Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Một số giải pháp đẩy nhanh quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện lương sơn tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980 KB, 132 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu:
Ở Việt Nam, quá trình đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã được bắt đầu từ năm 1988 bằng
Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị ngày 5/4/1988. Q trình đổi mới cơ chế
quản lý nông nghiệp đã thu được nhiều thành công lớn, đưa Việt Nam từ quốc
gia thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn và mở rộng ra xuất
khẩu nhiều loại nông sản khác như chè, cao su, điều, tiêu, cà phê, các mặt
hàng thuỷ sản…
Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ rằng “Nông nghiệp – Nông dân – Nông
thôn” là 3 mấu chốt trong chính sách “Tam nơng” hiện nay ở Việt Nam. Việc
xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm và đẩy mạnh thực hiện nhằm rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và
nông thôn, mang lại đời sống vật chất và tinh thần no ấm-bình đẳng-tiến bộ
cho người dân nơng thơn. Điều đó đã được cụ thể hố bằng rất nhiều định
hướng, chính sách như: Nghị quyết số 26-NQ/TW của hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt nam khố X đã xác định quan điểm chỉ
đạo “Nơng nghiệp, nơng thơn và nơng dân có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế xã hội bền vững, gìn giữ ổn định chính
trị, đảm bảo an ninh quốc phịng, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Nơng
dân là chủ thể của q trình phát triển; xây dựng nơng thơn mới là căn bản,
phát triển tồn diện, hiện đại hố nơng nghiệp là khâu then chốt”.
Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, trong đó có ghi lập chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM). Ngày 21 tháng 6
năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ



2

tiêu chí quốc gia nơng thơn mới. Để triển khai nghị quyết này, Bộ
NN&PTNN đã ban hành thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009
hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về NTM. Đồng thời ngày 04/6/2010
Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020 với mục tiêu đến
2015: 20% số xã đạt tiêu chí NTM và 2020: 50% số xã đạt NTM. Đồng thời
xác định 11 nội dung và phân công trách nhiệm cụ thể cho bộ, ngành trung
ương, UBND các tỉnh (TP), UBND các huyện (TX) và UBND các xã chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện.
Xây dựng nông thôn mới được xác định là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của ngành Nông nghiệp và PTNT tỉnh Hịa Bình. Tỉnh ủy Hịa Bình
đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 07/6/2011 về xây dựng nông thơn
mới tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020. Qua 4
năm thực hiện ban chỉ đạo 800 của tỉnh Hịa Bình đã đạt được 1 số kết quả
như: 100% số xã, huyện, thành phố hoàn thành Đề án, 33 xã đăng ký về đích
năm 2015 hồn thành đề án phát triển sản xuất, 100% số xã hoàn thành công
bố quy hoạch và cắm mốc quy hoạch, mỗi huyện, thành phố xây dựng được
từ 1 đến 2 thôn, bản kiểu mẫu... Đó là kết quả đạt được của chương trình xây
dựng NTM của tỉnh Hịa Bình nói chung, cịn huyện Lương Sơn qua 4 năm
thực hiện thì huyện cũng đã đạt được những kết quả bước đầu, toàn huyện đã
hoàn thành hệ thống quản lý từ huyện đến thôn, bản theo hướng dẫn của
Trung ương, của tỉnh; công tác tuyên truyền, đôn đốc, giám sát việc thực hiện
chương trình được các cấp, ngành quan tâm hơn; nhận thức của cán bộ, Đảng
viên và nhân dân về chương trình có sự chuyển biến tích cực theo lời chỉ đạo:
“Dựa theo nội lực của dân và cộng đồng là chính, Nhà nước hỗ trợ chủ yếu
qua các Chương trình mục tiêu quốc gia, thực hiện phương châm Nhà nước
và nhân dân cùng làm”. Trong 4 năm thực hiện chương trình, số tiêu chí đạt



