Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Sử dụng bài tập tình huống trong dạy học các bài công dân với kinh tế giáo dục công dân 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

DANH SÁCH VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
BTTH
PPDHTH
GDCD
GV
HS
SGK
THPT

Bài tập tình huống
Phương pháp dạy học tình huống
Giáo dục cơng dân
Giáo viên
Học sinh
Sách giáo khoa
Trung học phổ thông

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Theo dòng chảy của thời đại, giáo dục hiện nay phải hướng tới đào tạo
những con người lao động có kiến thức, năng động sáng tạo với năng lực, tư duy
và hoạt động độc lập nhằm cung cấp cho đất nước nguồn lao động có chất lượng
cao. Đó cũng chính là mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thơng trong việc hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách cho thế hệ trẻ. Các em sẽ là những công
dân tương lai phát triển hài hoà trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, mỹ dục,
thểlực, lao động... Những người sẽ xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, đáp


ứng yêu cầu ngày càng cao sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XIII đã gắn nội dung phát triểngiáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao củacuộc mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.Từ chiến lược đó, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã có bước tiến tích cực đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa
(SGK). Có thể nói, chưa bao giờ nền giáo dục nước ta lại có một đổi mới đồng
bộ, tồn diện và quy mơ sâu rộng như lần này. Đó cũng chính là thay đổi “tư duy
giáo dục”.
Trong những năm gần đây, nhiều quan điểm dạy học theo hướng phát huy
vai trị tích cực, chủ động và sáng tạo của người học càng được chú trọng:
“Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tích cực, tự giác chủ động, sáng
tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh” (Điều 24 - Luật
giáo dục 2005). Để đạt được những điều như vậy thì nhà trường phổ thơng phải
có chương trình, nội dung giáo dục phù hợp với đất nước, con người Việt Nam
trong tình hình hiện nay.
Là một mơn khoa học xã hội, mơn GDCD có vai trị cực kỳ quan trọng, là
môn học trực tiếp giáo dục nhân cách, năng lực, phẩm chất, tư tưởng cho học
sinh gắn liền với đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, hình thành cho người
lao động mới có thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhận thức đúng đắn
quy luật phát triển tất yếu của tự nhiên, xã hội và tư duy. Môn GDCD sẽ định
hướng, điều chỉnh mọi hành vi đúng đắn của các em. Tuy có vai trị quan trọng
như vậy song môn học này vẫn chưa hấp dẫn, thu hút học sinh. Thêm nữa thực tế
cho thấy có một bộ phận thanh niên, học sinh sống buông thả, mờ nhạt lý tưởng,
thiếu hoài bão lập thân. Đây là một hiện tượng đáng lo ngại cho chính bản thân
họ cũng như gia đình và xã hội. Vì vậy dạy học GDCD ở nhà trường THPT cần
được quan tâm đúng mức và theo đúng tinh thần đổi mới hiện nay.
2



Các cơng trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở nước ta đã chỉ rõ rằng
thực tế giảng dạy ởnhiều trường phổ thông vẫn thường áp dụng các phương
pháp cổ truyền: Thông báo nhồi nhét kiến thức, chưa phát huy được vai trò của
giáo viên trong việc tổ chức định hướng hoạt động học tập của học sinh, sao cho
họ có thể chiếm lĩnh tri thức, hậu quả là chất lượng nắm vững kiến thức của một
số bộ phận khơng nhỏ học sinh vẫn cịn ở trình độ thấp, bộc lộ nhiều yếu kém cơ
bản, thiếu sáng tạo. Do đó việc dạy học ở trường phổ thơng nói chung và mơn
GDCD nói riêng khơng thể sử dụng duy nhất một phương pháp truyền thống, vì
điều đó khơng đáp ứng hết được yêu cầu đào tạo ra những công dân tương lai có
suy nghĩ và hành động phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong từng
giai đoạn phát triển của xã hội lồi người góp phần thực hiện “chiến lược con
người”.
Muốn áp dụng triệt để chiến lược dạy học tích cực hóa hoạt động của học
sinh, địi hỏi các điều kiện khách quan và chủ quan để nâng cao dần vai trò chủ
động cần thiết phải xây dựng tốt các tình huống dạy học. Sử dụng tình huống dạy
học thật sự hiệu quả và phù hợp trong giảng dạy mơn GDCD. Dạy học bằng tình
huống cho phép người học phát huy tối đa tích cực, chủ động, sáng tạo, đảm bảo
các mục tiêu dạy học đề ra, đặc biệt thực hiện các vấn đề lý luận gắn với thực
tiễn một cách cao nhất và kết hợp hiệu quả với phương pháp dạy học mới khác
nhau.
Việc tìm kiếm và vận dụng tình huống vào trong giảng dạy một cách đầy đủ
là điều kiện cần thiết để chuyển tải nội dung bài học đến học sinh một cách hiệu
quả, kích thích tư duy, sự hứng thú của học sinh. Tạo điều kiện cho học sinh thực
hiện “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tiễn” đảm bảo tốt cho sự
phát triển nhân cách toàn diện cho các em trong tương lai. Xuất phát từ những lý
do trên tôi đã chọn đề tài: “Sử dụng bài tập tình huống trong dạy học các bài
cơng dân với kinh tế” (GDCD 11).
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến việc sử

dụng bài tập tình huống trong dạy học, đề tài xây dựng và luận chứng việc sử
dụng bài tập tình huống trong dạy học các bài kinh tế trong chương trình mơn
GDCD lớp 11 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn GDCD ở trường
THPT hiện nay nói chung và trường THPT Nơng cống I nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 11 trường THPT Nông Cống I
3


1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
- Phương pháp lịch sử - lôgic
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
- Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng bài tập tình huống trong dạy học các bài
“công dân với kinh tế” (GDCD 11)
2.1.1. Quan niệm về tình huống trong dạy học
• Tình huống
Từ trước đến nay, có rất nhiều ngành khoa học, nhiều nhà nghiên cứu khoa
học giáo dục đưa ra các quan niệm khác nhau về tình huống (Situation), tuỳ theo
góc độ nghiên cứu của mỗi ngành. Mỗi một quan niệm như chúng ta biết nó đều
nhằm mục đích khái qt những yếu tố cơ bản đặc thù của BTTH. Sau đây là
một số quan niệm:
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (chủ biên): “Tình huống là sự diễn
biến về mặt tình hình cần phải đối phó” [15, 996]. Ví dụ: buổi tối, Minh đang
học bài thì mấtđiện.
Trong giờ kiểm tra (khơng được sử dụng tài liệu), Ngọc đã phát hiện Lan sử
dụng tài liệu.
Nói một cách khái qt, tình huống là một vấn đề đặt ra có thể là một câu

hỏi, một mâu thuẫn, một điều gì đó mới lạ, khác thường đã xảy ra tại một nơi,
trong một thời gian nào đó tạo ra cho chúng ta phải suy nghĩ, hành động, đối
phó, chịu đựng buộc chúng ta phải giải quyết vấn đề.
Như vậy, tình huống là sự kiện xảy ra đột ngột có vấn đề trong mối quan hệ
qua lại trong cuộc sống giữa con người với con người, giữa con người với tự
nhiên xảy ra các khả năng ngoài ý muốn của con người, buộc con người phải
ứng phó, xử lý nhằm đưa ra các vấn đề bức xúc trở lại ổn định và tiếp tục phát
triển.
• Cơ sở khoa học của phương pháp dạy học bằng tình huống
Nhà triết học, giáo dục học nổi tiếng người pháp thế kỷ XIII là J.J.Rauseau
đã từng nói: “Vấn đề khơng phải là đưa chân lý đến cho học sinh mà phải làm
như thế nào để học sinh có thể biết cách tìm chân lý”. Điều này có nghĩa là
những nhà giáo dục, những người giáo viên phải dạy cho học sinh biết cách và
4


có những phương pháp tối ưu nhất để tiếp cận chân lý, tiếp cận tri thức chứ
không phải là truyền thụ một cách chủ động từ giáo viên và sự tiếp nhận một
cách bị động từ học sinh, hay nói cách khác đó là sự áp đặt tri thức vào đầu học
sinh. Vấn đề đặt ra ở đây là phải có những phương pháp dạy học mới, tích cực
mang lại hiệu quả cao.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của việc dạy và học hệ thống các
phương pháp dạy học đã được hình thành. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khoa học
đem lại hiệu quả cao thì mỗi phương pháp dạy học phải xuất phát từ những cơ sở
lý luận và thực tiễn nhất định. Phương pháp dạy học bằng tình huống cũng
khơng nằm ngồi u cầu chung đó.
2.1.2. Cơ sởlí luận
- Về tâm lý: Học sinh lớp 11 là lứa tuổi thuộc vào giai đoạn đầu của lứa tuổi
đang trưởng thành, tâm sinh lý của các em luôn có sự thay đổi và thích ứng
nhanh với mọi chuyện xung quanh, có những lúc hứng thú khám phá những vấn

