Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Phòng ngừa tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.44 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VĂN CHINH

PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM
XÂM PHẠM SỞ HỮU CĨ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG VĂN CHINH

PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM
XÂM PHẠM SỞ HỮU CĨ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 038.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Tội phạm học và phịng ngừa tội phạm về “Phỏng ngừa tình hình các tội phạm xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam " là hồn tồn
trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Đặng Văn Chinh


2.1.

Thực trạng các giải pháp và áp dụng các giải pháp phịng ngừa tình

hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 2017
................................................................................................................................ 50
Chương 3. TĂNG CƯỜNG PHỊNG

NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI

CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM.......................56
3.1.

Tăng cường nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung

phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam



3.2.

Hồn thiện các biện pháp và tổ chức phịng ngừa tội phạm CĐTS trên

địa

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS
Các tội CĐTS

: Bộ luật Tố tụng hình sự
: Các tội chiếm đoạt tài sản = Các tội phạm xâm

CTTP

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
: Cấu thành tội phạm

PNTP


: Phịng ngừa tội phạm

THTP

: Tình hình tội phạm

TAND

: Tịa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình các tội CĐTS
2.1.


trên địa bàn tỉnh Quảng Nam gia đoạn từ năm 2013 -

30

2017
Tỷ lệ tội phạm CĐTS thực hiện trong tình hình tội phạm
2.2.

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 -

30

2017
Mức độ phạm tội đối với các tội danh thuộc nhóm các tội
2.3.

CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm

31

2013 - 2017
2.4.

Động thái (diễn biến) của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh

32

Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 - 2017
Động thái (diễn biến) của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh

2.5.

Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 - 2017 trong so sánh

33

liên kế
Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng đối với
2.6.

các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ

35

năm 2013 - 2017
Cơ cấu của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.7.

giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo giới tính của người

36

phạm tội
Cơ cấu của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.8.

giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo độ tuổi của người
phạm tội

37



Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
Cơ cấu của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.9.

giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo trình độ học vấn

38

của người phạm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Nam là tỉnh duyên hải Trung Trung bộ, cách Thủ đơ Hà Nội 830km về
phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 865km về phía Nam, trên tuyến giao thông
huyết mạch của cả nước và là một trong những tỉnh thuộc vùng kinh tế năng động
của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Với diện tích tự nhiên 10.407,47km2, địa
hình đa dạng phân thành 03 vùng rõ rệt: Đồng bằng, trung du, miền núi; được phân
bố thấp dần từ Tây sang Đông và một phần diện tích đảo. Dân số là 1.480.000 người,
với mật độ dân số trung bình là 140 người/km2 (2016), với 27 dân tộc sinh sống
trong đó có 4 tộc người thiểu số cư trú lâu đời là người Cơ Tu, người Co, người Gié
Triêng, người Xê Đăng. Tỉnh có 142 km đường biên giới giáp với nước bạn Lào và
125 km bờ biển; có trục Quốc lộ 1A, 07 tuyến Quốc lộ khác và tuyến đường sắt Bắc
- Nam qua địa phận; có cảng biển Kỳ Hà, sân bay Chu Lai và nhiều tuyến sơng phục

vụ hoạt động vận tải. Tồn tỉnh có 18 huyện, thị xã, thành phố; trên 4.200 doanh
nghiệp các loại (trong đó, có 2.500 doanh nghiệp trong 35 Cụm công nghiệp và 08
Khu công nghiệp đang hoạt động).
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, tỉnh Quảng
Nam có bước phát triển vượt bậc trở thành tỉnh khá trong khu vực duyên hải miền
Trung. Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng cao; văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến
tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, là địa phương có địa
bàn rộng, dân số đơng, đang trong giai đoạn phát triển, tập trung nhiều khu công

8


nghiệp, nhiều địa điểm khai thác khống sản nên tình hình an ninh trật tự cũng diễn
biến phức tạp, trong đó phải kể đến tội phạm xâm phạm sở hữu, đặc biệt là các tội
CĐTS có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Trong đó, tội phạm trộm cắp
tài sản, cướp, cướp giật tài sản còn chiếm tỉ lệ lớn trong cơ cấu của tình hình tội
phạm. Phương thức thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Mặt khác, hậu
quả do loại tội phạm này gây ra không chỉ là thiệt hại về vật chất, tài sản mà cịn gây
mất trật tự an tồn xã hội.
Để phịng ngừa tình hình tội phạm nói chung và các tội CĐTS nói riêng, các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan tư pháp tỉnh Quảng Nam đã có
nhiều giải pháp hữu hiệu và đạt được những kết quả nhất định. Thực hiện Chỉ thị số
48/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
phịng, chống tội phạm trong tình hình mới (2010), Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày
14 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia phòng,
chống tội phạm giai đoạn 20162025 và định hướng đến năm 2030, Tỉnh ủy đã ban
hành Chương trình hành động số 09-CTr/TU, ngày 15/3/2011 để chỉ đạo các tổ chức
Đảng, các ban ngành, đoàn thể, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị; UBND tỉnh
ban hành Kế hoạch số 1440/KH-UBND, ngày 26/4/2011 phân công trách nhiệm,
hướng dẫn các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ

Chính trị và Chương trình hành động số 09-CTr/TU của Tỉnh ủy gắn với việc triển
khai kế hoạch thực hiện các Chương trình mục tiêu Quốc gia về phịng, chống tội
phạm; phịng, chống ma túy.
Tuy có sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị của tỉnh với quyết tâm
cao trong công tác đấu tranh phịng và chống tội phạm, song, trên thực tế, tình hình
tội phạm, đặc biệt là tình hình các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong
những năm gần đây xảy ra và có diễn biến phức tạp về cả tính chất và mức độ. Trong
trong vịng 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017, TAND tỉnh Quảng Nam đã xét xử

9


1.729 vụ án với 2.877 bị cáo về các tội CĐTS chiếm 45,2% tổng số vụ án và 45,9%
số bị cáo số bị can của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh.
Chính vì lý do trên, việc nghiên cứu thực trạng phòng ngừa, đánh giá những
kết quả đã đạt được, những hạn chế của hoạt động phòng ngừa và tìm ra những
nguyên nhân của những hạn chế để từ đó đưa ra các biện pháp phịng ngừa các tội
phạm về sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Phịng ngừa tình hình các tội phạm xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ” làm Luận văn
tốt nghiệp Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Các cơng trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các cơng trình khoa
học sau đây đã được nghiên cứu:
- “Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” Nxb.
Chính trị quốc gia, 1994;
- “Tội phạm học Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà
nước và Pháp luật, Nxb. Cơng an nhân dân, năm 2000;
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân

dân, tái bản năm 2013;
- “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” - Sách chuyên khảo của
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.
- Giáo trình “Tội phạm học Việt Nam” do GS.TS. Trần Đại Quang chỉ đạo
biên soạn Nxb. Công an nhân dân, năm 2013.
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS.TS. Võ
Khánh Vinh, Chương - Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội 2010;

1
0


- Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Cơng an
nhân dân, 2004...2010;
- Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an
nhân dân, 2002, 2013;
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của TS. Phạm
Văn Tỉnh, Nxb. Công an nhân dân, 2007;
- Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành cơng vụ ở nước ta
hiện nay, một mơ hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành, Phạm Văn Tỉnh, Đào
Bá Sơn, Nxb. CAND, 2010;
- “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” của Nguyễn Văn Cảnh và Phạm
Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành năm 2013.
- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân người
phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
tạp chí Cảnh sát nhân dân, tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tịa án nhân dân, Công an nhân
dân trong những năm gần đây.
Tình hình nghiên cứu cụ thể
Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài Luận văn, các cơng trình sau

đây đã được tham khảo:
- Lê Thị Hồng (2013) “Tình hình tội phạm ở Thành phố Đà Nẵng hiện nay”,
Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Nguyễn Quốc Hùng (2014) “Tội phạm trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh
Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ
luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Hoàng Thị Hoa (2016), “Phịng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội;
- Lê Hữu Nhân (2016), “Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội;

1
1


- Tơ Lan Phương (2016), “Phịng ngừa tội phạm trộm cắp trên địa bàn
quận Tân Bình”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Như vậy, lý luận chung đã có và có nhiều cơng trình nghiên cứu tội phạm học
có liên quan đến đề tài luận văn đã được thực hiện trong những năm gần đây. Đó là
nền tảng chất liệu nghiên cứu quý giá mà đề tài luận văn này có thể tham khảo và kế
thừa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cưu
Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng đến là xây dựng hệ thống giải pháp
phòng ngừa hữu hiệu đối với các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cưu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tài liệu: Bao gồm tài liệu văn bản của Đảng ở Trung ương và địa
phương, tài liệu về pháp luật và tài liệu chuyên ngành tội phạm học.
- Nghiên cứu thực tế: Bao gồm số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết năm của

các cơ quan tư pháp, thu thập hồ sơ, bản án cụ thể.
- Nghiên cứu sáng tạo, bao gồm những việc cụ thể sau:
+ Khái quát những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tội phạm, áp dụng cho
phòng ngừa các tội CĐTS;
+ Nghiên cứu thực trạng phịng ngừa tình hình các tội CĐTS từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam từ năm 2013-2017, từ thực trạng nhận thức về các vấn đề của phòng
ngừa tội phạm cho đến thực trạng các giải pháp và áp dụng các giải pháp; tình hình
các tội CĐTS và nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu cực này.
+ Kiến nghị giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