3

chuẩn xây dựng nông thôn mới các xã đạt được khá, đặc biệt là 5 xã phấn đầu
về đích vào năm 2015, có 8 xã đạt từ 10-14 tiêu chí.
Trong giai đoạn tiếp theo, việc thực hiện xây dựng nông thơn mới có
thể phải đối mặt với nhiều khó khăn như nguồn lực đầu tư cho nơng thơn mới
cịn hạn chế, trong chỉ đạo thực hiện thì một số địa phương tập trung nguồn
lực cho các xã điểm mà không làm đồng đều ở tất cả các xã. Một số tiêu chí
khó đạt như cơ sở hạ tầng văn hóa, giao thông, môi trường vẫn là vấn đề
nhiều thách thức, sản xuất chưa bền vững vì chưa có tổng kết, đánh giá tính
hiệu quả, hợp lý của các mơ hình kinh tế để nhân rộng. Do đó vấn đề xây
dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2016-2020 của huyện là vấn cần đặc biệt
quan tâm; theo đó các ngành và từng địa phương tập trung đầu tư cho cơ sở
hạ tầng thiết yếu như thế nào? Làm sao để phát triển sản xuất gắn với tái cơ
cấu ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho người dân, xử lý rác thải môi
trường... để thực hiện thành công nông thôn mới trên tồn huyện?
Trong tiến trình thực hiện xây dựng NTM ở các địa phương vẫn còn tồn
tại nhiều vấn đề dẫn đến một số tiêu chí rất khó đạt được trong khi nguồn lực
đầu tư từ nhà nước rất hạn chế, chưa thu hút được sự tham gia của người dân
và toàn xã hội. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của huyện và để có thể giúp
huyện sớm giải quyết được những khó khăn trong việc thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Một
số giải pháp đẩy nhanh quá trình thực hiện chương trình xây dựng nơng
thơn mới trên địa bàn huyện Lương Sơn – tỉnh Hịa Bình”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng về kết quả tổ chức thực hiện
chương trình xây dựng nơng thơn mới giai đoạn 2011-2015, chỉ ra những
nhân tố ảnh hưởng và đề xuất các giải pháp đẩy nhanh quá trình xây dựng



4

nông thôn mới của huyện cho giai đoạn 2016-2020 tại huyện Lương Sơn, tỉnh
Hịa Bình.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nơng thơn mới;
- Phân tích và đánh giá thực trạng về kết quả xây dựng nông thôn mới
cho giai đoạn 2011 – 2015 tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình;
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng chính đến kết quả xây dựng nông thôn
mới cho giai đoạn 2011 – 2015 tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình;
- Đề xuất các giải pháp đẩy nhanh quá trình thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nơng thơn mới tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình
giai đoạn 2016-2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Q trình thực hiện chương trình xây dựng nơng thơn mới của huyện
Lương Sơn - tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2011-2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về thời gian: giai đoạn 2011 – 2014, khảo sát 2015
- Phạm vi về khơng gian: Huyện Lương Sơn – tỉnh Hịa Bình
- Phạm vi về nội dung: Các vấn đề liên quan đến việc tổ chức thực hiện xây
dựng NTM trên địa bàn huyện Lương Sơn – Hịa Bình
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về nơng thơn mới (Các khái niệm có liên
quan, tổng quan về hệ thống các văn bản chính sách có liên quan đến nông
thôn mới, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu sử dụng trong đề tài nghiên cứu, các
bài học kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới trên thế giới và Việt Nam, tổng
quan về các nghiên cứu trước đây có liên quan đến nơng thơn mới, xây dựng

khung phân tích của đề tài nghiên cứu);


