Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn Giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.16 KB, 93 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội
một cách toàn diện và sâu sắc. Nền Giáo dục nước ta đang chuyển từ phục vụ
nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi nền giáo dục nước ta phải đào
tạo ra lớp người lao động, tự chủ, sáng tạo, có năng lực thích ứng với nền
kinh tế thị trường cạnh tranh và hợp tác. Không chỉ biết tìm việc làm mà còn
phải tạo ra việc làm. Để đạt được mục tiêu này giáo dục nước ta phải đổi mới
cả về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học… Trong đó việc đổi
mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh
là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược.
Việc đổi mới phương pháp dạy học cần phải được tiến hành ở tất cả các
cấp học, bậc học. Bởi vậy phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng nhất
trong quá trình dạy học. Sau khi đã xác định rõ mục đích, nội dung học tập,
việc giảng dạy có tạo nên hứng thú hay không, có làm cho học sinh phát huy
trí thông minh sáng tạo hay không, có biến kiến thức thành thái độ hành vi
trong thực tiễn hay không… phụ thuộc vào phương pháp dạy học. Đặt vấn đề
đổi mới phương pháp dạy học chính là mong muốn tạo nên sức bật mới cho
thầy và cho thế hệ tương lai. Điều đó càng quan trọng hơn đối với các trường
Cao Đẳng Sư Phạm nói chung và trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh nói
riêng nơi đào tạo đội ngũ các thầy cô giáo tương lai.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, nền giáo dục nước ta thời gian qua còn bộc
lộ nhiều bất cập, yếu kém. Dễ nhận thấy nhất là tình trạng đổi mới phương
pháp dạy học, thậm chí lạc hậu phương pháp dạy học truyền thống “ thầy
giảng – trò ghi” còn diễn ra đại trà ở các nhà trường. Hậu quả là học sinh
ngày càng thụ động mặc dù nhà trường vẫn kêu gọi phải phát huy tính tích
1
cực chủ động độc lập. Điều đó mâu thuẫn với nhu cầu hiện nay là cung cấp
cho thị trường sức lao động có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng sự phát triển
của xã hội.


Trong trường cao đẳng sư phạm thì Giáo Dục Học là một khoa học quan
trọng giúp sinh viên hiểu biết nghiệp vụ của người giáo viên, rèn luyện cho họ
những kỹ năng sư phạm, hình thành ý thức đạo đức và tình cảm nghề nghiệp.
Song thực tế hiện nay việc giảng dạy môn giáo dục học ở các trường còn
nhiều bất cập như: “ Nặng về lý thuyết - nhẹ về thực hành, nặng về kiến thức
– nhẹ về kỹ năng” ( kết luận của hội thảo quốc gia do hội Tâm Lý – Giáo Dục
Việt Nam tổ chức năm 1995). Với những bức xúc đó, đã đến lúc đòi hỏi nhà
trường phải thay đổi mạnh mẽ cả về nội dung và phương pháp dạy học. Việc
sử dụng phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh là nhu cầu cấp thiết hiện nay.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa
IV đã chỉ rõ “ Phải đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc
học áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh
những năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”…
Có rất nhiều các phương pháp dạy học có thể sử dụng để phát huy tính
tích cực, sáng tạo của người học. Một trong những phương pháp mà chúng tôi
quan tâm là phương pháp tình huống trong dạy học. Bởi cuộc sống là hệ
thống các tình huống, con người sẽ tích cực hơn khi mình rơi vào tình huống
cần giải quyết. Việc xử lý tình huống trong dạy học chẳng những giúp người
học tích cực chủ động sáng tạo hơn trong nhận thức, mà còn biết vận dụng
vốn hiểu biết của mình vào việc giải quyết những “ bài toán” đa dạng trong
cuộc sống. Từ những lý do trên chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Sử dụng
phương pháp tình huống trong dạy học môn Giáo dục học ở trường Cao Đẳng
Sư Phạm Bắc Ninh”.
2
2. Mục đích nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn Giáo dục học giúp
sinh viên phát huy tính tích cực độc lập, sáng tạo trong học tập. Từ đó nâng
cao chất lượng dạy học môn Giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc
Ninh.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: phương pháp dạy học môn giáo dục học
- Đối tượng nghiên cứu: phương pháp tình huống.
4. Phạm vi nghiên cứu.
- Do điều kiện về thời gian và khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên
bước đầu chúng tôi nghiên cứu sử dụng phương pháp tình huống vào dạy học
chương: “Giáo dục và sự phát triển nhân cách” thuộc môn GDH ở trường
CĐSPBN.
- Thời gian thực hiện: từ ngày 19/ 12/ 2010 đến 30/ 4/ 2011
- Địa bàn nghiên cứu: Áp dụng ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Với đề tài này, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của phương pháp tình huống.
- Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp tình huống trong dạy
học môn Giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh.
- Thực nghiệm giảng dạy một số tiết trong môn Giáo dục học bằng
phương pháp tình huống.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các
phương pháp sau.
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận:
3
- Nghiên cứu tài liệu lý luận có liên quan đến cơ sở phương pháp luận, cơ
sở lý luận dạy học của đề tài.
- Đọc và phân tích các bài viết trên các tập có chuyên ngành và các luận
án, báo cáo khoa học, các tư liệu giáo trình… có liên quan tới đề tài. Từ đó
tổng hợp rút ra các kết luận cần thiết phục vụ cho tiến trình nghiên cứu.
6.2 Phương pháp điều tra ( điều tra bằng phiếu anket).
- Thu thập những thông tin về việc sử dụng phương pháp tình huống.
- Thu thập những thông tin ngược của sinh viên về học tập môn Giáo dục

học ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
6.3 Thực nghiệm sư phạm.
Sử dụng phương pháp tình huống để dạy một chương trong giáo trình
dành cho sinh viên trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh tìm ra hiệu quả và
thái độ của sinh viên đối với phương pháp dạy học này.
6.4 Phương pháp thống kê toán học.
Sử dụng một số phương pháp như lập bảng, vẽ đồ thị, thống kê, kiểm
định để đánh giá kết quả thực nghiệm.
7. Cấu trúc công trình.
7.1 Phần mở đầu
7.2 Phần nội dung:
7.2.1 Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
7.2.2 Chương II: Sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn
Giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh.
7.2.3 Chương III: Thực nghiệm sư phạm sử dụng phương pháp tình
huống trong dạy học môn Giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc
Ninh.
7.3 Kết luận và kiến
4
NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1 Dạy học.
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm
giúp người học lĩnh hội những kiến thức, kinh nghiệm, những thông tin khoa
học một cách có hệ thống. Dạy học là hoạt dộng thực tiễn, diễn ra trong mối
quan hệ giữa người dạy và người học. Bởi vậy quá trình dạy học chỉ có thể
đạt được hiệu quả cao khi có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa giáo viên
và học sinh trên các khâu cơ bản nhất là mục tiêu, nội dung, phương pháp,

hay nói cách khác là khi có sự phối hợp ăn ý giữa người dạy và người học.
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm
giúp cho người học lĩnh hội được tri thức khoa học, kỹ năng hoạt động sáng
tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân cách của
người học theo mục đích giáo dục.
1.1.2 Phương pháp dạy học.
Thuật ngữ phương pháp có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp là “Methodos”,
có nghĩa là con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích. Theo
Heghen ( dưới góc độ triết học) “ phương pháp là ý thức về hình thức của sự
tự vận động bên trong của nội dung”. Định nghĩa này chứa đựng nội hàm sâu
sắc. Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là cách thức đạt tới mục tiêu, là
hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Phương pháp gắn bó chặt
chẽ với lý luận, có những phương pháp riêng cho từng lĩnh vực khoa học.
Phương pháp dạy học là cách thức tổ chức hoạt động dạy học của giáo
viên và cách thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh, trong quan hệ đó,
phương pháp dạy quyết định, điều khiển phương pháp học, phương pháp học
5
tập của học sinh là cơ sở để lựa chọn phương pháp dạy. Tuy nhiên kết quả
học tập được quyết định trực tiếp bởi phương pháp học tập của học sinh.
Như vậy phương pháp dạy học là sự kết hợp hữu cơ, biện chứng giữa
phương pháp dạy của giáo viên và phương pháp học của học sinh, phương
pháp dạy đóng vai trò chủ đạo, phương pháp học có tính chất độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, song nó cũng ảnh hưởng trở lại
phương pháp dạy.
Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của
giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ
đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học.
[ 19, 204]
1.1.3 Tình huống.
- Từ điển tiếng Việt – Viện Khoa học xã hội 1992 định nghĩa: “ Tình

huống là sự diễn biến tình hình về mặt cần đối phó” [11, 1082]
- Giáo sư Trần Văn Hà định nghĩa: “ Tình huống là sự kiện cần được
nghiên cứu xử lý, cũng có thể hiểu tình huống là những mâu thuẫn diễn ra
trong một hay nhiều yếu tố của hệ thống sinh thái xã hội của hệ thống sinh
thái nhân văn” [17, 45].
- Theo triết học: Tình huống được nghiên cứu như là một tổ hợp các mối
qua hệ cụ thể, mà đến một thời điểm nhất định liên kết con người với môi
trường, biến con người thành một chủ thể của hoạt động có đối tượng nhằm
đạt được mục tiêu nhất định.
- Xét về mặt tâm lý: Tình huống là hệ thống những điều kiện bên trong
quan hệ với chủ thể, những điều kiện này tác động một cách gián tiếp lên tính
tích cực của chủ thể đó. [ 18, 56]
Theo chúng tôi, một cách tổng quát có thể sử dụng khái niệm tình huống
trong sổ tay Tâm Lý Học: Tình huống là hệ thống các sự kiện bên ngoài có
6
quan hệ với chủ thể, có tác dụng thúc đẩy tính tích cực của người đó. Trong
không gian tình huống xảy ra bên ngoài nhận thức của chủ thể. Trong quan hệ
thời gian tình huống xảy ra trước so với hành động của chủ thể. Trong quan
hệ chức năng tình huống là sự độc lập của các sự kiện với chủ thể ở thời điểm
mà người đó thực hiện hành động.
Có các loại tình huống sau:
a. Tình huống có vấn đề.
* Khái niệm vấn đề:
-Theo từ điển tiếng việt – Viện Khoa học xã hội: “Vấn đề là điều cần
được xem xét nghiên cứu giải quyết.” [ 11, 1083]
-Theo PGS. Lê Phước Lộc: “ Vấn đề là một sự việc, một hiện tượng, một
khái niệm, một hiện trạng tồn tại khách quan có thể ta chưa biết nó hoặc biết
rất ít về nó, mà ta gặp phải trong tư duy hoặc trong hành động”.
Như vậy “ vấn đề” có thể biểu đạt bởi một câu hỏi hay một bài toán.
Song một câu hỏi chỉ cần tái hiện hoặc một bài toán có thể giải bằng phương

