Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Nâng cao kĩ năng tìm hiểu và phân tích các chi tiết nghệ thuật trong văn bản vợ chồng a phủ (SGK ngữ văn 12 tập 2, chương trình cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.42 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO KĨ NĂNG TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH CÁC CHI
TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG VĂN BẢN "VỢ CHỒNG A
PHỦ"
SGK Ngữ văn 12-Tập 2 (Chương trình Cơ bản)

Người thực hiện: Phạm Thị Hà
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ
văn

MỤC LỤC
0


MỤC LỤC
Mục

Nội dung

1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2


2.1
2.1.1
2.1.2

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Khái niệm chi tiết nghệ thuật
Đặc điểm của chi tiết nghệ thuật trong tác
phẩm tự sự
Cách cảm nhận chi tiết trong tác phẩm tự sự
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm
Một số chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong văn
bản Vợ chồng A Phủ
Chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xn
Chi tiết dịng nước mắt của A Phủ
Chi tiết nắm lá ngón
Chi tiết căn buồng Mị nằm
Chi tiết câu hát
Chi tiết sự xuất hiện của Mị

2.1.3
2.2
2.3

2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.4
2.4.1
2.4.2
2.4.3
2.5
3
3.1
3.2

Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đối với hoạt động giáo dục
Đối với học sinh
Đối với bản thân
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

1

Tran
g
2

2
2
2
2
3
3
3
3
3
4
5
5
5
6
6
7
8
9
9
9
10
10
10
11
11
12
13


1. MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài:
Khơng phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng
phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Hơn ai hết, tác giả những thiên
truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống, người được coi là “cánh chim báo
bão của cách mạng Nga”, “nhà văn của những người chân đất” là người hiểu rõ
tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Tương
quan đối lập trong câu nói trên đã khẳng định: Cái làm nên tầm vóc của nhà văn
khơng hẳn là quy mơ tác phẩm mà chính là “chi tiết” – yếu tố đôi khi được coi là
nhỏ, là vặt vãnh... Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà
còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời...của
nhà văn, nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Nhà văn chỉ
thực sự là “người thư kí trung thành của thời đại” (H.Balzac) khi anh ta có khả
năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa
chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất
sáng tạo của người nghệ sĩ mà cịn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người
cầm bút.
Nhận thấy vai trò quan trọng của các chi tiết nghệ thuật trong các tác phẩm
văn học như vậy cho nên người giáo viên cần dẫn dắt học sinh khám phá hết
được các giá trị của các chi tiết nghệ thuật – nơi gửi gắm quan niệm về con
người, về cuộc đời của nhà văn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Sự đổi mới trong quá trình giáo dục và giảng dạy luôn là
một yếu tố cần thiết. Hơn nữa một tác phẩm văn học ở mọi góc
độ tiếp cận ln có những cái hay, vẻ đẹp riêng. Giúp học sinh
cảm thụ tốt một tác phẩm là nhiệm vụ của một người giáo viên
dạy văn.
Với đề tài “Nâng cao kĩ năng tìm hiểu và phân tích các chi
tiết nghệ thuật trong văn bản: Vợ chồng A Phủ (Tơ Hồi)” chắc
chắn học sinh sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về cái hay cái đẹp của
một tác phẩm văn học. Đặc biệt chỉ với những chi tiết nhỏ bé

trong tác phẩm lại có thể mang nhiều ý nghĩa sâu sắc đến vậy.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Văn bản Vợ chồng A Phủ (Ngữ văn 12, tập 2, chương trình
cơ bản)
- Học sinh lớp 12 trường THPT Lang Chánh
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
2