đề mới mẻ trong học tập, chủ động khám phá những tri thức mới. Tuy nhiên đây
cũng là lứa tuổi khơng ổn định, dễ bị kích động, tinh thần dễ lung lay, vì vậy giáo
viên cần phải có phương pháp giáo dục học sinh một cách khéo léo và mềm dẻo
không cứng nhắc và nguyên tắc
Với những đặc điểm học sinh lớp 11 như vậy nó vừa mang lại những thuận lợi
và khó khăn trong việc đề ra một quy trình học tập cho học sinh:
+ Thuận lợi: Ở lứa tuổi này về kiến thức các em tích lũy được nhiều mơn học
do vậy thích hợp cho việc rèn luyện cho học sinh phương pháp học tập. Nếu
phương pháp học tập của học sinh khoa học, dễ hiểu sẽ tạo nên sự hứng thú
trong học tập và khả năng tìm tòi khám phá của các em. Đồng thời đây là lứa
tuổi tò mò, ham học hỏi trong học tập, nên là yếu tố quan trọng làm cho việc rèn
luyện phương pháp học tập của học sinh đạt được kết quả cao.
Bên cạnh đó, ở lứa tuổi này ý thức học tập học của học sinh đã rõ ràng, và tinh
thần tự giác cao. Nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập, có sự say mê
hứng thú về các môn học, đặc biệt là các môn học các em yêu thích.
Như vậy đặc điểm tâm sinh lý học sinh lớp 11 tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho
việc rèn luyện phương pháp học tập nói chung và trong học tập mơn GDCD nói
riêng. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra khơng ít khó khăn, trở ngại cho việc dạy và học.
+ Khó khăn: Học sinh lớp 11 là lứa tuổi nhạy cảm, thích ứng nhanh với mơi
trường bên ngồi xã hội, tinh thần dễ lung lay, ham chơi… Do vậy một số em có
tâm lý chán học, coi thường mọi người, một số học sinh lạm dụng trong việc sử
dụng điện thoại… Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến cơng tác giảng dạy nói
chung và rèn luyện phương pháp học tập nói riêng. Ngồi ra tâm lý nhiều học sinh
xem môn GDCD là môn học phụ các em khơng có sự đầu tư lớn đối với mơn học
5


này, thái độ học tập thờ ơ, khơng tích cực. Đây là trở ngại lớn nhất mà giáo viên
đang gặp phải trong việc giảng dạy của mình.
Việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống, nó góp phần tích cực

trong việc kích thích tư duy, phát huy tính tự giác, tự học tập của người học. Nó
góp phần hồn thành mục tiêu dạy học của người giáo viên.
2.1.3. Cơ sở thực tiễn
Môn GDCD là một môn học quan trọng trong nhà trường, trực tiếp hình
thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, giúp học sinh hình thành
phát triển và hoàn thiện nhân cách. Song hiện nay trong nhà trường THPT môn
học này vẫn chưa được quan tâm một cách như momg muốn, một số còn xem
đây là một môn học phụ, chưa quan tâm nhiều đến phương pháp dạy học nhiều
nhà trường vẫn chưa thực sự đầu tư cho mơn học này. Về phía học sinh: nhiều
học sinh thì coi thường mơn học chỉ vì điểm, vì chương trình học mà khơng chú
ý đến bài học giáo dục cái gì? Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bộ môn
GDCD được đưa vào thi THPT quốc gia và xét tuyển vào một số trường đại học
nên các giáo viên cũng đầu tư phương pháp , bài bản trang bị tri thức kỹ năng
một cách cơ bản, chuyên sâu hơn, học sinh cũng quan tâm chú ý nhiều hơn nên
đã tạo nên những thay đổi tiến bộ lớn trong cách dạy, cách học của môn học
này.
2.1.4. Nội dung và đặc thù tri thức của phân môn “Công dân với kinh tế”
(GDCD 11)
Chương trìnhkinh tế lớp 11 đã cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban
đầu về các phạm trù, quy luật cơ bản của kinh tế như: Sản xuất của cải vật chất là
gì, Hàng hóa là gì? Thị trường là gì? Các yếu tố cơ bản của q trình sản xuất?
Tại sao Nhà nước phải có vai trò quản lý nền kinh tế?... nhằm giúp cho học sinh
hiểu được nguồn gốc, bản chất của tiền tệ, thị trường và vai trò của kinh tế đối
với cá nhân, cộng đồng và xã hội của kinh tế, mối quan hệ giữa cung - cầu, cơng
nghiệp hóa– hiện đại hóa. Đồng thời nói lên vai trị của kinh tế với sự phát triển
của mỗi công dân, đất nước và xã hội. Thơng qua các nội dung trong chương
trình kinh tế môn GDCD lớp 11 học sinh bước đầu làm quen, hình dung được
một số phạm trù, quy luật kinh tế và phương hướng phát triển kinh tế trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, quốc tế một cách tốt đẹp nhất. Giúp
cho công dân hiểu, biết sử dụng và thực hiện đầy đủ các nội dung của kinh tế vào

ngay trong việc lao động của bản thân. Nội dung chương trình GDCD lớp 11 góp
phần tích cực vào việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi của người cơng
dân, hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất và năng lực cần thiết
của công dân trong xã hội XHCN.

6


2.2. Thực trạng khi áp dụng bài tập tình huống trong dạy học các bài “Công
dân với kinh tế” (GDCD 11)
2.2.1. Quy trình sử dụng BTTH trong dạy học phần “Cơng dân với kinh tế”
(SGK GDCD 11)
• Quy trình sử dụng
Quy trình sử dụng PPDHTH là một trật tự tuyến tính gồm các giai đoạn, các
bước từ khi bắt đầu cho biết khi kết thúc hoạt động dạy học. Vì vậy sự phân chia
các giai đoạn của PPTH cần phải đảm bảo tính hệ thống, tính khoa học, tính thực
tiễn hiệu quả và phù hợp với quá trình nhận thức. Ta có thể chia PPDHTH thành
các giai đoạn cơ bản sau:
o Giai đoạn 1: Đưa ra tình huống có vấn đề.
o Giai đoạn 2: Giải quyết tình huống.
o Giai đoạn 3: Hệ thống hóa, tổng hợp tri thức.
Quy trình thực hiện các bước sử dụng của phương pháp dạy học bằng tình
huống được trình bày khái quát trong sơ đồ tóm tắt sau:
SƠ ĐỒ TĨM TẮT QUY TRÌNH THỰC HIỆN PPDHTH

7


Theo dõi sơ đồ trên về quy trình tổ chức phương pháp dạy học bằng tình
huống ta có thể cụ thể hóa như sau:

Giai đoạn 1: Giáo viên nêu tình huống cho học sinh xử lý (A).
Khi nêu tình huống giáo viên có thể sử dụng trên phim chiếu cho học sinh
xem, ghi âm trên máy, in lên phiếu học tập giao cho học sinh..... Để nêu ra tình
huống phù hợp, giáo viên cần lưu ý rằng tình huống được nêu ra ở đây là tình
huống học tập. Nó chỉ mới mẻ đối với học sinh còn trong khoa học, trong thực
tiễn nó đã được giải quyết. Vấn đề có thể tồn tại dưới dạng câu hỏi nhưng không
phải câu hỏi trong tình huống nào cũng là vấn đề vì có những câu hỏi học sinh
chỉ đọc SGK là có thể trả lời được mà khơng địi hỏi học sinh phải tư duy, sáng
8