5

- Thực trạng về kết quả xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015
tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình;
- Các nhân tố chính ảnh hưởng đến kết quả xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2011-2015 tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình;
- Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của huyện Lương
Sơn trong quá trình xây dựng nơng thơn mới;
- Các giải pháp đề xuất nhằm đẩy nhanh chương trình xây dựng nơng
thơn mới tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2016-2020.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, kiến nghị, luận văn bao gồm 3
chương chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về nông thôn mới
Chương II: Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
Chương III: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÔNG THƠN MỚI
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng nơng thôn mới
1.1.1. Các khái niêm liên quan
1.1.1.1. Nông thôn
Khái niệm “nơng thơn” thường đồng nghĩa với làng, xóm, thơn…Trong

tâm thức người Việt, đó là một mơi trường kinh tế sản xuất với nghề trồng lúa
nước cổ truyền, không gian sinh tồn, khơng gian xã hội và cảnh quan văn hố
xây đắp nên nền tảng tinh thần, tạo thành lối sống, cốt cách và bản lĩnh của
người Việt.
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có định nghĩa chuẩn xác về nơng thơn,
cịn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu
trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, có nghĩa vùng nơng thơn có cơ sở hạ
tầng không phát triển bằng vùng đô thị. Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa
vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường, phát triển hàng hố để xác định vùng
nơng thơn vì cho rằng nơng thơn có trình độ sản xuất hàng hố và khả năng
tiếp cận thị trường so với đô thị là thấp hơn. Cũng có ý kiến nên dùng chỉ tiêu
mật độ dân cư và số lượng dân trong vùng để xác định. Theo quan điểm này,
vùng nơng thơn thường có số dân và mật độ dân thấp hơn vùng thành thị.
Một quan điểm khác nêu ra, vùng nơng thơn là vùng có dân cư làm nông
nghiệp là chủ yếu, tức là nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là từ sản
xuất nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể
của từng nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế áp
dụng cho từng nền kinh tế. Ðối với những nước đang thực hiện cơng nghiệp
hố, đơ thị hố, chuyển từ sản xuất thuần nông sang phát triển các ngành
công nghiệp và dịch vụ, xây dựng các khu đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ rải rác ở
các vùng nông thơn thì khái niệm về nơng thơn có những đổi khác so với


7

khái niệm trước đây. Có thể hiểu nơng thơn hiện nay bao gồm cả những đô
thị nhỏ, thị tứ, thị trấn, những trung tâm cơng nghiệp nhỏ có quan hệ gắn bó
mật thiết với nơng thơn, cùng tồn tại, hỗ trợ và thúc đẩy nhau phát triển.
Các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển đều phân các vùng
lãnh thổ của mình thành hai khu vực là thành thị và nông thôn. Sự khác nhau

căn bản giữa nông thôn và đô thị được phản ánh rõ nét trong những nguyên lý
của xã hội học nông thôn – đô thị. Trong đó những tiêu chí quan trọng giúp
cho việc phân biệt khu vực nông thôn và khu vực đô thị bao gồm: sự khác
nhau về nghề nghiêp, về môi trường, quy mơ cộng đồng, mật độ dân số, tính
hỗn tạp và thuần nhất của dân số, hướng di cư, sự khác biệt xã hội và phân
tầng xã hội, hệ thống tương tác trong từng vùng [13]
Nông thôn là vùng khác với thành thị ở chỗ ở đó cộng đồng chủ yếu là
nơng dân sinh sống và làm việc, có mật độ dân cư thấp, có cơ cấu hạ tầng
kém phát triển hơn, có trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp
hơn. [11]
Nơng thơn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố,
thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.
[6]
Như vậy, khái niệm về nơng thơn chỉ có tính chất tương đối, thay đổi
theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên
thế giới. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản
lý, có thể hiểu nơng thơn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có
nhiều nơng dân với sản xuất nơng nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Sự khác biệt về
công tác quản lý giữa nông thôn và thành thị trên thực tế, nông thơn với cấp
quản lý xã, thơn, bản; cịn thành thị với cấp quản lý phường, thị trấn.