- Nghiên cứu lí thuyết: Dựa trên việc đọc và tìm hiểu về Từ
điển Tiếng Việt…
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Điều tra khảo sát
ban đầu, điều tra khảo sát sau thực nghiệm. Kết quả điều tra
khảo sát có phân tích, đánh giá và so sánh.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức thực thực nghiệm và
đối chứng tại hai lớp lớp 12A6 và lớp 12A7
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Thực ra tìm hiểu chi tiết nghệ thuật trong một văn bản tự sự
không phải là một phạm trù mới mẻ, nhưng tìm hiểu như thế
nào và đã khai thác hết hay chưa, giáo viên có tạo được hứng
thú cho học sinh hay khơng; qua việc tìm hiểu các chi tiết đó
học sinh có cảm hết được cái hay cái đẹp của văn chương hay
không… thì đó mới là mức độ thành cơng của việc dạy học một
tác phẩm ngữ văn. Không phải rằng giáo viên cứ cung cấp đầy
đủ kiến thức cho học sinh từ giá trị nội dung đến giá trị nghệ
thuật, từ các nhân vật cho đến tình huống trong tác phẩm… là
xong nhiệm vụ. Văn học còn giúp bồi dưỡng tâm hồn của học
sinh, đi tìm vẻ đẹp trong văn chương cũng là góp phần phát
hiện và vun đắp tâm hồn của mỗi học trị.
Do đó trong q trình giảng dạy việc tìm hiểu và giúp học

sinh phân tích các chi tiết nghệ thuật sẽ giúp học sinh lĩnh hội
được nhiều hơn vẻ đẹp đa dạng của văn chương, được khám
phá từ nhiều góc cạnh chứ khơng đơn thuần là theo diễn biến
trình tự, cốt truyện hay nhân vật.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Khái niệm chi tiết nghệ thuật:
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, chi tiết nghệ thuật là
“Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và
tư tưởng” và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo
nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ
thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ
nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư
tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan
niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn
hoá nghệ thuật nhất định”
Sách giáo khoa ngữ văn 11 (bộ nâng cao) cho rằng chi tiết
nghệ thuật “là những biểu hiện cụ thể, lắm khi nhỏ nhặt, nhưng
lại cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng,
3


đồng thời cũng biểu hiện sự quan sát và nghệ thuật kể chuyện
của tác giả. Do đó chi tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa
tạo ra sức hấp dẫn, thú vị vừa bộc lộ ý nghĩa của chúng”.
2.1.2. Đặc điểm của chi tiết nghệ thuật trong tác
phẩm tự sự:
Tính tạo hình của chi tiết nghệ thuật: Hình tượng nghệ thuật
cụ thể, gợi cảm, sống động nhờ các chi tiết về môi trường,
phong cảnh chân dung, nội thất, cử chỉ, phản ứng nội tâm, hành

vi lời nói. Trong tác phẩm tự sự chi tiết có khả năng gợi ra hình
ảnh về sự vật, cảnh vật, con người… đặc biệt là vai trị khắc hoạ
tính cách nhân vật. Nhà văn sử dụng rất nhiều chi tiết- những
nét cụ thế để miêu tả ngoại hình, nội tâm, hành động của nhân
vật, cũng như cảnh vật, sự kiện có liên quan đến nhân vật đó.
Đan dệt hàng loạt các chi tiết với nhau mới có được một bức
tranh bằng ngơn ngữ có thể tạo nên một ấn tượng tương đối xác
định về nhân vật.
Như vậy chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác
phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức
chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thi
góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn lôi cuốn
người đọc là nhờ chi tiết.
Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan
niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết
được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm
sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ
đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn.
2.1.3. Cách cảm nhận chi tiết trong tác phẩm tự sự:
Hướng khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự xuất phát
từ đặc trưng của thể loại truyện ngắn. vì vậy giáo viên phải nắm
được đặc trưng của thể loại truyện ngắn. “Truyện ngắn là tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, phản ảnh
cuộc sống trong tỉnh khách quan của nó thơng qua con người,
hành vi và các sự kiện. Truyện ngắn đề cập đến hầu hết các
phương diện của đời sổng con người và xã hội. Nét nổi bật của
truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng”. “Nếu tiểu thuyết là
một đoạn của dịng đời thì truyện ngắn chỉ là mặt cắt của dòng
đời như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ. Chỉ liếc qua những
đường vân trên khoanh gỗ tròn kia dù trăm năm vẫn thấy cả