1
2


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phòng ngừa tình hình các tội CĐTS
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, đề tài được thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc
chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”;
- Về tội danh, đề tài luận văn đề cập đến các tội CĐTS, được quy định từ Điều
133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009), có cập
nhật những Điều luật tương ứng trong BLHS hiện hành;
- Về thời gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế từ năm 2013 đến năm 2017, gồm
số liệu thống kê của Tòa án và 100 bản án hình sự sơ thẩm về các tội CĐTS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
tội phạm trong xã hội, cũng như về vấn đề phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như sau: Biện chứng; Lô-gich; Kế thừa; Hệ thống; Thu hút; phương pháp
thống kê; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh, quy nạp, diễn
dịch; phương pháp mô tả bằng bảng, biểu để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra đối với
luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn lý luận tội phạm học về
phịng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

1
3


- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức tham
khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức cho
quần chúng nhân dân và vận dụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, đồng thời
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phịng ngừa tình hình các tội CĐTS trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
- Luận văn còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy và học tập trong các trường trong và ngồi Cơng an nhân dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt

tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chương 2. Thực trạng phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013-2017
Chương 3. Tăng cường phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

1
4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
1.1.1.

Khái niệm phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản

1.1.1.1. Các tội chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Quan hệ sở hữu là một trong những quan hệ quan trọng được pháp luật Việt
Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng chú trọng bảo vệ. Quyền sở hữu bao
gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu.
Các tội CĐTS được quy định tại chương XIV từ Điều 133 đến Điều 140 BLHS
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), bao hàm dấu hiệu của tội
phạm nói chung đã được ghi nhận ở khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 và
được hiểu một cách khái quát là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật hình sự qui định thực hiện một cách
cố ý xâm hại đến quan hệ sở hữu được BLHS qui định.
Như vậy cũng như các tội phạm khác, các tội CĐTS có các đặc điểm là hành vi
có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có tính trái pháp luật hình sự, có tính có lỗi và

có tính phải chịu hình phạt.
Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan không
tách rời nhau bao gồm khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ
thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Do vậy cần phải nhận thức đầy đủ các
dấu hiệu đặc trưng cho bốn yếu tố nói trên. Đối với các tội CĐTS, điều đó cũng
khơng phải là ngoại lệ.
- Khách thể của các tội CĐTS
Khách thể của các tội CĐTS là quan hệ sở hữu. Tuy nhiên bên cạnh quan hệ sở
hữu vốn là khách thể bắt buộc (phải có) của tất cả các tội CĐTS, một số tội trong
nhóm tội này còn xâm hại quan hệ nhân thân như tội cướp tài sản, tội cưỡng đoạt tài


sản, tội cướp giật tài sản... Đối tượng tác động của các tội CĐTS bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ giá trị được bằng tiền và các quyền về tài sản. Tài sản đó có thể là
tài sản hợp pháp nhưng cũng có thể là tài sản bất hợp pháp. Có ngoại lệ là có một số
đối tượng tuy thỏa mãn khái niệm tài sản nhưng do tính chất đặc biệt nên có thể
khơng phải là đối tượng tác động của các tội CĐTS như ma túy, vũ khí, quân trang,
quân dụng... chẳng hạn.
- Mặt khách quan của các tội CĐTS
Căn cứ vào tính chất hành vi của tội phạm được qui định từ Điều 133 đến Điều
140 BLHS có thể thấy các tội CĐTS đều phải có hành vi nhằm CĐTS hoặc hành vi
CĐTS của người khác. Một số tội có cấu thành hình thức với dấu hiệu bắt buộc
thuộc mặt khách quan của tội phạm chỉ gồm hành vi CĐTS, một số tội được xây
dựng dưới hình thức cấu thành tội phạm vật chất với các dấu hiệu bắt buộc trong mặt
khách quan của tội phạm là hành vi CĐTS, hậu quả của tội phạm và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi chiếm đoạt tài sản và hậu quả gây ra.
Các hành vi phạm tội thuộc nhóm các tội CĐTS đều được thực hiện bằng hành
động, hàm chứa mục đích CĐTS, bởi vậy được thực hiện quyết liệt. Hậu quả mà
những hành vi CĐTS gây ra, trước hết là những thiệt hại gây ra cho quan hệ sở hữu
ở chỗ làm mất hoặc hạn chế các quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc quyền định đoạt đối