8

1.1.1.2. Nông thôn mới
Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đưa ra
mục tiêu: “Xây dựng nơng thơn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông

thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nơng thơn dưới sự lãnh
đạo của Đảng được tăng cường”.
Như vậy, nông thôn mới trước tiên phải khác nông thôn truyền thống
hiện nay: là làng xã văn minh, sạch đẹp, cơ sở hạ tầng hiện đại, sản xuất phát
triển bền vững, đời sống của người nông dân được nâng cao, phù hợp với nhu
cầu của con người, với xu thế phát triển nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa
dân tộc và an ninh quốc phịng được đảm bảo.
1.1.1.3. Xây dựng nông thôn mới
a. Phát triển nông thôn
Ngân hàng thế giới đã đưa ra định nghĩa: Phát triển nông thôn là một
chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện sống về kinh tế và xã hội của một
nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng nơng thơn. Nó giúp những người
nghèo nhất trong những người dân sống ở các vùng nơng thơn được hưởng lợi
ích từ sự phát triển.
Phát triển nông thôn là một quá trình cải thiện có chú ý một cách bền
vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và mơi trường nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân nông thôn. Q trình này trước hết là do chính người
dân nơng thơn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác.
Phát triển nông thôn bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội nơng thơn
với tốc độ cao, là q trình làm tăng mức sống của người dân nông thôn. Phát


9

triển nông thôn phù hợp với nhu cầu của con người, đảm bảo sự tồn tại bền
vững và sự tiến bộ lâu dài trong nơng thơn. Sự phát triển đó dựa trên việc sử
dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên mà vẫn bảo đảm giữ gìn mơi trường
sinh thái nơng thôn. Phát triển nông thôn đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay
nhưng không làm cạn kiệt tài nguyên, không để lại hậu quả cho thế hệ tương

lai [12]
Để phát triển bền vững nông thôn, phải đồng thời các giải pháp về kinh
tế, xã hội và môi trường. Về kinh tế cần tập trung đầu tư cho phát triển kết cấu
hạ tầng nông thôn, kiến trúc nông thôn, cung cấp thông tin, áp dụng công
nghệ để tăng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông thôn. Về xã hội, phải phát
triển tổ chức xã hội theo hướng tăng cao vai trị và sự tham gia của cư dân
nơng thơn. Cần chấp nhận nền kinh tế nơng thơn có hộ nơng dân, trang trại và
các doanh nghiệp phát triển ở các mức độ khác nhau, thậm chí cả nơng dân
khơng đất. Tôn trọng và tạo điều kiện cho thị trường sức lao động, thị trường
đất đai và thị trường khoa học công nghệ phát triển. Về môi trường, cần bảo
tồn tài nguyên đất, nước và sinh vật, thực hiện quản lý tốt môi trường nông
thôn [5]
b. Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nơng thơn mới là chương trình mục tiêu Quốc gia, được triển
khai trên địa bàn cấp xã trong phạm vi cả nước, nhằm phát triển nơng thơn
tồn diện theo hướng hiện đại [6]
Chương trình xây dựng nơng thơn mới với mục tiêu: Nơng nghiệp phát
triển theo hướng tồn diện theo hướng hiện đại; Người nơng dân có đời sống
vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao và nông thơn có hạ tầng kinh tế
xã hội hiện đại. Ba nội dung này có quan hệ trực tiếp và mật thiết: (1) Hạ tầng
kinh tế - xã hội hiện đại là cơ sở để phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời
sống tinh thần cho người dân; (2) Nông nghiệp phát triển góp phần tạo việc