cuộc đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu).
4


Vì vậy, khi viết truyện ngắn, nhà văn phải có khả năng quan
sát sắc sảo, năng lực khái quát cao độ, để có thể phản ánh được
bản chất của con người và đời sống qua một hiện tượng, một
biến cố, một lát cắt. Nhà văn phải dồn nén hiện thực và tư
tưởng vào trong những chi tiết nghệ thuật có dung lượng ý
nghĩa lớn lao như “bàn tay xiết lại thành nắm đấm”
(Hemingway). Vì vậy yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện
ngắn là các chi tiết nghệ thuật.
Tuy nhiên, trong một truyện ngắn, không phải chi tiết nào
cũng “mang nhiều ẩn ý”, vì vậy địi hỏi chúng ta phải lựa chọn
được những chi tiết đắt giá, phân tích làm sáng tỏ ý nghĩa của
nó trong việc thể hiện hình tượng, chủ đề tác phẩm và tư tưởng
của tác giả. Hơn nữa, theo kinh nghiệm viết truyện ngắn của
Vương Trí Nhàn: “tồn truyện phải là một cái vịng khép kín,
khơng dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm
chí khơng thừa một chi tiết nào. Khi đã vào truyện cái xà tích
của một cơ gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải
có ý nghĩa, cái nọ nương tựa cải kia, chi tiết này soi rọi cho chi
tiết khác”. Các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm có quan hệ
máu thịt với nhau, cho nên khi phân tích chúng ta phải đặt chi
tiết đang tìm hiểu trong mối liên hệ khăng khít với các chi tiết
khác, trong chỉnh thê nghệ thuật toàn vẹn của tác phẩm.
Bước 1: Trước hết phải đọc kĩ văn bản để nắm cốt truyện, ý
đồ sáng tạo của nhà văn cùng với tư tưởng chủ đề của tác
phẩm.
Bước 2: Tìm những chi tiết đắt giá có vai trị: thúc đẩy sự

phát triển của cốt truyện; thể hiện số phận, phẩm chất, số phận
của nhân vật; thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm… Nếu
trong giảng văn người giáo viên không biết hướng dẫn học sinh
lựa chọn khai thác chi tiết tiêu biểu, quan trọng chắc chắn bài
giảng sẽ khơng có độ sâu. Bài viết văn của học sinh cũng vậy sẽ
không thực sự thuyết phục và để lại ấn tượng cho người đọc nếu
như khơng chọn, bình những chi tiết đặc sắc.
Bước 3: Phân tích cảm thụ, bình giá chi tiết về nội dung tư
tưởng và nghệ thuật
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm:
Trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên thường không chú
ý đến các chi tiết nghệ thuật, nếu có chú ý thì chú ý thì cũng chỉ
lựa chọn một hoặc hai chi tiết nghệ thuật tiêu biểu. Như vậy vô
5


tình sẽ làm mất đi vẻ đẹp riêng biệt của mỗi tác phẩm văn học.
Trong văn bản Vợ chồng A phủ có rất nhiều chi tiết nghệ thuật
đặc sắc mà nhiều giáo viên bỏ lỡ hoặc cho học sinh tìm hiểu
qua sơ sài. Trong đó thường thì giáo viên chỉ cho học sinh tìm
hiểu chi tiết “tiếng sáo trong đêm tình mùa xn” hoặc có
chăng thêm chi tiết “ơ cửa sổ nơi buồng Mị nằm”. Giáo viên vẫn
thường chỉ khai thác kiến thức theo cách truyền thống tìm hiểu
tác phẩm qua hai nhân vật Mị và A Phủ rồi kết hợp lồng ghép,
đan xen một vài chi tiết nghệ thuật. Với sáng kiến kinh nghiệm
này chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu các chi tiết nghệ thuật, góp
phần tăng khả năng cảm thụ tác phẩm văn học của học sinh và
giáo viên.
Kết quả khảo sát ban đầu:

Trung
Giỏi
Khá
Yếu
Đối tượng

bình
đối chứng
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12A6
11A7

38

1

2,6

8

21,
1


39

2

5,2 11

28,
2

27
21

71,
1

2

5,2

53,
8

5

12,
8

2.3. Một số chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong văn bản Vợ chồng A Phủ:
2.3.1. Chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân

Nằm ở phần giữa tác phẩm
- Tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, với những cung bậc khác nhau: khi
tiếng sáo lấp ló ngồi đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng, tiếng sáo
lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị , rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi
Ý nghĩa:
- Là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của miền núi cao Tây
Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen thuộc, gần gũi của núi rừng
trong những đêm xuân ở Hồng Ngài.
- Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay
với nỗi đời cơ cực của con người nơi đây, khiển mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ,
hoang vu trở nên gần gũi, thơ mộng.
- Diễn tả vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức
tâm hồn Mị, khiến lòng Mị thiết tha, bồi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang
6


thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng nàn của người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã
làm bừng lên khát vọng sống
- Chi tiết giàu chất thơ, lai láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bên trong tâm
hồn người
2.3.2. Chi tiết dòng nước mắt của A Phủ
- Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thổng lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho
đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài, còn Mị
sau bao năm bị đọa đày cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy
vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay, nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô
cảm. Đêm ấy, trong nỗi bất lực, bế tắc và hồn tồn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc,
đúng lúc đó, Mị nhìn sang và bắt gặp dịng nước mắt của A Phủ.
Ý nghĩa:
- Trực tiếp bộc lộ những cảm xúc: đau đớn, tuyệt vọng... trong hoàn cảnh

cùng đường của A Phủ
- Tạo ra bước ngoặt quan trọng trong tâm lí nhân vật Mị
- Thúc đẩy xung đột truyện lên đến cao trào, là đầu mối của một loạt những
hành động bất ngờ làm thay đổi cuộc đời các nhân vật, vừa tạo sự vận động,
phát triển của tính cách nhân vật vừa tạo sự vận động cho cốt truyện.
- Góp phần thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
- Thể hiện biệt tài phân tích tâm lí nhân vật của Tơ Hồi
2.3.3. Chi tiết nắm lá ngón
- Xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị - người
con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh.
- Mị - một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ - ngay trong đêm tình hội
xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cơ bị trói gơ như súc nơ, bắt về
nhà thống lí Pá Tra "cúng trình ma” như một món hàng. Người ta làm gì cuộc
đời cơ, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng trước mặt bố cơ
tun bố đã cúng trình ma, thơi thì cơ đã là người nhà thống lí mất rồi! Một cú
đánh ngã tự do, một cái rơi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh
xuống hố sâu của địa ngục - Nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than
và hít thở hơi mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhục đến tột cùng. Mị
sống không bằng chết, sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi "có áp
bức có đấu tranh”. Cơ tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện
lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất để
thốt khỏi cuộc sống nơ lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Tiếc rằng đây là lối thốt
để chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ khơng phải lối thoát để bước sang trang mới
của cuộc đời Mị. Bởi vậy, chi tiết “lá ngón” gián tiếp cho thấy sự độc ác của giai
cấp thống trị cũng như nỗi thống khổ của người dân lao động miền núi.
7