tạo. Vì vậy đưa ra tình huống cần tuân thủ một số nguyên tắc: Thứ nhất, tình
huống phải phù hợp với trình độ tư duy của học sinh. Thứ hai, tình huống phải
được diễn giải một cách lơgic dưới dạng mâu thuẫn chưa được giải quyết. Thứ
ba, tình huống phải có sức hấp dẫn lơi cuốn học sinh và kích thích sư say mê tìm
tịi hướng giải quyết. Việc nêu tình huống là một bước quan trọng, quyết định tới
cả tiến trình tổ chức dạy học bằng tình huống. Nó có tác dụng rất lớn là phát huy
được tính tích cực của học sinh, nó buộc học sinh phải vận dụng cả kiến thức lý
luận và thực tiễn để giải quyết tình huống.
Sau khi nêu tình huống, giáo viên cần dẫn dắt học sinh xác định được vấn
đề, giúp học sinh nhận biết được mâu thuẫn cần giải quyết bằng việc đưa ra các
câu hỏi mang tính chất định hướng.
Về phía học sinh, khi nghe giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề thì lập tức gây
một tác động về phía các em, học sinh đã tự mình tiếp nhận tình huống có vấn
đề, và thấy có nhu cầu cần giải quyết nó. Tác dụng lơi cuốn học sinh nhập cuộc
vào tình huống đã kích thích sự mong muốn của học sinh được giải quyết nó.
Cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự xác định được vấn đề cần giải
quyết sau khi nhận biết được mâu thuẫn bên trong tình huống.
Như vậy, giai đoạn nêu tình huống là bước đầu tiên trong quá trình dạy học
bằng phương pháp tình huống và nó có vai trị rất quan trọng đối với tồn bộ q

trình. Nó là tiền đề để thực hiện các bước tiếp theo. Đó là: Giải quyết tình huống.
Giai đoạn 2: Giải quyết tình huống (B).
Đây là giai đoạn chiếm nhiều thời gian, hoạt động nhất trong quá trình
thực hiện PPDHTH. Để thực hiện giai đoạn này có thể thực hiện theo hai cách:
Cách thứ nhất: Lập luận để giải quyết tình huống theo chiều thuận.
Lập luận để giải quyết tình huống theo chiều thuận tức là học sinh dùng lý
lẽ, lập luận của mình để giải quyết tình huống đang đặt ra một cách chặt chẽ và
phù hợp với từng tình huống. Để lập luận kiểu này, học sinh cần phải dựa trên cơ
sở lý luận, các học thuyết khoa học, các sự kiện thực tiễn trong đời sống xã hội.
Cách thứ hai: Lập luận để giải quyết tình huống theo chiều khơng thuận.
Lập luận đế giải quyết tình huống theo chiều khơng thuận (tức là dùng
phương pháp phản chứng, bác bỏ). Cách lập luận này phải đưa ra các giả thuyết,
giả định để bác bỏ vấn đề hoặc hoài nghi vấn đề.Gỉa thuyết, giả định đó thường
đi ngược vấn đề và căn cứ vào đó để chứng minh tính chân lý của vấn đề.
Phương pháp này cần sử dụng sự so sánh, đối chứng và về nguyên tắc phải dùng
thực tiễn để kiểm nghiệm.
Trên đây là hai cách giải quyết tình huống rất phổ biến. Mỗi tình huống đều
có đặc trưng riêng vì vậy cần lựa chọn cách giải quyết cho phù hợp. Đối với học
9


sinh, lao động sáng tạo trong việc tìm ra phương án giải quyết tình huống cũng
có một số quy định chung. Nó được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Có
thể nêu gọn trong ba hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, học sinh tư duy độc lập: Dạy học bằng tình huống chú trọng đến việc
phát huy tính tích cực của học sinh, khả năng tư duy sáng tạo của các em. Đứng
trước một tình huống mà bản thân học sinh đều có thể đưa ra các phương án giải
quyết riêng, thì hình thức này được áp dụng phổ biến. Ở hình thức này giáo viên
cần phải đảm bảo đủ thời gian để học sinh phân tích hiểu rõ tình huống, sau khi
học sinh đưa ra giải pháp thì giáo viên cần xác định được tri thức, kỹ năng,

phương pháp hành động mà học sinh thu nhận được từ việc giải quyết tình
huống.
Thứ hai, tổ chức làm việc theo nhóm: Đây là hình thức có hiệu quả khi sử dụng
phương pháp dạy học tình huống. Trước tình huống đặt ra các em trao đổi hợp
tác để cùng nhau đề ra những phương án có hiệu quả. Hình thức này phát huy
được khả năng làm việc với bạn bè, khả năng thống nhất quan điểm tối ưu và
có hiệu quả cao đối với việc giải quyết tình huống, nhất là tình huống địi hỏi
học sinh phải vận dụng nhiều tri thức, kinh nghiệm.
Thứ ba, tranh luận cả lớp: Đây là hình thức mà khi giáo viên đưa ra tình huống
để học sinh trong lớp tự do tranh luận, mỗi người đều đưa ra ý kiến của mình, có
thể phản bác ý kiến của các bạn, lập luận để bảo vệ ý kiến của mình, cũng có thể
bổ sung cho ý kiến của bạn.
Khi hành động với tình huống giáo viên hướng dẫn học sinh xác định được
chủ thể đề cập trong tình huống, xác định được sự kiện quan trọng trong hoàn
cảnh xảy ra và mối quan hệ giữa đối tượng và chủ thể, cũng như tồn cảnh xảy
để tìm hướng giải quyết tình huống.
Nhìn chung để giải quyết tốt tình huống thì việc sử dụng các hình thức trên
cần linh hoạt sao cho phù hợp với tính chất đặc trưng của từng tình huống. Giai
đoạn giải quyết tình huống được thực hiện tuần tự theo các bước:
* Về phía giáo viên:
B1 :Theo dõi lớp học:
Sau khi nêu tình huống thì tổ chức cho học sinh giải quyết tình huống. Giao
nhiệm vụ cho học sinh làm việc, có thể phân cơng nhiệm vụ, có thể nêu ra hình
thức giải quyết tình huống. Trong quá trình học sinh giải quyết tình huống thì
giáo viên cần phải quan tâm đến ý thức làm việc của các em, thái độ có tập
trung, tích cực hay khơng, nhắc nhở các em hay các nhóm làm việc.
B2:Gợi nhu cầu nhận thức:

10



Khi đưa ra tình huống địi hỏi học sinh phải giải quyết thì giáo viên cần phải giúp
học sinh trong quá trình giải quyết tình huống. Đồng thời định hướng giúp học
sinh suy nghĩ, tìm tịi giải pháp thích hợp (B3). Muốn học sinh từng bước vượt
qua khó khăn và tìm ra luận điểm để giải quyết, giáo viên phải hướng dẫn học
sinh thông qua các câu hỏi gợi ý tức là sử dụng kết hợp phương pháp đàm thoại.
Câu hỏi đó thường là câu hỏi gợi mở.
Sau khi kết thúc thời gian lựa chọn phương pháp giải quyết tình huống thì
giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày giải pháp (B4), việc tổ chức này được
diễn ra theo 3 hình thức (tư duy độc lập, tổ chức theo nhóm, tranh luận cả lớp).
Tuy nhiên, giáo viên là người giữ vai trị chỉ đạo học sinh trình bày ý kiến của
mình. Tránh sự lộn xộn trong khi trình bày, đồng thời hệ thống các ý kiến của học
sinh lên bảng để so sánh đối chiếu ở giai đoạn sau. Thơng qua tình huống học sinh
tích lũy, rèn luyện tri thức, áp dụng tri thức giáo dục vào thực tiễn cuộc sống,
khơng những thế giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng, phẩm chất
cần thiết cho một nhân cách tồn diện.
Khi đưa ra tình huống giáo viên cần lưu ý: Trong tình huống có nhiều cách
giải quyết nhưng trong đầu giáo viên phải chuẩn bị một phương án tối ưu nếu học
sinh có cách giải quyết hay hơn thì giáo viên vẫn phải cơng nhận.
* Về phía học sinh.
B5:Huy động kiến thức.
Sau khi xác định được vấn đề cần giải quyết trong tình huống địi hỏi học sinh
cần thao tác tư duy này. Cơ sở tri thức để giải quyết tình huống học tập là tài liệu
SGK, đây là tài liệu quan trọng vì nó cung cấp tri thức khoa học cơ bản. Ngoài ra
nguồn tri thức giúp học sinh giải quyết tình huống là văn kiện, tin tức qua
phương tiện thông tin đại chúng do học sinh tự nắm bắt hoặc do giáo viên cung
cấp, hay qua các văn bản kinh tế, vốn kiến thức hiểu biết trước đó cùng với kinh
nghiệm có được từ thực tiễn......có liên quan đến tình huống cần giải quyết.
B6:Hình thành giải pháp.
Sau khi huy động vốn kiến thức sẵn có và phân tích kỹ vấn đề, học sinh tự