pháp thông thường biết trước thì không phải là vấn đề. Câu hỏi hay bài toán
chứa đựng mâu thuẫn nhận thức đòi hỏi chủ thể phải có sự nỗ lực tư duy,
phải sáng tạo mới giải đáp được nó mới gọi là vấn đề. Do đó cùng một bài
toán với người này là “ vấn đề” nhưng với người khác thì không phải là “vấn
đề”.
* Khái niệm tình huống có vấn đề.
- AV. Pêtropki định nghĩa: tình huống có vấn đề là tình huống đặc trưng
bởi trạng thái tâm lý xác định của con người, nó kích thích tư duy trước khi
con người nảy sinh những mục đích và những điều kiện hoạt động mới. Trong
đó, những phương tiện và phương thức hoạt động trước đây mặc dù cần
nhưng chưa đủ để đạt được mục đích mới này. [10, 108]
7
- Theo GS. Lê Khánh Bằng: tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lý
trong đó học sinh nhận thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề và có
khả năng giải quyết vấn đề với sự nỗ lực nhất định [4, 44]
b. Tình huống dạy học.
Tình dạy học . Ở cấp độ phổ quát nhất, mọi tình huống đều có giá trị
dạy học. Đơn giản là vì trong bất kỳ tình huống nào cũng hàm chứa tri thức
về các sự kiện tri thức về kĩ năng và phương pháp giải quyết chúng. Vì vậy,
khi hành động mang lại kết quả, chủ thể đã thu được những tri thức nhất định.
Tuy nhiên, dạy học không phải là quá trình tự phát mà hoạt động có chủ đích.
Vì vậy, các tình huống được đưa vào trong hoạt động dạy học phải được lựa
chọn và xây dựng theo dụng ý của người dạy, khi đó mới trở thành tình huống
dạy học.
Tình huống dạy học là tình huống trong đó có sự ủy thác của người
giáo viên. Sự ủy thác này chính là quá trình người giáo viên đưa những nội
dung cần truyền thụ vào trong các sự kiện của tình huống và cấu trúc các sự
kiện sao cho phù hợp với logic sư phạm, để khi người học giải quyết nó sẽ đạt
được mục tiêu dạy học.
Như vậy, một tình huống thông thường chưa phải là tình huống dạy

học. Nó trở thành tình huống dạy học khi có sự ủy thác của giáo viên và được
giáo viên sử dụng với dụng ý tạo ra môi trường làm việc của người học. Đây
chính là điểm khác biệt giữa một tình huống thông thường với một tình huống
dạy học.[ 8, 271]
c.Tình huống học tập lý tưởng.
Tình huống lý tưởng là tình huống mà thầy giáo đề xuất sao cho học trò
hình thành hoặc điều chỉnh những kiến thức của họ để đáp ứng những nhu cầu
của môi trường chứ không phải do ý thức của người dạy.
8
Trong tình huống học tập lý tưởng, kiến thức được hoàn toàn gợi ra và
hình thành do logic nội tại của tình huống mà giáo viên đứng ngoài.
1.1.4 Phương pháp tình huống
“Học là việc chuẩn bị cho người học vào các tình huống của thực tiễn
cuộc sống” (Robinson), bởi thế, việc học và lĩnh hội tri thức cần phải được
gắn liền với các tình huống của cuộc sống và thực tiễn nghề nghiệp.Trên thực
tế tồn tại nhiều cách gọi khác nhau cho phương pháp này, ví dụ như: phương
pháp dạy học theo tình huống, phương pháp nghiên cứu tình huống, hay ngắn
gọn hơn là phương pháp tình huống. Trong đề tài này chúng tôi sẽ thống nhất
một cách gọi chung và ngắn gọn nhất là phương pháp tình huống. Dạy học
tình huống là một phương pháp kiểu dạy học dựa vào vấn đề. Kiểu dạy học
này xuất phát từ kiểu học tập trong đó tri thức kinh nghiệm học sinh có được
thường qua tư duy lý trí và bằng hoạt động trí tuệ của cá nhân (bên cạnh kiểu
học bằng bắt trước,sao chép, học bài không có cảm xúc )
PGS. Đặng Thành Hưng
Kiểu dạy học này có nhiều ưu điểm , vì bản chất của người dạy học là
phải tạo ra tính vấn đề. Chỉ có tính vấn đề mới tạo ra nhu cầu học tập, tạo ra
hiệu quả học tập, kiểu dạy học dựa vào vấn đề có đặc trưng sau:
+ Thầy giáo tạo ra các tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát
hiện vấn đề. Học sinh hoạt động tự giác tích cực để giải quyết vấn đề thông
qua đó lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt mục đích dạy học.

+ Học sinh được đặt vào một tình huống gợi vấn đề, hoạt động tích cực,
tận lực huy động tri thức và kĩ năng của mình để giải quyết vấn đề.
+ Mục đích dạy học không chỉ làm cho học sinh lĩnh hội được kết quả
của quá trình giải quyết vấn đề, mà còn làm cho họ phát triển khả năng tiến
hành những quá trình như vậy.
* Khái niệm phương pháp tình huống
9
Phương pháp tình huống là tổ hợp cách thức phối hợp thống nhất giữa
giáo viên và học sinh. Trong đó giáo viên là người tạo ra môi trường chứa
đựng vấn đề học tập có tính thách thức bằng cách thiết kế những “an toàn”
cho học sinh bằng cách thiết kế và ủy thác cho học sinh giải quyết tình huống
dạy học. Còn học sinh tiếp nhận tình huống dạy học, tự lực sáng tạo giải
quyết tình huống thông qua quá trình đồng hóa và điều ứng nhằm bộc lộ
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng qua đó thích nghi với môi trường và phát triển
bản thân.
Theo PGS. TS Đặng Thành Hưng thì mỗi phương pháp dạy học đều có
ba vấn đề ( thành tố dạy học của phương pháp): Một là nguyên tắc lý luận
lòng cốt ( xác định bản chất của phương pháp đó không lẫn với các phương
pháp khác). Hai là mô hình kĩ thuật ( gồm các tổ hợp kĩ năng, quy tắc thực
hiện chúng để xác định phương pháp dạy học đó). Ba là các phương tiện
mang và biểu hiện phương pháp đó trong hiện thực ( xác định phương pháp
ấy có hình thức cụ thể là gì?). Để hiểu rõ hơn về phương pháp dạy học tình
huống, chúng tôi tìm hiểu và làm rõ ba thành tố trên.
+ Nguyên tắc lý luận lòng cốt: Phương pháp dạy học tình huống thuộc
kiểu dạy học dựa vào vấn đề. Kiểu dạy học này đòi hỏi người học phải nỗ lực
hoạt động trí tuệ, suy nghĩ giải quyết các tình huống mà giáo viên đưa ra. Qua
quá trình giải quyết tình huống, nhân cách của người học được bộc lộ, phát
triển theo mục đích dạy học.
+ Mô hình kĩ thuật: Quy trình thực hiện gồm hai đoạn, giai đoạn chuẩn
bị tình huống dạy học, giai đoạn điều khiển học sinh tiếp nhận và giải quyết