Quỳ lạy cha xong, nghe cha nói, Mị “bưng mặt khóc… ném nắm lá ngón
xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng”. Tự tìm đến lá ngón – độc

dược của rừng xanh – đã là sự can đảm của Mị. Nhưng ném đi độc dược để tiếp
tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục,
nhưng rồi lại thà sống nhục cịn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp
nơi người con gái trẻ.
- Lá ngón xuất hiện lần 2 khi tác giả nhận xét về cuộc sống của Mị trong
nhà thống lí Pá Tra sau khi cô cam chịu làm con dâu gạt nợ nhà giàu:
“Lần lần mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng khơng
cịn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ
rồi”
Lá ngón – cái chết giờ đây đã phai mờ trong tâm hồn Mị. Nếu như trước kia Mị
tìm đến lá ngón để phản kháng lại thực tại sống thì nay Mị bng xi, cam
chịu, khơng cịn ý thức đấu tranh. Đây là điều đáng lo ngại cho đời sống tinh
thần của Mị cũng chính là tội ác của giai cấp thống trị. Chúng dùng cường
quyền, thần quyền cột chặt người lao động vào kiếp đời nô lệ, áp chế họ về tinh
thần.
- Lần thứ 3: lá ngón xuất hiện trong ý thức của Mị vào đêm tình mùa xuân
Những đêm tình mùa xuân đã đến. Thiên nhiên rạo rực, tiếng sáo “thiết tha
bổi hổi” cộng thêm những bát rượu ấm, cay, nồng giúp Mị từ cõi quên trở về cõi
nhớ, từ vô thức dần lấy lại ý thức. Mị nhớ về quá khứ ngọt ngào, tự do, hạnh
phúc “Mị uốn chiếc lá trên môi thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu
người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị đau đớn nhận ra thực tại: hơn nhân
khơng có tình u “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết… A Sử với Mị
khơng có lịng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Sự đối lập nghiệt ngã giữa quá
khứ và hiện tại, giữa cuộc sống tự do và nô lệ thơi thúc Mị hướng đến sự giải
thốt. Làm thế nào để giải thốt?... Và lá ngón xuất hiện một lần nữa.
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy ứa nước mắt ra”.
Như vậy, lá ngón lần này xuất hiện với ý nghĩa về sự tự ý thức của Mị.
Vượt qua tình trạng sống phi thời gian trước đó, Mị đã ý thức được thời gian –
không gian sống, nỗi đau của kiếp đời nô lệ cả về thể xác và tâm hồn.

Ý nghĩa:
- Mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người
lương thiện đi tìm cái chết.
- Hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay,
đầy đau đớn và uất hận.
- Mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.
8


2.3.4. Chi tiết căn buồng Mị nằm:
- Căn buồng ấy kín mít, có ơ vng bằng bàn tay. Hình ảnh đó giàu sức gợi,
khiến người ta liên tưởng đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị.
Đó là một không gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của
đất trời Tây Bắc.
- Chân dung số phận khổ đau của đời Mị được nhà văn khắc họa thật rõ
nét: Mị sống câm lặng như đá núi "khơng nói”, lầm lụi, chậm chạp trợ lì như
"con rùa” quẩn quanh nơi có cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng mình là "con trâu
Con ngựa” - Nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất vả thì
hình ảnh "con rùa” có sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ
quên. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian: chỉ thấy trăng trắng không
biết là sương hay là nắng. Cuộc sống của Mị không có sắc màu, âm thanh,
khơng có cả ngắn dài thời gian, không chia biệt đêm ngày.
Ý nghĩa:
- Căn buồng ấy là biểu tượng cho ngục thất tinh thần, địa ngục trần gian
giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời Mị
- Nhà văn đã tố cáo sâu sắc chế độ cai trị miền núi đã đầy đọa con người,
làm tê liệt quyền sống, quyền khao khát hạnh phúc của họ
2.3.5. Chi tiết câu hát:
- Những câu hát này Mị khơng nghe trực tiếp, nó là lời Mị tự "nhẩm thầm”
khi nghe tiếng sáo. Và một điều không phải ngẫu nhiên: chúng đều là lời ca của