mình hình thành nên giải pháp để giải quyết tình huống. Học sinh có thể đưa ra
nhiều giải pháp khác nhau, vì vậy bước đầu học sinh hình thành nên các phương
án liên quan đến tình huống.
B7:Lựa chọn giải pháp.
Bằng lập luận của mình học sinh đi vào giải quyết từng vấn đề nhỏ. Trong
quá trình thực hiện bước này sẽ nảy sinh ra các mâu thuẫn khác nhau từ đó giúp
học sinh nhận thức được phương án trả lời hợp lý nhất. Sau khi đưa ra các giải
pháp phù hợp mình cho là đúng, dưới sự tổ chức của giáo viện học sinh thực
hiện giải pháp đúng nhất của mình (B8). Và học sinh trình bày giải pháp của
11


mình trước lớp (B9) Việc đưa ra phương án cuối cùng đòi hỏi học sinh phải lao
động tư duy một cách nghiêm túc khoa học, khả năng trình bày phụ thuộc rất
nhiều vào q trình lập luận trước đó có lôgic hay không và qua đây tạo điều
kiện cho học sinh phát triển năng lực giao tiếp, lập luận trao đổi với bạn bè.
Như vậy giải quyết tình huống thì đòi hỏi giáo viên và học sinh đều phải
hoạt động tích cực nghiêm túc. Con đường đến với chân lý bao giờ cũng gian
nan thử thách nhưng muốn biết kết quả lao động của học sinh có tốt hay khơng
thì giai đoạn cuối cùng của PPDHTH sẽ giải quyết.
Giai đoạn 3: Hệ thống hóa, tổng hợp tri thức (C).
Đây là giai đoạn cuối cùng của PPDHTH. Hệ thống hóa khơng có nghiã là
liệt kê kiến thức mà là sắp xếp chúng theo một trình tự xác định có liên quan với
nhau. Trong khi hệ thống hóa kiến thức cần lưu ý tới tính khoa học của bài giảng
thể hiện tiến trình giải quyết tình huống đã nêu ra.
Nhận xét giải pháp của học sinh (C1): Sau khi đã tiếp thu những ý kiến giải
quyết tình huống cuả học sinh giáo viên tổng hợp lại và đưa ra lời nhận xét các
giải pháp đó, đánh giá kết quả biểu dương những mặt tích cực và chỉ ra những
hạn chế thiếu sót. Đồng thời đưa ra tri thức giải pháp hợp lý nhất bằng cách lập
luận chặt chẽ, thuyết phục (C2). Giáo viên có thể trình bày lơgic trình tự q

trình dẫn đến kết quả để học sinh hiểu được rõ ràng cách giải quyết tình huống.
Về phía học sinh sau khi nghe giáo viên đưa ra giải pháp hợp lý thì so sánh
kết quả của mình (C3) xem mình giải quyết đúng phần nào, chưa đúng phần nào.
Từ đó rút ra kết luận khoa học về PPDHTH.
Nhìn chung các bước trong dạy học tình huống là một thể thống nhất với
nhau, giai đoạn này là tiền đề cho giai đoạn kia và giai đoạn sau tác động trở lại
giai đoạn trước. Muốn dẫn dắt học sinh giải quyết tình huống tốt bản thân người
giáo viên phải nắm vững các bước thực hiện của PPDHTH đồng thời định hướng
đúng đắn giúp học sinh tìm ra con đường đi tìm đến chân lý. Đó là việc làm khó
khăn địi hỏi người giáo viên có kinh nghiệm và chun mơn cao.
2.2.2. Một số ngun tắc khi sử dụng BTTH trong dạy học các bài “Cơng dân
với kinh tế” (GDCD 11)
• Ngun tắc đảm bảo tính khoa học
Là một mơn khoa học xã hội, mơn GDCD cùng với tất cả các mơn học khác
góp phần hình thành và phát triển dần dần nhân cách, năng lực, phẩm chất cho
HS THPT. Khác với các môn học khác, GDCD hình thành phẩm chất chính trị,
tư tưởng, kinh tế; nó gắn liền với đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung mơn GDCD mang tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin Vì thế,
mơn GDCD mang tính khoa học sâu sắc. Thực hiện nguyên tắc đảm bảo tính
12


khoa học trong giảng dạy môn GDCD đảm bảo thực hiện những yêu cầu của quy
luật về sự thống nhất giữa dạy “chữ” và dạy “người”. Qua đó, con người có thể
tiếp thu tri thức mang tính khoa học và truyền thụ tri thức mang tính khoa học.
Đảm bảo tính khoa học trong giảng dạy môn GDCD là điều kiện cần thiết
khiến kiến thức mà HS tiếp thu được thành niềm tin của họ, thôi thúc họ hành
động theo lẽ phải, chân lý.
Để đảm bảo tính khoa học trong giảng dạy học các bài “Công dân với kinh
tế”, GV khi sử dụng BTTH cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:

- Truyền thụ đầy đủ, chính xác khái niệm, phạm trù, nguyên tắc, quy luật. Muốn
làm được như vậy cần hiểu và nắm vững lý luận về khái niệm, phạm trù do khoa
học lơgic cung cấp.
- Nắm vững tồn bộ hệ thống tri thức khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, biết
vận dụng chúng vào việc giải thích những hiện thực tế diễn ra trong đời sống xã
hội....
- Nêu sự kiện phải chân thực, khái quát phải đúng đắn, kết luận phải chính xác,
đem lại tính thuyết phục cao bằng lý luận của mình. Muốn vậy GV đưa ra sự
kiện cần phải lựa chọn cẩn thận, đảm bảo tính chân thực.
- Cần làm rõ nguyên nhân, nguồn gốc, các mối liên hệ của sự kiện nêu ra với
những sự kiện khác.
- Cần có thái độ tơn trọng ý kiến HS nêu ra, biết hướng dẫn, gợi mở các em trả
lời.
- Đảm bảo hệ thống lôgic của bài giảng, thể hiện trình bày các tri thức và kết cấu
bài giảng một cách chặt chẽ, khoa học. Giúp HS lĩnh hội tri thức một cách nhanh
chóng và dễ hiểu.
• Ngun tắc đảm bảo lý luận phải gắn liền với thực tiễn
Nội dung các bài dạy “Công dân với kinh tế”, gồm những khái niệm, phạm
trù về kinh tế học, những quan điểm của Đảng và nhà nước.... Đó là sự tổng kết,
khái quát từ hoạt động thực tiễn của con người, từ thực tiễn cuộc sống sinh hoạt,
từ nhu cầu thực tiễn.
Nguyên tắc này gắn liền với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lêninvề
sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Chỉ có kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn
tri thức của môn học với thực tiễn sinh động trong q trình giảng dạy mới có
thể khẳng định giá trị đích thực của mơn học, mới giúp HS hiểu rõ ý nghĩa và tạo
ra sự say mê, niềm tin vào tri thức mà họ được trang bị.
Trong khi truyền thụ tri thức của môn học, thông qua môn học, thông qua
nguyên tắc này GV cũng thực hiện nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành”,
13



nhà trường gắn liền với xã hội, rèn luyện năng lực sáng tạo và năng lực hoạt
động thực tiễn của HS.
Do đó, để thực hiện nguyên tắc này khi sử dụng BTTH GV phải đảm bảo
các yêu cầu sau:
- GV phải thường xuyên theo dõi sự biến đổi của các vấn đề chính trị, xã hội
thơng qua các phương tiện thông tin đại chúng. Từ việc nắm chắc thực tiễn GV
cần xây dựng hệ thống các câu hỏi, BTTH, nên có kết hợp hài hồ giữa hai mặt:
lý luận và thực tiễn để HS có thể vận dụng vào cuộc sống.
- Tính thực tiễn trong các hình thức hoạt động thầy và trò. Lý luận liên hệ với thực
tiễn, học đi đôi với hành là nguyên tắc đảm bảo nội dung và phương pháp giáo dục
và giáo dưỡng. Ngoài hoạt động lên lớp, GV cần phải thực hiện nhiều hình thức bổ
trợ nhằm bổ sung, rèn luyện, nâng cao tri thức bước đầu đưa HS vào hoạt động thực
tiễn, biết vận dụng tri thức môn học vào cuộc sống xung quanh HS để phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
• Ngun tắc đảm bảo tính tích cực của HS
Việc dạy học môn GDCD là môn khoa học xã hội tổng hợp với nhiều kiến
thức mới và khó, thời gian ít ỏi lên lớp khơng đủ để các em hiểu bài một cách
tường tận.
GV không đưa ra những tình huống q khó hoặc q dễ, HS khơng cần
suy nghĩ cũng có thể trả lời được ngay thì sẽ gây cho buổi học trở nên nhạt nhẽo,
nhàm chán, không đảm bảo tính tích cực sáng tạo HS... mà cịn làm các nhân tố
ấy càng thui chột đi.
Để đảm bảo nguyên tắc này GV cần phải:
- Phải lôi cuốn HS vào cơng tác nhận thức tích cực, kích thích sự ham hiểu biết
trí tuệ, có chiếu cố thích đáng đến năng lực và khả năng của các em sao cho mỗi
HS huy động hết tri thức của mình.
- Cần phải nắm vững hệ thống nội dung, phân phối chương trình dạy học, thâm
nhập vào bản chất của các hiện tượng và sự vật vào cuộc sống.
- Chăm lo đến tích cực đến sự phát triển của tất cả HS kể cả loại giỏi lẫn loại yếu