tình huống với trình tự ( Giáo viên ủy thác tình huống, học sinh đồng hóa và
điều tiết để thích nghi với môi trường chứa đựng tình huống dạy học mà giáo
viên đã thiết kế và ủy thác. Cuối cùng giáo viên thể thức hóa). Một số kỹ năng
cần thiết khi thực hiện phương pháp nghiên cứu tình huống:
10
Kỹ năng thiết kế tình huống.
Kỹ năng ủy thác, thể thức hóa.
Kỹ năng điều khiển.
+ Phương tiện mang và biểu hiện phương pháp: tình huống dạy học.
1.2 Khái quát về phương pháp tình huống:
1.2.1 Những đặc trưng của phương pháp tình huống.
Từ định nghĩa về phương pháp tình huống nêu trên, có thể nhận thấy,
tình huống ở đây có thể là tình huống bài toán và tình huống vấn đề. Tình
huống vấn đề đòi hỏi chủ thể nhận thức tham dự vào mối quan hệ giữa điều
đã cho và điều yêu cầu của bài toán và chuyển chúng thành mối quan hệ giữa
điều đã biết và điều chưa biết. Còn tình huống bài toán không đòi hỏi điều đó.
Với phương pháp tình huống, có thể người học khám phá ra tri thức hoặc
cách thức hành động mới dưới hình thức cá nhân hoặc dưới hình thức nhóm
nhằm hợp tác với nhau bằng cách so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát các
sự kiện, hiện tượng, hoặc tìm ra những tri thức mới khác nhau thông qua thực
hành. Nhờ đó mà làm tăng tính sâu sắc của lý thuyết, làm rõ các khái niệm, vì
nó tạo cho người học có cơ hội áp dụng những lý thuyết đã học vào việc xem
xét, giải quyết cá tình huống thực tế cụ thể. Phương pháp tình huống đó còn
giúp làm giảm khoảng cách giữa kiến thức sách vở với thực tế cuộc sống.
Đồng thời, khi phân tích các tình huống trong quá trình học tập sẽ giúp người
học nhận ra giá trị đích thực của những tri thức lý thuyết.
Khi sử dụng phương pháp tình huống người giáo viên làm nhiệm vụ “ủy
thác”, nghĩa là không bắt người học làm theo ý mình một cách miễn cưỡng
mà làm cho họ tự giác, tích cực biến ý đồ của người thầy giáo thành nhiệm vụ
học tập của mình và người học đảm nhận lấy việc học của mình để chiếm lĩnh

tri thức. Giáo viên chỉ đưa người học vào tình huống dạy học và gợi ra những
vấn đề để tự họ tìm ra lời giải.
11
Phương pháp tình huống chú trọng đế việc ứng dụng tri thức vào việc
giải quyết những vấn đề thực tiễn hơn là việc giải quyết vấn đề có tính chất lý
luận.
1.2.2 Ưu và nhược điểm của phương pháp tình huống.
1.2.2.1 Ưu điểm:
1) Cung cấp môi trường sư phạm lí tưởng cho sinh viên tổ chức các hoạt
động học tập của mình. Trong môi trường đó, sinh viên được trực tiếp làm
việc với đối tượng học tập, tự mình “ bóc tách” nội dung học tập được ngầm
ẩn trong tình huống.
2) Sinh viên không tiếp nhận nội dung học tập một cách lí thuyết mà
được gắn liền với một tình huống cụ thể, điển hình. Nguyên tắc vàng trong
dạy hoc: Tôi nghe thì tôi quên, tôi nhìn thì tôi nhớ, tôi làm thì tôi hiểu rất phù
hợp với trường hợp này.
3) Tăng cường khả năng độc lập suy nghĩ, phát triển tư duy sáng tạo và
các hướng tiếp cận với đối tượng.
4) Phát triển các kĩ năng vận dụng kinh nghiệm của mình và của người
khác vào việc giải quyết các vấn đề trong học tập và trong lĩnh vực khác.
5) Phát triển khả năng thích ứng trong các tình huống khác nhau. Đây
chính là mục tiêu chủ yếu cuả dạy học hiện đại.
6) Nâng cao lòng tin vào khả năng của bản thân trong việc giải quyết các
tình huống học tập cũng như trong cuộc sống.
7) Tăng cường sự hiểu biết và sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm
thông qua việc hợp tác giải quyết tình huống.
1.2.2.2 Nhược điểm:
1) Xây dựng được một tình huống tiền sư phạm là việc không đơn giản.
Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có nhiều chuyên môn, vốn văn hóa sâu rộng và
am hiểu những vấn đề thực tế liên quan tới lĩnh vực môn học.

12
2) Sinh viên tốn khá nhiều thời gian để giải quyết tình huống và rút ra
các tri thức cần thiết. Vì vậy các tình huống được khai thác phải điển hình để
tránh lãng phí nhiều thời gian của sinh viên.
3) Học viên dễ bị lạc hướng trong quá trình giải quyết tình huống, dễ nản
trí khi gặp tình huống khó hoặc không nhiệt tình tham gia khi tình huống
thiếu sự hấp dẫn.
4) Nhiều tình huống tốn kém tài chính, khó thực hiện.
1.2.3 Ý nghĩa, vai trò của phương pháp tình huống.
Phương pháp tình huống có thể vận dụng ở tất cả các khâu của quá trình
dạy học, từ khâu lĩnh hội kiến thức mới để củng cố, vận dụng hoặc kiểm tra,
đánh giá việc lĩnh hội của học sinh.
Đây là phương pháp có tác dụng giúp cho dạy học gắn liền với thực tiễn
của cuộc sống, kích thích hứng thú và tính tích cực học tập của sinh viên.
Phương pháp tình huống có ý nghĩa đặc biệt trong phát triển tư duy và tưởng
tượng sáng tạo của người học.
1.2.4 Sử dụng phương pháp tình huống ở các thời điểm khác nhau
của giời học.
Theo chúng tôi có thể sử dụng phương pháp tình huống trong ở các thời
điểm khác của giờ học như sau:
- Sử dụng tình huống để vào bài.:
Giáo viên sử dụng phương pháp tình huống để gợi mở vấn đề cần
nghiên cứu. Giáo viên hướng dẫn sinh viên tham gia nghiên cứu các tình
huống, mà trong các tình huống này, vấn đề cần giải quyết chưa xuất hiện.
Mâu thuẫn chứa dựng trong tình huống, khi được giải quyết xong mới
chỉ mang tính gợi mở vấn đề, nó tạo ra mâu thuẫn khác lớn hơn trong nhận
thức của sinh viên.
13
+ Tình huống này trong dạy học thường được sử dụng để đặt vấn đề và
bao giờ cũng được sử dụng kết hợp với phương pháp dạy học khác.