những người đang yêu hoặc đang đi tìm tình yêu, thể hiện khát vọng tình yêu đặc biệt là khát vọng tình yêu tự do (hãy chú ý từ thể chủ động: "ta đi tìm người
u, cơ gái khơng u có quyền từ chối bắt pao, cơ có quyền lựa chọn: "em u
người nào, em bắt pao nào”...). Trước khi về nhà thống lí, Mị từng có một thời
tuổi trẻ say mê theo tiếng sáo, theo lời hát. Và Mị đã từng yêu. Mị về nhà thổng
lí với thân phận con dâu gạt nợ, bị cầm tù trong một cuộc hôn nhân ép buộc: "A
Sử với Mị, khơng có lịng với nhau mà vẫn phải ở với nhau Chính những lời ca
đẹp cùng với tiếng sáo, chứ không phải chỉ bản thân tiếng sáo – đã gọi về quá
khứ hạnh phúc gắn với tình u, tuổi trẻ, từ đó thổi bùng dậy khao khát yêu và
sống trong tâm hồn Mị. Làm phép giả định ngược lại, nếu đó chỉ là những lời ca
buồn, tiếng than não nuột cho thân phận thì có thể nhận được đồng cảm nhưng
chưa chắc đã làm bừng lên khát vọng sống trong nhân vật.
– Ý nghĩa: cùng với tiếng sáo, những câu hát góp phần thúc đẩy, tạo bước
ngoặt trong diễn biến tâm lí của Mị. Chúng cũng tạo nên sắc thái trữ tình, chất
thơ cho tác phẩm. "Chất Tây Bắc” rất riêng của vợ chồng A Phủ không chỉ được
gợi ra từ cảnh sắc thiên nhiên, phong tục, Con người... mà cịn từ chính những
lời ca như thế.
9


2.3.6. Chi tiết sự xuất hiện của Mị:
- “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pa Tra thường trơng thấy có một cơ
con gái ngồi quay sợi gai bên tảng trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy,
dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên,
cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”
- Người con gái Tây Bắc đâu chỉ làm chỉ làm những công việc nhẹ nhàng
như “quay sợi gai”, dưới sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của bọn thực dân, chúa đất,
người con gái ở đây cịn phải làm những cơng việc nặng nhọc của cả đàn ơng.
Trong nhà thống lí Pá Tra, Mị chẳng những “quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi”, mà còn “cõng nước dưới khe suối lên”. “Cõng nước”, hai tiếng ấy gợi
ra cái tư thế khom lưng cúi người cõng ống nước to và nặng trên lưng. Phải

chăng công việc này đã khiến bờ lưng người đàn bà ngày càng cịng xuống,
dáng đi lom khom, vì thế mà “lúc nào cũng cúi mặt”. Song, ám ảnh nhất trong
đoạn văn này có lẽ là lúc nào "cơ ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
- Chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét.
Câu văn cũng như dài thêm ra để đọc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí của
Mị xuất hiện đã nói lên tất cả "ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa". Cịn
hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Sự hiện diện song song giữa “cô gái – tàu ngựa
– tảng đá” cho thấy sự ngang tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và
vô tri”. Hay đó cũng chính là ngụ ý của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương
thời. Cái thực tại xám xịt này là hệ luỵ của chế độ thực dân phong kiến thối tha,
là kết cục bi thương của con người lành tính. Mị – một cơ gái miền cao đang
tràn bung sức trẻ – ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu
hồng chấm dứt. Với cái cúi mặt và nét buồn rười rượi chứa đựng nhiều nỗi vất
vả, người đọc như xót xa, cảm thơng cho nhân vật nhưng cũng khơng khỏi tị mị
về cuộc đời của người phụ nữ ấy.
2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm:
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
Chúng ta thấy rất rõ một điều rằng giáo dục nhân cách cho học sinh qua
mỗi môn học là rất quan trọng, đặc biệt là môn Ngữ văn. Một phần do đặc thù
môn học mà mỗi tác phẩm mang lại cho người đọc, những chân lí, những bài
học đều rất bổ ích và lí thú, đặc biệt hơn cả đó cịn là vẻ đẹp của văn chương.
Không thể phủ nhận sức mạnh của văn chương tác động, ảnh hưởng đến tâm
hồn của con người, đặc biệt là lứa tuổi học sinh đang hình thanh tính cách, lối
sống, đang dần hồn thiện nhân cách. Do vậy truyền tải được một phần nào đó
cái tận Thiện, tận Mĩ, cái cao cả của tâm hồn là một thanh cơng rất lớn của
người giảng dạy. Đó cũng là những thông điệp mà người dạy muốn truyền tải
đến cho học sinh
10