về học tập. Nắm vững tâm sinh lý HS, khả năng từng HS.
- GV phải xác định từ trước một cách chính xác bước đi của cơng tác tự lực sao
cho sự nỗ lực “tìm tòi nghiên cứu” của các em được đúng hướng và tập trung
giải quyết các vấn đề cơ bản của BTTH nêu ra.
- Vấn đề phát huy tính tích cực của HS cần thúc đẩy việc học ở nhà của HS, đó
là nguồn dự trữ lớn để nâng cao chất lượng học tập của HS và kích thích hứng
thú nhận thức của các em.
Làm được như vậy sẽ tạo ra nhiều hiệu quả trong học tập của HS cũng như GV.
14


Ngun tắc đảm bảo tính vừa sức
Q trình nhận thức của con người diễn ra nhờ hoạt động vật chất của bộ
não, bao giờ cũng phải phù hợp với những quy luật tâm - sinh lý của con người,
sự chuyển hố giữa các q trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh TW và
đồng thời không vượt quá giới hạn quy định (ngưỡng) của các kích thích nhờ đó
con người phản ứng với ngoại cảnh. Vì thế, với tri thức trừu tượng của bộ mơn
GDCD. Đảm bảo tính vừa sức trong dạy học đối với GV không phải là dễ dàng.
Để đảm bảo nguyên tắc này khi sử dụng BTTH, GV cần đạt những yêu cầu cơ
bản:
- Nắm vững đặc điểm của HS THPT, lớp mình đứng lớp, GV cần phải hiểu biết
đặc điểm tâm, sinh lý của HS, môi trường xã hội mà họ đang sống, điều kiện
sinh hoạt, phong tục tập quán, truyền thống của địa phương.... Mặt khác, cũng
phải nắm được khả năng lĩnh hội tri thức của HS. Nhằm phát huy được ưu điểm
và tính tích cực của mọi đối tượng HS.
- Quan tâm đến các trường hợp cá biệt. Đối với HS yếu kém cần kiên trì giúp đỡ
các em từng bước nâng cao trình độ của HS. Đối với HS khá cần khuyến khích
năng lực tư duy sáng tạo, độc lập và khả năng vận dụng tri thức vào hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của HS. GV luôn đánh giá đúng đắn HS và từ
đó đề ra yêu cầu ngày càng cao đối với HS.

- Phải nắm được cấu trúc chương trình của khối lớp, từ đó đưa ra những BTTH
phù hợp, đồng thời tạo tính chặt chẽ, lơgic giữa các đơn vị kiến thức trong một
bài và giữa các lớp trong một khối và các khối lớp.
Sự đảm bảo đó là điều kiện tối thiểu cần thiết để đem lại chất lượng dạy và
học tập cao của thầy và trò.
Như vậy, GV cần nắm vững các nguyên tắc nêu trên cùng với các phương
pháp dạy học trong dạy học mơn GDCD có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học. Thực tế trong dạy học một phương pháp dù có tốt
đến đâu cũng khơng thể gọi là vạn năng. Vì vậy, GV bao giờ cũng phải vận dụng
đồng bộ nhuần nhuyễn tất cả các phương pháp dạy học.
Sử dụng các phương pháp dạy học GV cần phải linh hoạt, kết hợp hài hoà.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý, đối với mỗi bài giảng dạy cụ thể có thể sử dụng
những phương pháp được lưu tâm nhiều hơn, được vận dụng đầy đủ hơn các
phương pháp khác. Vì thế, GV cần xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa các
phương pháp trong dạy học.
Khi sử dụng BTTH trong dạy học nhiều khi một HS không thể độc lập tư
duy suy nghĩ cần phải kết hợp với các bạn khác để giải quyết mâu thuẫn trong
BTTH thì lúc đó sẽ đạt được hiệu quả cao hơn, chất lượng hơn. Do đó, việc phối


15


hợp với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học giải quyết BTTH là cần
thiết.
2.3. Sử dụng BTTH vào dạy học các bài “Công dân với kinh tế” (SGK
GDCD 11)
Sưu tầm và sử dụng BTTH trong dạy học nhằm góp phần đổi mới phương
pháp dạy học. Đó là vấn đề trọng tâm, làm tốt điều này mới có thể tạo ra sự đổi
mới trong giáo dục thực sự, mới có thể đào tạo lớp người năng động, sáng tạo,

có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang
hướng tới nền kinh tế tri thức. Đáp ứng yêu cầu của đất nước hội nhập cùng cộng
đồng quốc tế.
Sử dụng BTTH vào dạy học các bài “Công dân với kinh tế” không chỉ giúp
HS lĩnh hội, tiếp thu tri thức một cách tích cực, chủ động, sáng tạo mà nó cịn
giúp các em khỏi những bở ngỡ, lúng túng khi gặp một tình huống tương tự như
trong cuộc sống. Giúp các em tự tin trong ứng xử, năng động hơn trong các hoạt
động, có thái độ đúng đắn với mỗi chuẩn mực xã hội.
2.3.1. Sử dụng BTTH để mở đầu bài học
Khi bước vào một bài học mới (một đơn vị kiến thức cơ bản) GV có thể tạo
ra một BTTH nhằm tác động vào việc tiếp nhận tri thức của bài học. Có thể có
liên quan đến nội dung trước đó cũng có thể khơng liên quan. GV tạo nhu cầu,
hứng thú nhận thức cho HS. GV cần ý thức về vấn đề này, đó có thể là “lời vào
bài” định hướng học tập, kích thích nhu cầu khám phá tri thức cho HS. Có rất
nhiều cách khác nhau để vào bài” kể chuyện, tạo tình huống, nêu vấn đề, đưa giả
thuyết... Sử dụng BTTH là phương pháp tích cực tác động trực tiếp đến hứng thú
cho HS bước vào mới.
Đây là giai đoạn khởi đầu cực kì quan trọng. Nó có tính chất quyết định
khơng khí của tồn tiết học và tiến trình giờ học. Ở bước tiếp nhận tri thức khi
được giải quyết các BTTH do GV đưa ra chính là lúc tình cảm và trí tuệ HS
được tác động mạnh mẽ. BTTH ở bước đầu này càng ấn tượng thì hiệu quả giờ
dạy càng cao. Mâu thuẫn do BTTH đặt ra thường để trong tâm hồn HS một dấu
ấn rất đậm nét. BTTH sẽ gây ra cho HS nhu cầu nhận thức, niềm khao khát tìm
tịi khám phá. Đây là giai đoạn trí tuệ của HS được kích thích, nhu cầu nhận thức
được hình thành.
Ở giai đoạn này GV cần giành một thời gian thích hợp để HS trao đổi tiếp
nhận vấn đề đó, định hướng hoạt động học tập cho bản thân. Như vậy, mục tiêu
cần đạt được ở giai đoạn này là định hướng giờ học theo tư tưởng dạy học, kích
thích nhu cầu nhận thức của HS và chuyển trạng thái hoạt động của HS từ thụ
động sang chủ động tích cực. Đây là giai đoạn đầu tích cực, khác về cơ bản với