- Sử dụng tình huống để dạy kiến thức mới
+ Giáo viên sử dụng phương pháp tình huống để dạy kiến thức mới. Giáo
viên hướng dẫn sinh viên tham gia nghiên cứu giải quyết các tình huống, mà
trong các tình huống này đã chứa đựng nội dung tri thức mới cần học. Sinh
viên giải quyết tình huống từ đó tạo ra được một kiến thức mới cho mình, đó
chính là tri thức mà người giáo viên định dạy, gửi gắm vào tình huống.
+ Khi sử dụng tình huống để dạy kiến thức mới có thể sử dụng một
phương pháp dạy học tình huống, cũng có thể kết hợp với phương pháp dạy
học khác.
- Sử dụng tình huống để củng cố, phát triển kiến thức.
+ Mục đích: Giáo viên sử dụng tình huống để luyện tập hay thực hành
nhằm củng cố, vận dụng hay phát triển tri thức đã học cho người học.
+ Giáo viên hướng dẫn sinh viên tham gia nghiên cứu giải quyết các tình
huống, mà trong các tình huống này đã chứa đựng nội dung tri thức đã học.
Sinh viên tự giải quyết và chỉ ra tri thức giáo viên gửi vào tình huống đó và
vận dụng tri thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
1.2.5 Nguyên tắc thiết kế nội dung bài giảng theo phương pháp tình
huống.
Việc thiết kế bài giảng theo phương pháp tình huống được tiến hành dựa
trên các nguyên tắc cơ bản sau:
1, Tôn trọng chương trình, kế hoạch bộ môn đã được các cấp phê duyệt,
bao quát được các nội dung tri thức cơ bản trang bị cho người học.
Nguyên tắc thiết kế này không loại trừ cách thiết kế hệ thống tri thức
đang được phổ biến hiện nay.
14
2, Giảng dạy nội dung đã học được thiết kế theo tình huống phải đảm
bảo sự phát triển năng lực tư duy, năng lực hành động của sinh viên, hình
thành kỹ năng xử lý nhanh, chính xác các tình huống thực tiễn.
3, Thiết kế bài phải phù hợp với trình độ nhận thức của sinh viên, với
mục tiêu đào tạo, điều kiện hiện có của nhà trường.

4, Thiết kế bài học phải thành hệ thống các tình huống phù hợp với các
tiết, các chương trình giúp người học tự tìm ra cách giải quyết.
5, Thiết kế bài học phải thực hiện yêu cầu dạy học tối ưu nhằm phát triển
cả ba mặt: Tri thức, kỹ năng, thái độ. Ba mặt đó nằm trong mối quan hệ thống
nhất cùng tác động đến nhân cách của sinh viên.
1.2.6 Sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học.
Trong thực tiễn thì giáo viên có thể sử dụng nhiều kĩ thuật để triển khai
phương pháp tình huống vào trong quá trình dạy học. Sau đây là quá trình dạy
học bằng phương pháp tình huống được thể hiện ở các bước sau.
* Giai đoạn chuẩn bị bài giảng: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá
trình dạy học bằng phương pháp tình huống. Vì ở đó diễn ra sự ủy thác của
giáo viên. Trong bước này giáo viên cần thực hiện những việc sau:
- Thứ nhất: Xác định mục tiêu và nội dung giảng dạy cụ thể, mà thông qua
tình huống mà học sinh phải đạt được.
- Thứ hai: Yêu cầu khi thiết kế tình huống.
+ Căn cứ vào nguyên tắc thiết kế bài giảng theo phương pháp tình huống.
+ Căn cứ vào đơn vị kiến thức cơ bản đã xác định.
+ Đọc tài liệu có liên quan đến nội dung bài dạy.
+ Tham khảo tình huống trong dạy học qua các sách và tài liệu.
+ Tìm kiếm soạn thảo tình huống giả định hay thực tiễn có liên quan, tiến
hành phân loại, xử lý hiệu chỉnh các tình huống cho phù hợp với nội dung bài
dạy.
15
- Thứ ba: Xây dựng tình huống dạy học. Công việc này giống như biên
kịch viết kịch bản. Giáo viên cần phải thu thập tình huống, phân tích và lựa
chọn thông tin, xác lập logic các sự kiện, tiên lượng trình độ nhận thức, kĩ
năng hành động và thái độ học tập của sinh viên khi hành động trong môi
trường các sự kiện đó… Nếu việc xây dựng tình huống bằng cách lựa chọn
tình huống trong thực tế, thì tình huống đó phải điển hình ( đại diện cho các
tình huống cụng loại) và có tính thời sự. Đồng thời phải có sự gia công thêm