2.4.2. Đối với học sinh:
Được tiếp nhận một tác phẩm quen thuộc theo một phương pháp mới, học
sinh hào hứng hơn, tích cực, chủ động hơn. Nó khơng chỉ cịn là câu chuyện về
cuộc đời của một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp nhưng bất hạnh hay cuộc
đời của một chàng trai khỏe mạnh, lao động giỏi, dũng cảm mà cuối cùng lại trở
thanh người đi ở không cơng cho nhà thống lí Pá Tra nữa. Mà đó là sự kì diệu
của văn chương, là sức mạnh của ngơn từ tác động đến nhận thức của học sinh.
Góp phần giáo dục học sinh luôn biết trân trọng cuộc sống, sống hết mình và
khơng cúi đầu trước cái xấu, cái ác.
2.4.3. Đối với với bản thân:
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, sáng kiến kinh nghiệm giúp tơi
có được một tiết dạy bổ ích, người dạy hào hứng, người học thích thú, tị mị.
Việc đổi mới bài dạy luôn là một yếu tố cần thiết đặc biệt theo hướng phát huy
tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh. Để có được điều đó thì trước hết
người giáo viên phải sáng tạo trước đã.
Trải qua một q trình nghiên cứu tìm tịi từ tài liệu, từ đồng nghiệp, tơi đã
hình thành cho mình cũng như đồng nghiệp “ cẩm nang” mới về khai thác một
tác phẩm văn học gợi lên sự hứng thú của học sinh với văn học.
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Vận dụng các phương pháp đã nghiên cứu vào thực tế giảng dạy tác phẩm,
tôi thấy kết quả khả quan hơn so với phương pháp trước đây. Cụ thể:
- Tiết học sinh động hơn, khơi gợi được hứng thú học tập của học sinh.
- Học sinh ghi nhớ nội dung bài học sâu sắc hơn.
- Học sinh đã cảm nhận được, hiểu được bài học cuộc sống, ý nghĩa giáo
dục những điều mà tác giả dân gian gửi gắm.
- Tác phẩm văn học dân gian đã thực sự sống trong lòng các em.
Khảo sát đối với lớp trực tiếp dạy: lớp 12A6. Sĩ số: 38 học sinh
Qua khảo sát, tôi nhận thấy 100% học sinh tiếp thu bài học tốt, những kiến
thức tích hợp từ các mơn khác giúp học sinh khắc sâu, ghi nhớ nội dung thông
tin bài học. Kết quả cụ thể như sau:

Trung
Giỏi
Khá
Yếu
Số
Đối
bình
lượng
tượng
SL % SL % SL
%
SL %
Lớp thực
13,
44,
nghiệm
38
5
17
16 42,1
0
0
2
7
12A6
Lớp đối chứng
28,
7,
39
2