16


sự khởi đầu thụ động của giờ dạy theo cách truyền thống. Giai đoạn này cũng là
kết quả của quá trình chuẩn bị chu đáo cơng phu, thể hiện vai trò chủ đạo sáng
tạo của thầy giáo với việc hướng dẫn hành động của HS. Bước này là nền tảng
quan trọng cần thiết cho hai bước sau. Vì vậy, địi hỏi GV phải có sự đầu tư đích
đáng.
* Một số ví dụ minh họa
Mẫu tình huống thứ 1: Cơng dân với sự phát triển kinh tế
Trên đường học về Hùng và Thành trông thấy một đàn ong đang xây tổ ở
trên cây. Hùng nói với Thành: Những con ong kia đang lao động chăm chỉ quá.
Thành lắc đầu: Đúng là những con ong đang làm một cái tổ nhưng hành vi xây tổ
của bầy ong kia không phải là hoạt động lao động.
Hùng quả quyết: Rõ ràng là những con ong kia đang lao động rất chăm chỉ sao
cậu lại khẳng định là không phải?
Câu hỏi: Em đồng ý với ý kiến của bạn nào? Tại sao?
* Gợi ý trả lời:
Đồng ý với ý kiến của Thành, vì tuy những con ong cũng có những động
tác giống như động tác của con người nhưng đó khơng phải là hoạt động lao
động mà là những hoạt động bản năng, những hoạt động khơng có ý thức.
GV dẫn dắt để mở đầu bài học:
Lao động là hoạt động bản chất của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt
con người với loài vật. Hoạt động tự giác, có ý thức, có mục đích, biết chế tạo ra
cơng cụ lao động là phẩm chất đặc biệt của con người. Chính nhờ lao động mà
con người có thể tạo ra được một khối lượng lớn của cải vật chất, tạo ra được
một thế giới tiến bộ. Vậy, thế nào là sản xuất của cải vật chất, nó có vai trị quan
trọng ra sao? Q trình sản xuất có các yếu tố cơ bản nào? Chúng ta cùng tìm
hiểu nội dung bài 1: “Cơng dân với sự phát triển kinh tế”.
Mẫu tình huống thứ 2: Hàng hóa - tiền tệ - Thị trường

Trên đường đi học về bất chợt Hoa và Hương nhìn thấy một hàng khoai
nướng bên đường. Hoa liền sà vào mua hai củ khoai và mời Hương ăn.
Hương lắc đầu: Cậu ăn đi, nhà tớ trồng nhiều khoai nên ở nhà vẫn còn nhiều
khoai lắm.
Hoa cười: Hai củ khoai này là hàng hóa cịn khoai ở nhà bạn chưa phải là hàng
hóa đâu.
Hương cười: Bạn nói thế nào ấy chứ, khoai nào mà chả là khoai, đều phải đổ mồ
hôi để vun trồng, chăm sóc, thu hoạch và cơng dụng thì cũng hoàn toàn giống
nhau.
17


Câu hỏi: Em đồng ý với ý kiến của ai? Tại sao?
* Gợi ý trả lời:
Đồng ý với ý kiến của Hoa, vì tuy khoai ở nhà bạn Hương và khoai được
bán ở bên đường đều là sản phẩm của lao động, có cơng dụng như nhau nhưng
khoai ở nhà bạn Hương chưa được trao đổi mua – bán trên thị trường nên chưa
phải là hàng hóa.
GV dẫn dắt vào bài mới: Như các em thấy trong tình huống vừa rồi khoai
nhà bạn Hương nếu được đưa ra thị trường trao đổi mua bán, lấy tiền hoặc đổi
các vật ngang giá thì mới là hàng hóa. Vậy, Hàng hóa, tiền tệ, thị trường là gì?
Thuộc tính, hình thái chức năng ra sao chúng ta sẽ tìm hiểu nội dung bài2:“Hàng
hóa - tiền tệ - Thị trường”.
Mẫu tình huống thứ 3: Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa
Gần đây, trong làng của An có một hiện tượng là một phần lớn diện tích đất
đai vốn được sử dụng để trồng cây sắn nhưng khơng hiểu vì sao lại được người
dân chuyển đổi qua trông cây tiêu.
Khi được hỏi ngun nhân vì sao có hiện tượng đó, có nhiều ý kiến giải
thích như sau:
- Ban Hưng cho rằng đó là do cây sắn khơng có giá trị sử dụng cao.

- Bạn Thành cho rằng nguyên nhân là do, có ít người mua sẵn trong khi có rất
nhiều người mua tiêu.
- Bạn Trang lí giải đó là do tiêu là mặt hàng phổ biến hơn sắn vì đó là ngun
liệu chính cho các món ăn.
Câu hỏi: Với những hiểu biết về quy luật giá trị, em hãy đồng ý với ý kiến của
bạn nào ? Vì sao ?
* Gợi ý trả lời:
Ý kiến của các bạn đều chưa nói đúng được bản chất của vấn đề. Việc
người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ sắn sang tiêu là do chịu sự tác động
của quy luật giá trị. Cụ thể ở đây, người dân đã phát hiện ra rằng, khi trồng cây
tiêu thì thời gian lao động cá biệt của họ sẽ có thể thấp hơn so với thời gian lao
động xã hội cần thiết. Hay nói cách khác, sự chênh lệch giữa thời gian lao động
cá biệt và thời gian lao động xã hội của việc trồng cây tiêu là nhiều hơn đối với
việc trồng sắn. Sự khác biệt này là do sự biến động giá cả trên thị trường (giá cả
của tiêu cao hơn so với giá cả của sắn). Do đó, khi chuyển sang trồng tiêu, người
dân sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn.
GV dẫn dắt: Ở tiết học hơm trước cơ trị chúng ta đã tìm hiểu nội dung của
quy luật giá trị. Vậy, quy luật này có tác động và được vận dụng như thế nào? Đó
18


chính là nội dung của chúng ta ngày hơm nay tìm hiểu. Chúng ta vào bài3 “Quy
luật giá trị trong sản xuất và lưu thơng hàng hóa”
2.3.2. Sử dụng BTTH để hình thành tri thức mới cho HS
Như chúng ta đã biết, tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra các
BTTH liên kết chặt chẽ với nhau và phức tạp dần lên. Các BTTH sẽ kích thích
mạnh mẽ ở HS nhu cầu giải quyết các vấn đề đặt ra, lôi cuốn các em tham giải
quyết vào các hoạt động nhận thức. Mục đích của dạy học sử dụng BTTH là giúp
HS lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ và hồn thiện nhân cách tự giác.
Ở bước nhận thức tri thức bài học GV có thể kết hợp với các phương pháp

dạy khác. GV phải khéo léo vạch ra con đường tìm kiếm tri thức cho HS thông
qua hệ thống câu hỏi liên quan đến BTTH. Thao tác HS vận dụng nhiều các thao
tác: phân tích, suy luận, so sánh, lựa chọn trên cơ sở các dữ liệu của BTTH, qua
hệ thống câu hỏi gợi mở nhằm phát hiện những dấu hiệu đơn lẻ của vấn đề và rút
ra kết luận. Tuỳ theo nội dung của bài học và mức độ khó của các BTTH mà GV
gợi mở và khái qt vấn đề.
Ở bước này ln có sự phối hợp, trao đổi bàn bạc sôi nổi giữa các cá nhân.
Bởi lẽ, các cuộc tranh luận sôi nổi nhất của bài học thường rơi vào bước tiếp
nhận tri thức. Có thể trong q trình tranh luận, có nhiều vấn đề và tình huống
mới sẽ nảy sinh. Vì vậy, địi hỏi GV phải ln chủ động, giữ vững vai trị cố vấn
và phản ứng kịp thời trước những tình huống bất ngờ.
Bài dạy thường bao gồm nhiều đơn vị tri thức có thể chia ra thành những
đơn vị nhỏ để HS giải quyết cho hợp với trình độ của các em. Đòi hỏi sự tác
động qua lại liên tục giữa thầy và vai trị. Để có các BTTH có chất lượng và
được ứng dụng thành cơng địi hỏi GV phải đầu tư lớn trong việc sưu tầm các
BTTH thích hợp để tạo ra tình huống sát với kiến thức cần nhận thức của bài
học. GV có thể đưa ra tình huống buộc HS tìm tịi, suy nghĩ, giải quyết. Có thể
giải quyết trong 1 mục hoặc tồn bài. Đây là bước quyết định thành công hay
thất bại của giờ học. Sử dụng BTTH trong dạy học giúp các em thực sự thấy hào
hứng, phấn khởi và hăng say xây dựng bài hơn khi đã giải quyết được BTTH.
* Một số ví dụ minh họa
Mẫu tình huống thứ 1: Cơng dân với sự phát triển kinh tế (tiết 1). Đơn vị kiến
thức: các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất.
Có ý kiến cho rằng: Con bị khi kéo cày trên đồng ruộng thì nó được coi là tư
liệu lao động của người nơng dân nhưng khi con bị đó bị đưa vào lị mổ thì nó
trở thành đối tượng lao động của những người làm nghề giết mổ gia súc.
Câu hỏi: Em có đồng ý với ý kiến trên hay không? Tại sao?
* Gợi ý trả lời:
19