về phương diện sư phạm. Nếu là tình huống do giáo viên xây dựng thì cần
phải đảm bảo nguyên tắc “ y như thật”, tức là những sự kiện trong tình huống
phải gắn với thời gian, không gian, địa điểm, con người cụ thể sản sinh ra tri
thức, kĩ năng và phương pháp mà người giáo viên đưa vào trong tình huống
( sự cá nhân hóa, hoàn cảnh hóa, thời gian hóa…)
- Thứ tư: Cần phân tích trình độ nhận thức, kinh nghiệm và các đặc điểm
tâm lí – xã hội của học viên để xác định mức có vấn đề của tình huống ( mức
độ khó khăn hoặc trở ngại của tình huống mà học viên phải vượt qua).
- Thứ năm: Chuẩn bị các câu hỏi, các phương tiện kĩ thuật cần thiết cho
việc giải quyết tình huống của sinh viên.
- Thứ sáu: Lập kế hoạch thực hiện và dự kiến những tình huống phát sinh.
* Giai đoạn thực hiện: Trong giai đoạn này có các việc chủ yếu sau:
Giới thiệu tình huống cho học viên. Cung cấp thông tin về tình huống
( phát tài liệu, băng video v.v). Nêu rõ công việc học viên phải thực hiện, mục
đích cần đạt v.v.
Tổ chức cho học viên hành động với tình huống: Trong khâu này giáo viên
có thể hướng dẫn học sinh hành động với tình huống theo nhiều hình thức: a)
Làm việc độc lập của từng học sinh. Trong hình thức này, giáo viên cần đảm
bảo đủ thời gian để sinh viên phân tích và hiểu rõ tình huống. Sau khi học
viên đưa ra được giải pháp giải quyết tình huống, giáo viên cần xác nhận
16
những tri thức, kĩ năng, phương pháp hành động mà học sinh thu nhận được
từ việc giải quyết tình huống. Trong tường hợp những tri thức thu nhận được
không phù hợp, cần giúp họ khắc phục, bằng cách tìm kiếm giải pháp mới. b)
Làm việc theo nhóm. Trong hình thức này, lớp được chia thành nhiều nhóm.
Khi các nhóm làm việc, giáo viên cần đi vòng quanh, quan sát và trợ giúp các
nhóm, nếu thấy cần thiết. c) Thảo luận cả lớp. Trong dạy học bằng phương
pháp tình huống, hình thức làm việc cả lớp chỉ diễn ra ở công đoạn cuối, khi
các cá nhân hoặc nhóm đã tìm ra được giải pháp và cần công bố, thảo luận,
trao đổi rộng rãi trong cả lớp.

* Tổng kết: Giáo viên thực hiện chức năng xác nhận kiến thức, kĩ năng,
phương pháp mà học sinh thu nhận được thông qua việc giải quyết tình
huống. Bước này có thể thực hiện bằng kĩ thuật trao đổi.
17
Chương II: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG TRONG DẠY
HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
BẮC NINH.
2.1 Vài nét về nhà trường – sinh viên Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh
và đặc trưng của môn giáo dục học.
2.1.1 Vài nét về trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh.
Trường CĐSP Bắc Ninh được thành lập ngày 24/6/1998 trên cơ sở sát
nhập Trường Bồi dưỡng cán bộ quản lí giáo dục Bắc Ninh với phân hiệu
CĐSP Bắc Ninh sau khi tái lập tỉnh. Tháng 10/1998, Ban giám hiệu đầu tiên
của trường chính thức được kiện toàn. Tháng 01/1999 Ban chấp hành Đảng
ủy lâm thời nhà trường được thành lập. Tháng 02/1999 công Đoàn trường đã
tiến hành Đại hội khóa I. Ngay từ năm học đầu tiên, đội ngũ cán bộ giáo viên
của trường đã được sắp xếp về các phòng, khoa, tổ và đã tạo được sự hoà
nhập, đoàn kết, thống nhất trong các đơn vị.
Trong năm học đầu tiên 1998-1999, nhà trường chỉ có 84 CBGV trong
đó có 11 cán bộ giáo viên có trình độ thạc sĩ và sau đại học. Đến nay số lượng
CBGV đó tăng gần gấp đôi với 145 CBGV, trong đó số người có trình độ cao
chiếm khoảng 60%: 01 tiến sĩ, 03 nghiên cứu sinh, 57 thạc sĩ (trong đó có 02
thạc sĩ được đào tạo tại Australia và 02 thạc sĩ được đào tạo theo chương trình
liên kết với nước ngoài).
* Nhà trường:
Từ năm 1998 đến 2008, Trường liên tục đạt danh hiệu tập thể lao động
xuất sắc, được nhận 08 Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh về thành tích
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học.
- Năm 2003, Trường được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
- Năm 2005, Trường được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động.

- Năm 2007, Trường được Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc
18
- Khoa Bộ môn chung gồm tổ chính trị, tổ giáo dục thể chất - quốc
phòng và tổ tâm lý – giáo dục
- Khoa quản lý giảng dạy chuyên môn Chính trị - Mác Lênin – Tư tưởng
Hồ Chí Minh, Thể dục quố phòng, Đoàn đội, Tâm lý giáo dục của các ngành,
hệ đào tạo do trường đào tạo và cấp bằng, chứng chỉ
- Tháng 03/2007 Tổ Tâm lý sát nhập vào khoa Bộ môn chung
- Khoa có 20 giảng viên trong đó tổ tâm lý có 11 giảng viên (6 thạc sỹ, 5
cử nhân)
a. Nhiệm vụ, chức năng chính của tổ
* Nhiệm vụ
- Tham gia giảng dạy hầu hết cho các hệ đào tạo của nhà trường (hệ
chính quy và tại chức…)
+ Hệ CĐSP đào tạo GV THCS tổ tham gia giảng dạy 8 môn
+ Hệ CĐSP đào tạo GV Tiểu học tổ tham gia giảng dạy 7 môn.
+ Hệ trung học sư phạm( 2 năm) tổ tham gia giảng dạy 4 môn.
+ Hệ CĐSP liên thông ( đào tạo GV tiểu học) tổ tham gia giảng dạy 5
môn
+ Hệ Cao đẳng thư viện thông tin tổ tham gia giảng dạy 3 môn.
+ Hệ trung cấp thư viện thiết bị tổ tham gia giảng dạy 2 môn.
+ Hệ cao đẳng Việt Nam học tổ tham gia giảng dạy 2 môn.
+ Hệ Cao đẳng sư phạm mầm non tổ tham gia giảng dạy 6 môn.
* Chức năng
Ngoài chấm thi học kì học bình thường tổ tham gia làm thi tuyển sinh
đầu vào hệ CĐSP liên thông.Thi tốt nghiệp môn TL - GD của hệ CĐSP ,Tiểu
học Mầm Non,CĐSP liên thông.Dạy cấp chính chỉ SP bậc 1 cho sinh viên
không thuộc hệ SP
19
Tham gia hướng dẫn SV nghiên cứu khoa học giáo dục (toàn bộ SV năm