5,1 11
23
60
3
12A7
2
6
11


Căn cứ vào kết quả tổng hợp ở bảng trên, so sánh kết quả
bài làm của HS lớp thực nghiệm và lớp đối chứng chúng tôi rút
ra một số kết luận như sau:
- Tỉ lệ HS hiểu sâu sắc các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, hiểu
hình tượng nhân vật Mị, A Phủ của các lớp thực nghiệm (13,2%)
cao hơn lớp đối chứng (5,1%).
- Tỉ lệ HS nắm bắt các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, hiểu
hình tượng nhân vật Mị và A Phủ của các lớp thực nghiệm
(44,7%) cao hơn lớp đối chứng (28,2%).
- So với lớp đối chứng, tỉ lệ HS hiểu chưa sâu sắc, mức độ
trung bình ở lớp thực nghiệm có giảm từ 5,2% xuống 0%..
Tuy kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng chênh
lệch khơng nhiều, nhưng nó giúp chúng tơi có cơ sở để có thể
khẳng định hiệu quả của việc vận dụng tinh thần phôn cơ lo
trong giảng dạy chuyện cổ tích Tấm cám nói riêng và Văn học
dân gian Việt Nam nói chung. Tuy nhiên qua q trình giảng
dạy, thấy được sự hào hứng tích cực tham gia xây dựng bài của
học sinh, q trình thảo luận nhóm diễn ra sôi nổi, học sinh chủ
động làm việc... phần nào cho thấy được tính khả thi của sáng
kiến, cho dù sáng kiến chỉ là một kiến giải nhỏ trong việc tạo

tính chủ động tích cực cho học sinh.
3. KẾ LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Dạy học và đổi mới dạy học là một nhiệm vụ vô cùng quan
trọng, việc tạo ra một tiết học thu hút sự chú ý của học sinh là
thành công của giáo viên giảng dạy. Với việc dựa trên kiến thức
lí luận về chi tiết nghệ thuật, nhận thấy được giá trị của các chi
tiết nghệ thuật đối với quá trình sáng tạo của mỗi nhà văn và
đưa được thơng điệp đó đến với người đọc, đặc biệt là các em
học sinh là cả một sự nỗ lực và tâm huyết của người dạy.
Trong quá trình dạy tuy còn gặp phải một số trở ngại như
năng lực tiếp thu của học sinh, ý thức tự học chưa cao…nhưng
nhìn chung sáng kiến đã đem lại những kết quả mong đợi.
3.2. Kiến nghị:
Đối với nhà trường có thể phối hợp với các tổ chuyên môn
tổ chức các hoạt động ngoại khóa theo chủ đề văn học. Khơng
12


chỉ giới hạn ở một vài thể loại mà còn với nhiều thể loại khác
nữa nhằm tạo cho học sinh một sân chơi bổ ích lí thú.
Hoặc cũng có thể tổ chức cho học sinh xem một số video về
sinh hoạt văn hóa ở miền núi Tây Bắc trong sự tương quan so
sánh phong tục tập quán ở các huyện miền núi Lang Chánh…
Đồng thời tạo mọi điều kiện để giáo viên có thể mạnh dạn
đổi mới những tiết dạy để làm cho mỗi tiết học trở nên phong
phú hơn.
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2021

XÁC NHẬN

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN
VỊ

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.

TÁC GIẢ

Phạm Thị Hà

Nguyễn Đình Bảy

Tài liệu tham khảo
13


1. Trang Web: theki.vn
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Phan Trọng Luận (2000), Làm văn lớp 12 , Nxb Giáo dục.
4. Phan Trọng Luận (2008), Ngữ văn 12 tập hai, Nxb Giáo dục.
5. Phan Trọng Luận Trần Đình Sử (2008) Hướng dẫn thực hiện
chương trình sách giáo khoa lớp 12 mơn Ngữ văn, Nxb Giáo
dục
6. Phan Trọng Luận (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng môn Ngữ văn 12, Nxb Đại học Sư phạm.
7. Vương Trí Nhàn, Kinh nghiệm viết truyện ngắn, Nxb Tác phẩm
mới
8. Phan Ngọc Thu (2001) Để hiểu thêm một số tác giả, tác

phẩm Văn học hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.
9. Nguyễn Quang Thiều (2000), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb
Trẻ.
10. Nguyễn Quang Trung (1999) Phân tích bình giảng tác
phẩm văn học 12, Nxb Giáo dục.

14



×