với chủ sở hữu do tài sản bị chiếm đoạt. Ngoài ra một số tội CĐTS cịn có thể gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của người khác như tội cướp tài sản,
tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan của các tội CĐTS
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của nó bao gồm các dấu hiệu gắn
chặt với biểu hiện bên ngoài là mặt khách quan của tội phạm đã phân tích như lỗi,
mục đích phạm tội, động cơ phạm tội. Tất cả các tội CĐTS có lỗi cố ý và hơn thế
đều là cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi, người thực hiện hành vi, người phạm tội
nhận thức được hành vi mà mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình
sự ngăn cấm, thấy trước hậu quả tất yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả xảy ra.


Mục đích CĐTS là dấu hiệu bắt buộc của các tội CĐTS. Đây là dấu hiệu cho phép
phân biệt một số tội thuộc nhóm tội này với các tội khác cũng có đối tượng tác động
là con người như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
chẳng hạn.
- Chủ thể của các tội CĐTS
Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, chủ thể của các tội CĐTS là thể
nhân, con người cụ thể. Cũng theo pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể đó phải đủ
độ tuổi luật hình sự quy định để có thể chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS
năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009) và phải có năng lực trách nhiệm hình sự (nhận
thức qua Điều 13 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009). Theo quy định của
BLHS năm 1999 chủ thể của tất cả các tội CĐTS là chủ thể thường đủ những điều
kiện đã khái quát như trên.
Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học
Tình hình tội phạm nói chung và tình hình các tội CĐTS nói riêng thể hiện đặc
điểm định lượng và định tính ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng, lãnh thổ hành chính nhất
định, tình hình các tội CĐTS được thể hiện cụ thể qua mức độ, cơ cấu, động thái và
tính chất của tình hình tội phạm.
Như vậy, khi các tội CĐTS như đã phân tích ở trên mà xảy ra trên thực tế ở

một địa bàn nhất định như tỉnh Quảng Nam, trong một thời gian nhất định, thì tội
phạm học nhìn nhận đó là tình hình các tội CĐTS, tức là một hiện tượng xã hội tiêu
cực phản ánh quy luật của sự phạm tội thông qua những bản chất nhất định. Chính vì
thế mà tội phạm học khách quan khẳng định quan điểm rằng “Tình hình tội phạm là
một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai
cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội
(quốc gia) nhất định trong một thời gian nhất định” [45, tr.61]. Và để “công cụ hóa”
cho việc nghiên cứu thực tế, khái niệm tình hình tội phạm hiện được xác định là một
hiện tượng tâm - sinh lý - xã hội tiêu cực, vừa mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể,
vừa mang tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện thông


qua tổng thể các hành vi phạm tội cùng với các chủ thể đã thực hiện các hành vi đó
trong một đơn vị thời gian và không gian nhất định [10].
Vì tình hình các tội CĐTS chỉ là một trường hợp cụ thể của tình hình tội phạm
như vừa nêu, nên cũng có những dấu hiệu, các thuộc tính của tình hình tội phạm.
Theo đó, tình hình các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ 20132017 phải được biểu hiện ở tổng thể các tội CĐTS đã được thực hiện trên địa bàn
tỉnh trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2017.
1.1.1.3. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
Hiểu theo nghĩa biện chứng, thì phịng ngừa tội phạm, cũng như phịng ngừa
tình hình tội phạm, đều có nội dung giống nhau và đều đã được tội phạm học làm rõ.
Tình hình các tội CĐTS vẫn xảy ra hàng năm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam với một
mức độ và tính chất nhất định. Đó là một thực tế khơng ai bác bỏ và cái thực tế này
phải được giải quyết ngay và có thể giải quyết được bằng những biện pháp thích
ứng. Trong cái thực tế đó lại chứa đựng những yếu tố tiêu cực mà trong sự tác động
qua lại ở những hồn cảnh, tình huống nhất định đã sinh ra chính thực tế như vậy của
tình hình các tội CĐTS, tức là chứa đựng quy luật của sự phạm tội mà tội phạm học
gọi là nguyên nhân và điều kiện (của hiện tượng này), cái cần phải được loại trừ
bằng một hệ thống các biện pháp khác với những biện pháp đã nêu trên. Chính vì
thế, trong nhiều Chỉ thị của Đảng về phòng, chống tội phạm đều đặt ra 2 mục tiêu