2 cuả hệ CĐSP và SV năm 3 của hệ CĐSP mầm non và hệ trung học sư phạm
làm bài tập TL – GD nhỏ)
Tham gia trực tiếp làm nghiên cứu khoa hoc, viết bài đăng trên các tập
san của trường
Tham gia rèn luyện nghiệp vụ cho SV trong trường. Đây là nhiệm vụ đặc
thù của tổ.
- Khoa quản lý giảng dạy chuyên môn Chính trị - Mác Lênin – Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Thể dục quố phòng, Đoàn đội, Tâm lý giáo dục của các
ngành, hệ đào tạo do trường đào tạo và cấp bằng, chứng chỉ
- Tháng 03/2007 Tổ Tâm lý sát nhập vào khoa Bộ môn chung
- Khoa có 20 giảng viên trong đó tổ tâm lý có 11 giảng viên (6 thạc sỹ, 5
cử nhân)
2.1.2 Đặc điểm sinh viên trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh
Hầu như tất cả sinh viên của trường đều ở độ tuổi thanh niên ( từ 18 – 25
tuổi), lứa tuổi có sự phát triển mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, họ đang thực
hiện quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm của bản thân để phục vụ cho cuộc
sống hiện tại và trong tương lai. Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học,
xản suất hay hoạt động xã hội cơ bản nhằm phục vụ cho hoạt động mang tính
nghề nghiệp của họ.
a. Sự thích ứng của sinh viên với hoạt động và môi trường học tập mới.
- Khi bước vào học trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh, sinh viên đã ra
nhập vào một môi trường khác xa so với môi trường học tập ở phổ thông. Với
những yêu cầu mới về hoạt động học tập và những thay đổi cơ bản về môi
trường cùng điều kiện sống. Đòi hỏi sinh viên phải thích nghi với hoàn cảnh
mới. Sinh viên thích nghi ngày càng nhanh thì sự phát triển của học càng tốt.
20
- Đa số sinh viên nhanh chóng thích ứng với môi trường xã hội mới, đặc
biệt là nhanh chóng thích ứng với việc sống tập thể vì họ là những thanh niên
sôi động, thích tiếp cận cái mới, thích giao lưu với bạn bè đặc biệt là những
người cùng lứa tuổi.

b. Sự phát triển nhận thức của sinh viên.
- Sinh viên tiếp nhận tri thức khoa học một cách khái quát hệ thống để
trở thành những thầy cô giáo tương lai. Hoạt động nhận thức của họ gắn chặt
với hoạt động nghề nghiệp.
- Hoạt động nhận thức của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có
mục đích, nội dung, chương trình nhất định.
- Những phương tiện phục vụ cho hoạt động nhận thức của sinh viên
cũng đa dạng, phong phú và hiện đại với những trang thiết bị như: thư viện,
phòng máy, phòng học…
- Sinh viên phải tìm được phương pháp học tập mới ở cao đẳng cho phù
hợp với nghề nghiệp của mình. Vì không tìm được phương pháp học tập thích
hợp thì sinh viên không thể có kết quả học tập tốt được.
Như vậy hoạt động nhận thức của sinh viên là hoạt động trí tuệ đích
thực, đòi hỏi sự tích cực năng động và có tính lựa chọn rõ rệt. Hoạt động nhận
thức này cũng diễn ra theo quy luật nhận thức chung của loài người, song đối
với sinh viên thì hoạt động nhận thức của họ diễn ra tinh tế nhanh nhạy và
linh động, sáng tạo hơn. Vì vậy họ luôn tiếp cận được với những cái mới,
luôn đào sâu suy nghĩ không bằng lòng với tri thức dập khuôn như trong giáo
trình.
c. Sự phát triển tự ý thức của sinh viên.
Tự ý thức là một loại đặc biệt của ý thức trong đời sống cá nhân, có chức
năng điều chỉnh nhận thức và thái độ đối với bản thân. Tự ý thức chính là điều
kiện để phát triển và hoàn thiện hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Tự
21
ý thức của sinh viên được hình thành trong quá trình xã hội hóa và liên qua
chặt chẽ với tính tích cực nhận thức của họ.
2.1.3 Đặc trưng môn giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc
Ninh.
Mục tiêu và đặc trưng môn học là cơ sở tạo nên đặc trưng tình huống dạy
học môn đó.

- Mục tiêu dạy học môn giáo dục học trong nhà trường sư phạm là làm
cho sinh viên nắm vứng hệ thống lý luận về quá trình giáo dục ( bản chất, quy
luật, nguyên tắc…) hình thành kỹ năng nghề nghiệp cơ bản thực hiện quá
trình giáo dục ở trường tiểu học và trung học cơ sở, hình thành tình cảm yêu
nghề cho sinh viên.
- Đặc trưng môn giáo dục học: Giáo dục học vừa là khoa học xã hội vừa
là khoa học nghiệp vụ. Với tư cách là một khoa học xã hội, giáo dục học
nghiên cứu về con người ( quá trình giáo dục con người) nên nội dung tri thức
môn giáo dục học có liên quan chặt chẽ với nhiều môn học khác. Hơn nữa
giáo dục cũng chính là cuộc sống nên các khái niệm giáo dục học được bàn
với nhiều quan điểm, phương pháp, hiện tượng, giáo dục biểu hiện trong thực
tế hết sức sinh động.
Với tư cách là khoa học nghiệp vụ, giáo dục học trang bị cho người học
không chỉ tri thức về quá trình dạy học, quá trình giáo dục trong nhà trường
mà còn đòi hỏi người học đạt được trình độ kĩ năng cơ bản để thực hiện.
Giáo dục học là môn học có hệ thống khái niệm trừu tượng nhưng các sự
kiện và biểu hiện trong thực tế rất sinh động và gần gũi với sinh viên. Tuy
giáo dục học là một môn học mới đối với sinh viên nhưng lý thuyết ấy hoàn
toàn có thể xây dựng trên thực tiễn giáo dục cũng như kinh nghiệm mà sinh
viên đã có. Hơn nữa giáo dục học chỉ có sức sống khi nó gắn liền với thực tế,
biến thành kỹ năng nghiệp vụ.
22
Vì vậy sử dụng tình huống dạy học trong môn giáo dục học là một hướng
đổi mới cần thiết và phù hợp.
Nội dung chương trình môn giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm
Bắc Ninh được thể hiện như sau:
Bao gồm 45 tiết chia làm 5 chương:
Chương I : Những vấn đề cơ bản giáo dục học 7 tiết
Chương II :Giáo dục và sự phát triển nhân cách 6 tiết
Chương III : Mục đích giáo dục và hệ thống giáo dục quốc dân 12 tiết

