thị
trường nước ngoài, phát triển hợp tác trên lĩnh vực chứng khốn với nước bạn.
3.2. Đối với các Cơng ty Cổ phần
Xây dựng những cơ chế quản trị công ty hiệu quả, có biện pháp giám sát việc
tuân thủ, chấp hành trong nội bộ doanh nghiệp, kịp thời ngăn chặn các hành động vi
phạm của hội đồng quản trị, ban giám đốc.
Nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động quan hệ nhà đầu tư, đội ngũ quan hệ
nhà đầu tư cần có trình độ chun mơn cao để biên tập và công bố kịp thời các thông
tin liên quan đến công ty trên các phương tiện truyền thông. Cần đưa ra thơng tin chính
xác và minh bạch để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư có thể phân tích các thơng số kỹ
thuật để đầu tư chứng khốn thơng minh; tránh đầu tư theo phong trào làm TTCK Việt
Nam thành “thị trường bong bóng”.
Đội ngũ quan hệ nhà đầu tư cũng cần phải xây dựng mối quan hệ tốt với các nhà
mơi giới, giao dịch để kiểm sốt được biến động giá cổ phiếu niêm yết, phát hiện các
trường hợp giao dịch bất thường ảnh hưởng đến giá trị vốn hóa của cơng ty.
3.3. Đối với Nhà đầu tư
Cần có những hiểu biết cơ bản về TTCK, cập nhật kiến thức pháp luật liên quan
đến đầu tư cổ phiếu.
Tìm hiểu về cổ phiếu các công ty muốn đầu tư đồng thời xác định mức độ chính
xác, mức độ tin cậy của thông tin khi đầu tư.
Theo dõi và quản lý tài khoản giao dịch chứng khốn thường xun, khơng cho
các tổ chức, cá nhân khác sử dụng tài khoản chứng khốn của mình để tránh các giao
dịch xử lý bất thường có thể xảy ra.


21


KẾT LUẬN
Sau một khoảng thời gian nghiên cứu đề tài Tìm hiểu những khía cạnh tiêu cực
trên thị trường chứng khốn Việt Nam, nhóm 3 đã đạt được mục tiêu nghiên cứu đề
ra: khái quát cơ sở lý luận về những khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khốn;
liên hệ, khảo sát thực trạng về những khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khốn
Việt Nam; từ đó rút ra được nguyên nhân tạo tiền đề để đề xuất một số giải pháp nhằm
cải thiện, khắc phục tốt nhất có thể những khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng
khốn Việt Nam. Tuy nhiên, trong q trình nghiên cứu gấp rút, cơ hội tiếp cận thực tế
khơng nhiều, nhóm 3 khơng thể tránh khỏi những thiếu sót trong bài nghiên cứu của
mình, rất mong cơ và các nhóm khác đưa ra những nhận xét, góp ý để nhóm hồn
thiện bài thảo luận này. Cuối cùng xin được cảm ơn tất cả các thành viên của nhóm 3
đã nỗ lực thực hiện cơng việc của mình, góp phần vào việc hồn thành bài thảo luận
chung của cả nhóm.

22



×