khác nhau, nhưng lại có quan hệ biện chứng với nhau. Đó là Ngăn chặn và Đẩy lùi
tội phạm [34].
Phù hợp với quan điểm của Đảng, cũng là phù hợp với thực tế, phịng ngừa
tình hình các tội CĐTS được hiểu là chiến lược hành động của toàn xã hội do Đảng
lãnh đạo nhằm giải quyết hai vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau là vấn đề hiện
trạng của tình hình tội phạm và vấn đề nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu
cực này.
Do vậy, phịng ngừa tội phạm có hai phần: Một phần gồm các biện pháp tác
động vào nhân (tức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở giai đoạn


tương tác nhập tâm) và một phần tác động vào quả (tức tình hình tội phạm tiềm
tàng). Hai phần trên của phịng ngừa tội phạm khơng thể tạch rời nhau, cùng tạo
thành nội dung của chiến lược phịng ngừa tình các tội CĐTS [29].
1.1.2.

Ý nghĩa của phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản

Khái niệm “ý nghĩa” không thấy được giải thích trong từ điển triết học [37],
song trong Từ điển Tiếng Việt 2010 của Viện Ngôn ngữ học có giải thích: “Ý nghĩa
là giá trị, tác dụng” [43].
Như vậy, trong Luận văn này, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội CĐTS
cũng được đề cập theo chỉ dẫn trên, tức là xem xét giá trị và tác dụng của phòng
ngừa trên hai phương diện lý luận và thực tế trong phạm vi của chuyên ngành nghiên
cứu, tức là tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
- Ý nghĩa lý luận của phòng ngừa tội phạm: Tội phạm học khách quan khẳng
định, phòng ngừa tội phạm vừa là cái quyết định cho sự hình thành tội phạm học với
tính cách là một khoa học pháp lý hình sự độc lập trong quá trình lịch sử đấu tranh
với tình hình tội phạm của xã hội lồi người, vừa là mục đích của khoa học này, cái
chỉ có thể đạt được trên cơ sở đã hiểu rõ khách thể nghiên cứu của nó là tình hình tội

phạm, cũng như đã xác định được quy luật vận động của khách thể đó. Quy luật này
chính là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học và nó được xác định thơng qua việc
nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên cơ sở của cơ chế
hành vi phạm tội. Nói cách khác, phịng ngừa tội phạm do thực tế quy định, tức là do
tình hình tội phạm và do nguyên nhân và điều kiện thực tế của tình hình tội phạm
quy định. Điều đó có nghĩa rằng, tội phạm học khách quan, tội phạm học Việt Nam,
thừa nhận tình hình tội phạm là hiện tượng tiêu cực tồn tại khách quan, và do những
con người bình thường, không phải bẩm sinh phạm tội, gây ra. Những con người
phạm tội này được tội phạm học nghiên cứu trong phạm trù “Nhân thân người phạm
tội”, một bộ phận cấu thành quyết định của tình hình tội phạm. Những con người đã
phạm tội đó, đã tạo ra tình hình tội phạm thực tế đó, cũng như bao người khác là
cũng có q trình phát triển bản thân, cái q trình diễn ra theo hai giai đoạn là nhập


tâm và xuất tâm, nhưng ở họ, ở giai đoạn nhập tâm và xuất tâm của họ có vấn đề tiêu
cực và phạm tội. Vì thế, phịng ngừa tội phạm phải khống chế được các yếu tố tiêu
cực và tội phạm này của họ và của những người khác ở trạng thái tiềm tàng, cũng
như từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội. Đó chính là cái nghĩa lý luận,
giải thích tại sao, phịng ngừa tội phạm hay tình hình tội phạm ln ln là một
chiến lược.
- Ý nghĩa thực tế của phòng ngừa: Phòng ngừa tội phạm là phương hướng
chính, là tư tưởng chủ đạo trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm. Nó vừa
thể hiện tính khách quan cần thiết, vừa biểu hiện bản chất nhân đạo của chế độ xã
hội hiện đại. Khách quan cần thiết là vì, tình hình tội phạm ln luôn là vật cản sự
phát triển tiến bộ của cả xã hội và cá nhân. Về mặt nhân đạo, phòng ngừa tội phạm
giúp hạn chế áp dụng việc trừng phạt, thay vào đó là làm tội phạm khơng có cơ hội
để xảy ra. Bởi khơng có tội phạm xảy ra thì khơng có người phạm tội, khơng phải
chịu trách nhiệm hình sự, chịu hình phạt, tù tội... Đó là đối với bản thân người phạm
tội. Còn đối với nạn nhân của tội phạm thì phịng ngừa tội phạm giúp họ không phải
chịu hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, cụ thể đối với nhóm tội CĐTS là khơng