Chương IV: Nguyên lý giáo dục 4 tiết
Chương V : Người giáo viên ở trường trung học 6 tiết.
* Nhưng vì khả năng nghiên cứu còn hạn chế và thời gian có hạn nên
chúng tôi chỉ tập chung nghiên cứu nội dung của chương II môn GDH : “Giáo
dục và sự phát triển nhân cách” (6 tiết).
- Mục tiêu:
Kiến thức:
+ Trình bày giải thích được khái niệm nhân cách, sự phát triển nhân cách,
khái niệm về các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách.
+ Chứng minh được vai trò đúng đắn của từng nhân tố.
Kỹ năng:
+ Thực hành làm được các bài tập do giáo viên nêu ra, đánh giá đúng đắn
các sự kiện trong thực tế liên quan đến nhân cách.
+ Có kế hoạch thực hiện kiến thức đã học vào công tác sư phạm có hiệu
quả.
Thái độ:
+ Sinh viên yêu thích môn học và nghề giáo đã chọn.
+ Tích cực rèn luyện nhân cách cho bản thân cũng như quá trình vận dụng
vào công tác sư phạm.
23
Cấu trúc của chương II.
Tiết 1:2.1 Khái niệm sự phát triển nhân cách.
Tiết 2: 2.2Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách.
2.2.1 Yếu tố bẩm sinh – di truyền.
Tiết 3: 2.2.2 Yếu tố môi trường.
Tiết 4: 2.2.3 Yếu tố giáo dục
Tiết 5: 2.2.4 Yếu tố hoạt động cá nhân.
Tiết 6: Thực hành
Từ nội dung chương II môn giáo dục học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm

Bắc Ninh chúng tôi nhận thấy dạng tri thức và kĩ năng cơ bản của chương
phản ánh.
Hệ thống khái niệm về các yếu tố trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách.
Vai trò chức năng của mỗi yếu tố trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách.
Những bài học sư phạm.
Tình huống dạy học bao giờ cũng là tình huống thực và hư cấu nhưng
người học vẫn nhận thấy tình huống đó được lấy từ cuộc sống. Do đó, không
phải nội dung nào trong môn giáo dục học cũng có thể xây dựng được và cần
thiết sử dụng tình huống dạy học như một phương pháp tối ưu. Những khái
niệm cũ đã biết, khái niệm mới trừu tượng… những dạng tri thức này có thể
dụng các phương pháp khác sẽ tận dụng được thời gian mà hiệu quả cao.
Những nội dung môn học liên quan đến các kinh nghiệm mà sinh viên đã
biết đã quan sát, những nội dung gắn liền với thực tiễn… Là cơ sở để xây
dựng tình huống dạy học môn giáo dục học.
* Đặc trưng tình huống dạy học ở các loại bài giáo dục học.
24
Tình huống dạy học bao giờ cũng tạo ra môi trường thực nhưng an toàn
cho sinh viên bộc lộ và thích nghi ở các loại bài khác nhau ( lĩnh hội tri thức
mới, xêmina, thực hành, ôn tập, kiểm tra) đều có thể xây dựng tình huống.
Tuy nhiên tính chất và yêu cầu của mỗi loại bài sẽ quy định đặc trưng của
phương pháp tình huống ở loại bài đó. Chẳng hạn loại bài lĩnh hội tri thức
mới đòi hỏi sinh viên chiếm lĩnh tri thức mới, lý thuyết, kỹ năng nên tình
huống dạy học cần vừa sức đối với tri thức mà sinh viên đã có trước khi học.
Những loại bài ôn tập, xêmina, thực hành kiểm tra… cần có tình huống
dạy học mang tính chất vận dụng tổng hợp tri thức, kinh nghiệm…
2.2 Thực trạng sử dụng phương pháp tình huống ở trường CĐSP
Bắc Ninh.
2.2.1 Mục đích nghiên cứu sử dụng phương pháp tình huống ở

trường CĐSP Bắc Ninh.
- Mục đích nghiên cứu thực trạng nhằm thực hiện nhiệm vụ thứ hai của
đề tài, tìm hiểu sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn giáo dục
học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Ninh cụ thể tìm hiểu các nội dung sau:
+ Nhận thức của giảng viên về vai trò của phương pháp tình huống và
những điểm lý luận cơ bản nhất như phương pháp dạy học và phương pháp
dạy học tình huống.
+ Thực tế vận dụng: Họ thường đưa phương pháp tình huống vào trong
dạy học môn giáo dục học không. Họ đã vận dụng như thế nào, thái độ nhận
thức của sinh viên. Có khó khăn và thuận lợi gì.
2.2.2 Kế hoạch nghiên cứu thực trạng.
2.2.2.1 Xây dựng các mẫu phiếu điều tra.
Chúng tôi xây dựng một anket dành cho giáo viên và một dành cho sinh
viên dưới dạng phiếu tham khảo ý kiến.
- Phiếu điều tra dành cho giảng viên ( phụ lục 1)
25

×