Đồng ý. Vì một vật nào đó là tư liệu lao động hay đối tượng lao động còn tùy
thuộc vào mục đích sử dụng gắn với chức năng mà nó đảm nhận trong quá trình
sản xuất. Trong trường hợp trên, khi con bị giúp người nơng dân kéo cày thì nó
chính là tư liệu lao động nhưng khi con bị đó bị đưa vào lị mổ để giết thịt thì rõ
ràng nó đã trở thành đối tượng lao động của những người giết mổ gia súc.
Mẫu tình huống thứ 2: Hàng hóa - tiền tệ - Thị trường. Đơn vị kiến thức: Giá trị
của hàng hóa.
A, B và C là những người chuyên sản xuất gạch để cung cấp cho thị trường tại
địa phương X. Chất lượng gạch của cả 3 người được đánh giá như nhau.
Hiện tại sản phẩm gạch nung của anh C đang chiếm 70% thị phần tại địa phương
X. Anh A chiếm 17% thị phần và anh B chiếm 13 thị phần. Để sản xuất ra một
viên gạch bình qn anh A phải chi phí 1500 đồng, anh B phải chi phí hết 1590
đồng và anh C chi phí hết 1550 đồng.
Câu hỏi 1: Theo em, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất 1 viên
gạch tại địa phương X gần sát với thời gian lao động cá biệt của người nào? Tại
sao?
Câu hỏi 2: Theo em, trong 3 người nói trên người nào dành được ưu thế
trong cạnh tranh? Tại sao?
* Gợi ý trả lời:
Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất 1 viên gạch tại địa phương
X gần sát với thời gian lao động cá biệt của anh C. Vì anh C là người sản xuất và
cung ứng đại bộ phận (70%) số gạch được tiêu thụ tại địa phương X.
- Anh A sẽ dành được ưu thế trong cạnh tranh, vì thời gian lao động cá biệt (thể
hiện ở chi phí sản xuất) của anh A thấp hơn của anh B và anh C.
Mẫu tình huống thứ 3: Cung cầu trong sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đơn vị
kiến thức: Vận đụng quy luật giá trị.
Nếu em vừa là người sản xuất - kinh doanh vừa là người đi mua hàng, em nên
vận dụng quy luật cung – cầu như thế nào để có lợi nhất?
* Gợi ý trả lời:

Nếu là người sản xuất – kinh doanh:
+ Sẽ mở rộng sản xuất – kinh doanh mặt hàng trên thị trường khi cung nhỏ hơn
cầu, giá bán cao hơn giá trị.
+ Sẽ thu hẹp sản xuất – kinh doanh mặt hàng trên thị trường khi cung lớn hơn
cầu, giá bán thấp hơn giá trị.
- Nếu là người mua hàng:
+ Giảm nhu cầu mua các mặt hàng khi cung nhỏ hơn cầu và gián bán cao.
20


+ Tăng nhu cầu mua các mặt hàng khi cung lớn hơn cầu và gián bán thấp.
2.3.3. Sử dụng BTHH để củng cố bài học
Để kiến thức của HS được vững bền thì phải có bước củng cố và vận dụng.
Củng cố và vận dụng giúp HS rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ đúng đắn.
Việc sử dụng BTTH trong việc củng cố và vận dụng tri thức là một việc làm
khơng đơn giản. Bởi vì, trên thực tế SGK hiện hành có rất ít BTHH hoặc bài tập
sáng tạo, phần lớn là các bài tập tái hiện, thiếu đồng bộ và đa dạng. Muốn tạo
được BTTH phục vụ mục đích rèn luyện kỹ năng, thái độ... cho HS theo nội
dung bài học GV phải thiết kế hệ thống BTTH sao cho phù hợp, tăng thêm lượng
bài tập sáng tạo, đưa ra các BTTH trong đời sống để các em thực hành, tự mình
giải quyết.
Khi giải các BTTH GV đưa ra giúp các em thêm một lần nữa khắc sâu, nhớ
lại kiến thức mình vừa học. Từ đó các em có thể hình thành và phát triển thêm
các kỹ năng giải quyết một tình huống tương tự nếu gặp ngoại cuộc sống, giúp
HS tránh khỏi những bỡ ngỡ, vấp sai lầm đáng tiếc. Sử dụng BTTH để củng cố
bài học cũng là một tiêu chí đánh giá tiết dạy có thực sự hiệu quả khơng. HS có
tiếp thu bài học nhanh và dễ hiểu khơng và từ đó có thể nhạy bén, sáng tạo vận
dụng linh hoạt ngoài cuộc sống.
* Một số ví dụ minh họa
Mẫu tình huống1: Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thơng hàng hóa

Khi học về bài quy luật cạnh tranh hàng hóa, cơ giáo cho chia lớp thành
nhóm và thử đóng vai là nhà doanh nghiệp đang đứng trước sự cạnh tranh khốc
liệt khi có nhiều mặt hàng cùng loại của nước ngồi tràn vào với giá thành rẻ
hơn. Các nhóm đã thảo luận rất sôi nổi về biện pháp để đứng vững trong cạnh
tranh và thu được lợi nhuận.
- Nhóm của Hùng đưa ra các giải pháp là tiến hành cải tiến kĩ thuật, nâng cao
chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã hàng hóa cho bắt mắt người tiêu dùng,
tăng cường quảng cáo rầm rộ trên các phương tiện thơng tin.
- Nhóm của Thanh phản biện: nếu như đưa ra các giải pháp như thế thì giá thành
của sản phẩm lại cao lên vì phải tăng thêm chi phí đầu vào cho sản phẩm. Khi ấy,
sản phẩm làm ra sẽ càng không thể cạnh tranh nổi.
- Hùng trả lời: nhóm tớ đưa ra các giải pháp như thế nhưng vẫn giảm giá thành
đấy chứ ?
- Thế thì cậu sẽ bị thua lỗ nặng hơn vì giá bàn khơng đủ bù đắp chi phí.
Câu hỏi 1: Em có nhận xét gì về các giải pháp mà nhóm của bạn Hùng đã đưa ra.
Câu hỏi 2: Nếu là nhà doanh nghiệp, em xử lí tình huống trên như thế nào ?
* Gợi ý trả lời:
21


Những giải pháp mà nhóm của Hùng đưa ra cũng nằm trong hệ thống các
giải pháp cần thực hiện để đứng vững trong môi trường cạnh tranh. Việc đưa ra
các giải pháp trên là khơng sai, ngồi ra cịn cần phải có thêm những giải pháp
khác như liên hiệp các doanh nghiệp với nhau, mở rộng thị trường tiêu thụ, ...
Vấn đề ở đây là những giải pháp đó có làm tăng hay giảm chi phí đầu vào sản
phẩm.
Vì thế, để thành công trong cạnh tranh, việc đưa ra giải pháp nào thì cũng
cần phải giúp thỏa mãn hai yêu cầu sau:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Giảm giá thành sản phẩm.

Để đáp ứng hai yêu cầu trên, nhà doanh phải nghiên cứu và chọn lựa các
giải pháp nào mà có giá chi phí thấp nhất nhưng lại mang lại hiệu quả cao nhất.
Mẫu tình huống2: Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và tăng cường vai trò
quản lí kinh tế của nhà nước
Thành phần kinh tế nhà nước khác với thành phần kinh tế tư nhân về:
A. Hình thức sở hữuB. Quan hệ quản lí
C. Quan hệ phân phốiD. Tất cả các phương án trên
Câu hỏi: Hãy chọn phương án mà em cho là đúng. Vì sao?
* Gợi ý trả lời:
Phương án đúng là d. Vì: Muốn phân biệt một cách chính xác, khoa học thành
phần kinh tế này với thành phần kinh tế khác phải căn cứ vào cả 3 nội dung của
QHSX( sở hữu, quản lí, phân phối)
-Về sở hữu: Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về
TLSX, còn thành phần kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân hoặc hỗn hợp
giữa tư nhân nhân với nhà nước về tư liệu sản xuất với các loại hình kinh tế như
tập đồn kinh tế tư nhân hay tư nhân góp vốn vào các tập đồn kinh tế nhà nước,
đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, trang trại tư nhân, hộ sản xuất
kinh doanh,...
- Về quản lí: Kinh tế nhà nước do nhà nước quản lí cịn kinh tế tư nhân do các
chủ sở hữu tham gia quản lí.
- Về phân phối: Kinh tế nhà nước do nhà nước phân phối còn thành phần kinh tế
tư nhân thì do các chủ sở hữu trực tiếp phân phối...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Một vài nét về thực trạng sử dụng BTTH trong dạy học các bài “Công
dân với kinh tế” (SGK GDCD 11) (Qua thực tế ở trường THPT Nông Cống1
22


Năm học 2020 - 2021, trường THPT Nông Cống I có 35 lớp. Trong đó khối 12 là
13 lớp, khối 11 là 10 lớp, khối 10 là 12 lớp.