phải chịu những thiệt hại về tài sản, sức khỏe. Ngoài ra, phịng ngừa tội phạm cịn
mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt cơng tác phịng ngừa tội phạm giúp
giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của mọi người dân. Đối với các cơ quan, các
chức danh tư pháp hình sự và thi hành án, phịng ngừa tội phạm giúp làm giảm áp
lực công việc lên cán bộ thực thi công vụ, tiết kiệm sức lao động của nhân viên Nhà
nước cũng như của công dân trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và giáo
dục, cải tạo người phạm tội. Hơn nữa, làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm còn
mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, làm giảm các chi phí liên quan đến việc xử lý tội
phạm, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, nghĩa là tiền thuế của người dân sẽ
được dùng cho các cơng việc phúc lợi khác thay vì dùng cho việc xử lý tội phạm.
1.2. Mục đích, các ngun tắc phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản


1.2.1.

Mục đích phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản

Vì phịng ngừa tình hình các tội CĐTS chỉ là một trường hợp cụ thể của phịng
ngừa THTP nói chung, nên mục đích của nó cũng được quy định bởi mục đích của
“Cái chung”, tức là ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội
[6], gọi tắt là ngăn chặn và đẩy lùi các tội CĐTS. Mục đích của phịng ngừa tội
phạm cần phải hướng đến khơng để hình thành và tồn tại các nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, tức là phải hạn chế, cô lập, tiến tới loại trừ những mầm mống tội
phạm. Đối với THTP nói chung cần phải hạn chế, làm giảm, chặn đứng khơng để có
sự gia tăng phát triển tội phạm trong xã hội và tiến tới xóa bỏ, thủ tiêu hiện tượng
này khỏi đời sống xã hội. Nên mục đích của phịng ngừa tình hình các tội CĐTS
cũng được quy định bởi mục đích chung của hoạt động phòng ngừa tội phạm là ngăn
chặn, tức là từng bước hạn chế, làm giảm dần và tiến tới loại bỏ các tội CĐTS khỏi
đời sống xã hội.

1.2.2.

Các nguyên tắc phịng ngừa các tội chiếm đoạt tài sản

Phịng ngừa tình hình tội phạm, như đã nói, là chiến lược hành động của toàn
xã hội do Đảng lãnh đạo nhằm giải quyết hai vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau
là vấn đề hiện trạng của tình hình tội phạm và vấn đề nguyên nhân, điều kiện của
hiện tượng tiêu cực này. Vì thế, phịng ngừa tội phạm phải tn thủ nhiều ngun
tắc, phụ thuộc vào mục đích, quy mơ và phạm vi tác động
của biện pháp áp dụng. Ở đây chỉ đề cập đến những nguyên tắc chung.
1.2.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ mọi hoạt động phịng
ngừa tình hình tội phạm cũng như mọi chủ thể tiến hành các hoạt động phòng ngừa
đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng - cụ thể là Đảng Cộng sản Việt Nam với lý luận
khoa học chủ đạo là chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh làm
sợi chỉ đỏ dẫn đường.
1.2.2.2. Nguyên tắc pháp chế


Nguyên tắc pháp chế thể hiện ở chỗ hoạt động phịng ngừa tình hình tội phạm
nói chung và việc áp dụng các biện pháp phịng ngừa nói riêng phải có cơ sở pháp
luật, hợp pháp và hợp hiến. Các chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa cũng phải
tuân thủ nghiêm chỉnh, nhất quán các quy định của pháp luật trong q trình tiến
hành các hoạt động phịng ngừa đó.
1.2.2.3. Nguyên tắc khoa học
Nội dung của nguyên tắc khoa học và tiến bộ của hoạt động phịng ngừa tình
hình tội phạm thể hiện ở chỗ các biện pháp phòng ngừa, tổ chức hệ thống phòng
ngừa, các chủ thể phòng ngừa phải được xây dựng có khoa học, tức là có cơ sở lý
luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh với tội phạm, mang tính
chất đồng bộ, có hệ thống đạt hiệu quả cao.

1.2.2.4. Nguyên tắc đại chúng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì quần chúng là sức mạnh vĩ đại,
là người chủ của xã hội. Chỉ khi có quần chúng được lơi cuốn tham gia vào hoạt
động phịng ngừa tội phạm thì mới hồn thành nhiệm vụ vẻ vang đó.
Ngun tắc đại chúng chính là việc lơi cuốn được đơng đảo quần chúng nhân
dân lao động, các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần và toàn xã hội tham gia vào
hoạt động phịng ngừa tình hình tội phạm. Ngun tắc đó địi hỏi phải phát huy tinh
thần chủ động, tích cực sáng tạo của mọi chủ thể tham gia hoạt động phòng ngừa, để
tạo ra một hoạt động rộng lớn của xã hội.
I.2.2.5. Nguyên tắc quốc tế (Hợp tác quốc tế và phù hợp với quan điểm quốc
tế về phòng ngừa tội phạm)
Nguyên tắc quốc tế thể hiện ở chỗ các hoạt động phòng ngừa tội phạm phải
phù hợp với quan điểm của quốc tế về phòng ngừa tội phạm và xu hướng hoạt động
phòng ngừa của các nước trên thế giới, các chủ thể tiến hành phòng ngừa tội phạm
không ngừng nâng cao hợp tác quốc tế thể hiện qua việc ký kết các hiệp định hợp tác
song phương và đa phương, tổ chức học tập kinh nghiệm phòng chống tội phạm của
các nước bạn.


1.3. Nội dung và các biện pháp phịng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
Trên thế giới và cả ở Việt Nam cho đến nay, trong nhiều tài liệu cho thấy,
phòng ngừa tội phạm được phân loại theo một số hệ thống khác nhau, như: ChungRiêng; Cơ bản- Phái sinh; Ngăn chặn- Loại trừ hay Ngăn chặn- Đẩy lùi. Như vậy, sự
phân loại là có sự thống nhất và biện chứng, tức là phân đôi cái thống nhất để nhận
thức và thực hiện. Ở đây, trong Luận văn này, tư tưởng đó được áp dụng và kế thừa
quan điểm của Nhà nước ta được thể hiện tại Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày
12/05/2009, tức là lấy mục đích để phân loại.
Phịng ngừa tội phạm có hai bộ phận: Một bộ phận gồm các biện pháp tác động
vào nhân, được gọi là những biện pháp loại trừ (đẩy lùi) tội phạm; một bộ phận khác
gồm các biện pháp tác động vào quả, tức là phản ứng trực diện với hiện trạng (trạng
thái của tội phạm: Chưa xẩy ra; đang xẩy ra; đã xử lý về mặt hình sự) của THTP,

được gọi là những biện pháp ngăn chặn tội phạm.
Vì thế phịng ngừa tình hình các tội CĐTS được phân làm hai loại là ngăn chặn
và đẩy lùi các tội CĐTS.
1.3.1.

Nội dung và các biện pháp ngăn chặn tình hình các tội chiếm đoạt tài

sản
Với tư cách là một tạo phần của phịng ngừa tội phạm, ngăn chặn tội phạm
dưới góc độ tội phạm học được hiểu là một chỉnh thể hoạt động kiểm sốt và quản lý
xã hội vì mục đích ngăn ngừa các tội phạm hiện đang tiềm tàng trong xã hội, không
để cho chúng xảy ra, không cho chúng thực hiện được đến cùng và không để xảy ra
tái phạm.
* Ngăn chặn tội phạm tiềm năng
Những biện pháp ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra hay không để cho
hành vi phạm tội được thực hiện được hiểu là những biện pháp kiểm soát xã hội và
quản lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội tiềm tàng, người phạm
tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm tê liệt quá trình chuẩn bị
và thực hiện tội phạm. Hành vi ở đây là hành vi phạm tội đã được quy định trong


BLHS năm 1999, đã xảy ra nhiều lần trong thực tế những năm qua và nó đang sắp
xảy ra trong thời gian tới. Đối với trạng thái tội phạm chưa xảy ra, việc ngăn chặn tội
phạm phải bao hàm ba nhóm biện pháp: Một là nhóm biện pháp làm tê liệt quá trình
chuẩn bị và thực hiện hành vi phạm tội; hai là nhóm biện pháp quản lý người phạm
tội tiềm tàng; ba là nhóm biện pháp tác động vào các nạn nhân tiềm tàng của tội
phạm.
Thứ nhất, nhóm biện pháp làm tê liệt quá trình chuẩn bị và thực hiện hành vi
phạm tội. Những biện pháp này thực tế rất khác nhau, rất phong phú. Chủ thể thực
hiện các biện pháp này gồm có các cơ quan chuyên trách và toàn bộ người dân trong