Để có cơ sở thực tiễn cho việc sưu tầm và sử dụng BTTH, tơi đã tiến hành tìm
hiểu thực trạng dạy học ở môn GDCD 10 lớp khối 11 ở trường THPT Nông
cống I. Tôi đã tiến hành, giảng dạy và dự giờ các tiết GDCD ở các lớp 11 của
nhà trường tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Đối với học sinh các lớp 11A1, 11A2, 11A3, 11A4 là các lớp theo ban khoa
học tự nhiên đa số các em có độ tư duy nhanh trong tiết học các em rất hào hứng
và làm việc huy động kiến thức đăt ra mục đích giải quyết,huy động kiến thức,
lựa chọn giải pháp tối ưu đưa ra nhiều ví dụ đa dạng vận dụng vào thực tiễn một
cách nhẹ nhàng
- Đối với học sinh các lớp 11A5,11A6,11A7,11A8,11A9,11A10 là các lớp theo
ban khoa học xã hội đa số xử lí tình huống chậm hơn các em ban khoa học tự
nhiên, nhưng nhiều em cẩn thận vốn hiểu biết xã hội đa dạng; tuy nhiên cũng có
số ít học sinh chưa thật sự chú tâm vào học tập nên không chú ý vào tình huống
cơ nêu ra.
Tơi thực hiện phiếu trắc nghiệm với 10 giáo viên các môn và 4 lớp với số
học sinh là 170.Từ câu hỏi và số liệu trên tôi đã thu được các ý kiến và đã thống
kê lại ở bảng sau:
Nhận thức của GV và HS về sự cần thiết sử dụng BTTH trong dạy học môn
GDCD
Để tìm hiểu nhận thức của GV và HS về sự cần thiết sử dụng BTTH trong
dạy học môn GDCD, tôi đưa câu hỏi đối với GV “Theo thầy (cô) sử dụng BTTH
trong mơn GDCDcó cần thiết khơng?” đối với HS “Theo em sử dụng BTTH
trong mơn GDCD có cần thiết không?”.
Giáo viên

Học sinh

Mức độ

Số lượng


Tỉ lệ (%)

Số lượng

Tỉ lệ (%)

Rất cần thiết

8

80

108

63,5

Cần thiết

2

20

50

29,5

Không cần thiết lắm 0

0


5

3

Không cần thiết

0

7

4

0

Bảng 1. Nhận thức của GV và HS về mức độ cần thiết của BTTH
23


Qua bảng kết quả trên chúng ta có thể nhận thấy rằng, đa số GV và HS đều
nhận thức được sự cần thiết của việc sử dụng BTTH trong dạy học. Có 100% ý
kiến GV cho rằng, cần thiết phải sử dụng BTTH trong quá trình dạy học. Như
vậy, hầu hết GV ở đây đã nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc
sử dụng BTTH trong dạy học mang lại hiệu quả chất lượng cao.
Đối với HS có 63,5% ý kiến cho rằng sử dụng BTTH là “rất cần thiết”,
29,5% ý kiến các em cho là “cần thiết”chỉ có 3% học sinh cho rằng khơng cần
thiết lắm, 4% học sinh cho rằng không cần thiết. Điều này chứng tỏ đa số các em
đều nhận thức được sự cần thiết phải sử dụng BTTH trong quá trình dạy học
mơn GDCD. Bên cạnh đó có số ít các em chưa nhận thức được tác dụng của việc
học tập bằng BTTH, bên cạnh đó các em chưa làm quen với cách học thông qua

việc giải quyết BTTH nên các em thấy khơng cần thiết. Để khắc phục điều này
địi hỏi phải có sự tác động từ GV, GV phải đổi mới tư duy cho HS và phương
pháp dạy học để HS thấy được tác dụng của việc sử dụng BTTH trong dạy và
học mơn GDCD qua đó giúp HS có nhận thức đúng đắn và đạt được kết quả cao
trong công tác giảng dạy.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
PPDHTH là một trong những phương pháp mới đem lại hiệu quả cao trong
quá trình giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Với phương pháp dạy
học mới này sẽ kích thích tư duy học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, sáng
tạo chủ động trong học tập. Đồng thời sử dụng phương pháp này sẽ tạo điều kiện
rèn luyện cho học sinh những kỹ năng có bản cần thiết như: Kỹ năng nhìn nhận
vấn đề, kỹ năng vận dụng tri thức của mình và của người khác để giải quyết tình
huống học tập. Mặt khác thơng qua q trình nghiên cứu tình huống học sinh sẽ
rèn luyện cho mình khả năng thích ứng với các tình huống khác nhau xảy ra
trong thực tế cuộc sống, từ đó các em rút ra được bài học cho bản thân và có
cách xử lý hay, nếu gặp phải các tình huống tương tự.
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển thì các mối quan hệ của con người
cũng có nhiều thay đổi, chính điều đó dẫn đến nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều tình
huống khác nhau, để giải quyết tình huống địi hỏi phải có cách cư xử tế nhị và
đòi hỏi người học phải nắm vững các điều luật đã được quy định. Ở trường
THPT học sinh khơng được tiếp xúc với tình huống khác nhau, bài học khơng
gắn với thực tế cuộc sống, thì khi ra đời các em sẽ bỡ ngỡ, bất ngờ, và gặp khó
khăn trong việc giải quyết, ứng xử cho đúng với các chuẩn mực đạo đức, các quy
phạm kinh tế.
24


Học sinh THPT là tầng lớp trẻ của xã hội đang trong quá trình học tập và rèn
luyện, họ chưa có khả năng và điều kiện để có những tư tưởng, quan niệm, quan

điểm về các hiện tượng kinh tế trong đời sống cũng như kỹ năng vận dụng kinh tế
vào cuộc sống. Hiểu và vận dụng các quy luật kinh tế vào đời sống thực tế là một
vấn đề hồn tồn khơng đơn giản, chính vì thế, trong học tập kinh tế, các em cần
được tiếp cận, tập duyệt với thực tế, được tạo điều kiện để các em vừa nâng cao
kiến thức lý luận vừa có năng lực vận dụng kinh tế vào cuộc sống. Với ý nghĩa đó
ngồi việc học lý luận, nghiên cứu các quy luật, phạm trù kinh tế, các em cần
được tham gia, nghiên cứu bài tập tập thực hành vận dụng kinh tế để giải quyết
các tình huống kinh tế.
Do vậy việc giảng dạy phần công dân với kinh tế lớp 11 bằng PPDHTH
đóng vai trị rất quan trọng nhằm giúp cho học sinh có thêm hiểu biết, có thêm
niềm tin, tự tin bước vào cuộc sống, trang bị cho các em hành trang quan trọng
trước khi bước vào đời. Sử dụng phương pháp dạy học này kết hợp với các
phương pháp khác sẽ đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, có ích cho
xã hội.
3.2. Kiến nghị:
Đối với các Sở Giáo dục và đào tạo
Việc sử dụng BTTH mang lại hiệu quả cao trong dạy học, tuy nhiên đây vẫn
là phương pháp chưa áp dụng nhiều, đòi hỏi GV phải có nhiều kinh nghiệm. Vì
vậy, Sở Giáo dục và đào tạo cần tăng cường mở lớp bồi dường năng lực cho GV,
đặc biệt là khả năng sử dụng phương pháp dạy học mới và hiện đại.
• Đối với nhà trường THPT
Cần nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của việc dạy học môn GDCD
trong nhà trường và trong quá trình giáo dục nhân cách cho HS, từ đó có sự quan
tâm, chỉ đạo cho hoạt động dạy và học của GV và HS.
Cần nâng cao nhận thức cho đội ngũ GV, cán bộ của nhà trường và cho HS
để cùng thực hiện tốt nội dung chương trình của mơn học.
Khuyến khích GV đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là việc sử dụng
BTTH trong dạy học môn GDCD nói riêng và trong tất cả mơn học khác.
Nhà trường cần tạo điều kiện cho GV có thể đưa BTTH vào quá trình dạy học
bằng cách tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết phục vụ cho

dạy học tất cả các phòng như tivi, máy tính, máy chiếu..
• Đối với giáo viên
Cần trang bị đầy đủ các tài liệu dạy học cần thiết và các tài liệu tham khảo liên
quan đến nội dung bài học và việc áp dụng BTTH vào dạy học mơn GDCD.


25


×