xã hội, thực hiện các biện pháp tác động vào phương thức thực hiện tội phạm như
quản lý chặt chẽ những công cụ, phương tiện phục vụ cho việc gây án, và người dân
có ý thức chủ động can thiệp ngăn chặn trong những tình huống tội phạm có khả
năng xảy ra, thể hiện bằng việc báo Công an ngay khi thấy những dấu hiệu của việc
sắp có tội phạm xảy ra.
Thứ hai, nhóm biện pháp quản lý người phạm tội tiềm tàng. Những biện pháp
này đòi hỏi sự chung tay của cả cơ quan chức năng và người dân. Người phạm tội
tiềm tàng là những người chưa phạm tội trên thực tế nhưng có nhiều khả năng phạm
tội nếu không được quản lý. Những đối tượng có thể bị coi như người phạm tội tiềm
tàng là những người nghiện ma túy, khơng có nghề nghiệp ổn định, có thái độ lười
lao động, dễ bị kích động, dụ dỗ, hoặc những người đã từng phạm tội... Những người
này khả năng tự điều chỉnh hành vi để khơng phạm tội thường kém hơn người bình
thường, cộng thêm họ thường có hồn cảnh khó khăn, cuộc sống khơng ổn định, dễ
sa ngã. Vì vậy cần phải có những biện pháp quản lý, điều chỉnh để họ không phạm
tội.
Thứ ba, nhóm biện pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm. Nạn
nhân tiềm tàng của tội phạm là nhóm người có nhiều khả năng trở thành nạn nhân.
Như đối với nhóm tội CĐTS thì nạn nân tiềm tàng bao gồm những người như sau:
Người thích khoe vật chất, sơ hở hoặc chủ quan trong việc bảo vệ tài sản dễ trở


thành nạn nhân của các tội trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản; những người dễ tin
người, thiếu hiểu biết thì dễ trở thành nạn nhân của các tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Vì vậy cần có những biện pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm
để họ thay đổi thái độ về việc bảo vệ tài sản.
* Ngăn chặn tội phạm đang xay ra
Với tính cách là một bộ phận của phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học,
ngăn chặn tội phạm không phải chỉ có nghĩa và được áp dụng đối với tội phạm tiềm
tàng, tức là ở trạng thái chưa xảy ra mà nó cịn có nghĩa, cũng như được áp dụng
trong trường hợp tội phạm đang xảy ra. Ở thời điểm này, việc ngăn chặn tội phạm có

mục tiêu là khơng để cho tội phạm được thực hiện đến cùng. “Đến cùng” ở đây
nghĩa là về thời gian phạm tội ở hai quá trình:
Một là, quá trình phạm tội của một hành vi như cướp tài sản... Ngăn chặn ở
trường hợp này là chặn đứng hành vi phạm tội dang diễn ra, khơng để cho nó gây
thêm thiệt hại về tài sản, sức khỏe con người. Những biện pháp ngăn chặn ở trường
hợp này là sự phản ứng tức thì của xã hội đối với hành vi phạm tội đang diễn ra. Nó
phải được thực hiện bởi các chủ thể chuyên nghiệp như Công an, lực lượng tuần tra,
cơ quan, trực ban... chủ thể không chuyên nghiệp, tức là mọi người dân sở tại; trong
đó lực lượng Cơng an đóng vai trị quan trọng. Cần thiết phải thu hút được tính tích
cực của người dân trong trong công tác tố giác tội phạm. Có những biên pháp hỗ trợ
việc báo tin kịp thời của nhân dân như phổ biến số điện thoại đường dây nóng Cơng
an huyện, thị xã, thành phố đường dây nóng của cảnh sát (113), khen thưởng và nhân
rộng những tấm gương quần chúng báo tin quan trọng giúp ngăn chặn những tội
phạm đang xảy ra.
Hai là, chặn đứng q trình lặp lại của hành vi phạm tội, khơng để cho tội
phạm được thực hiện nhiều lần. Các biện pháp ngăn chặn đối với trường hợp này
phải là phát hiện sớm, tố giác ngay, khởi tố và xử lý kịp thời. Chủ thể của những
biện pháp này cũng không thể chỉ là lực lượng chuyên trách, mà phải có sự tham gia
tích cực, chủ động của mọi người. Bên cạnh những biện pháp như thanh tra, kiểm


×