10

làm, nâng cao thu nhập cho người dân; (3) Nông dân chính là chủ thể và có
vai trị chính thực hiện 2 nội dung trên. Như vậy, xây dựng nông thôn mới là
đầu tư và tạo nền tảng để phát triển ”tam nơng” bền vững. Nội dung của
Chương trình được cụ thể 19 tiêu chí với các nội dung: (1) Quy hoạch, hạ

tầng, kinh tế, xã hội; (2) Kinh tế và tổ chức sản xuất; (3) Văn hóa, xã hội và
mơi trường; (4) Hệ thống chính trị. Địa phương được cơng nhận đạt chuẩn
phải đáp ứng đủ 19 tiêu chí và như vậy đảm bảo quá trình phát triển theo
hướng bền vững đảm bảo phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ
xã hội và bảo vệ môi trường.
Như vậy, xây dựng nơng thơn mới là q trình xây dựng kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, mơi trường nông thôn nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống người dân nơng thơn, phát triển hài hịa, rút ngắn khoảng cách giữa
thành thị với nơng thơn. Q trình xây dựng với vai trị chủ thể là người dân
nơng thơn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác.
Quan niệm về nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới:
(1) Đảm bảo cho nông thôn phát triển tồn diện khơng những về kinh tế
mà cả các mặt về chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường
(2) Đảm bảo sự phát triển trước mặt nhưng ổn định và bền vững về lâu dài;
(3) Các mục tiêu về xây dựng nơng thơn mới ngày càng hồn thiện
nhưng từng giai đoạn phải đạt được những mục tiêu cụ thể nhất định.
1.1.1.4 Đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới.
Đẩy nhanh là quá trình thực hiện thật tốt những việc đã làm và chuẩn bị
những việc tiếp theo phải làm tốt hơn. Đẩy nhanh trong XD nông thôn mới là
hoàn thành đúng thời gian nhưng phải đẩm bảo chất lượng, không ngừng
nâng cao sự hiểu biết của người dân chứ không phải cứ phải nhanh về tiến độ.
Thực chất nó là việc tạo sự tin tưởng cho người dân đólà q trình phức tạp
để tự người dân đưa ra ý kiến của mình vào từng cơng việc và tự thực hiện


11

cơng việc đó dưới sự dẫn dắt của các cán bộ trong ban chỉ đạo nông thôn mới
từ cấp huyện, xã, thôn.
1.1.2. Các nôi dung và nguyên tắc xây dựng nơng thơn mới

1.1.2.1. Một số đặc trưng của mơ hình nơng thơn mới
- Đơn vị cơ bản của mơ hình nông thôn mới là làng - xã. Làng - xã là
một cộng đồng, trong đó quản lý của Nhà nước và tự quản của nơng dân được
kết hợp hài hịa, các giá trị truyền thống của làng - xã được phát huy tối đa,
tạo ra bầu khơng khí tâm lý xã hội tích cực, bảo đảm trạng thái cân bằng trong
đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn, giữ vững an ninh trật tự xã hội… nhằm
hình thành môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nơng thơn.
- Đáp ứng u cầu thị trường hóa, đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần giúp nông dân yên tâm
làm ăn sinh sống và ngày một thịnh vượng hơn trên chính nơi họ đã gắn bó
lâu đời.
- Có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, môi trường sinh thái được giữ
gìn, tiềm năng du lịch được khai thác, làng nghề truyền thống, làng nghề tiểu
thủ công nghiệp được khôi phục, ứng dụng khoa học công nghệ cao trong
quản lý cũng như sản xuất….
- Các chủ thể nông thôn (lao động nông thôn, chủ trang trại, hộ nông
dân, các tổ chức phi chính phủ…) có khả năng, điều kiện và trình độ để tham
gia tích cực vào các q trình ra quyết định về chính sách phát triển nông
thôn… Người nông dân thực sự được tự do và quyết định trên luống cày và
thửa ruộng của mình, lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh làm giàu cho
mình, cho quê hương theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
- Nơng dân, nơng thơn có văn hóa phát triển, dân trí được nâng lên, sức
lao động được giải phóng. Người nơng dân có cuộc sống ổn định, giàu có,


12

trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật và tay nghề cao, lối sống văn minh hiện
đại nhưng vẫn giữ được những giá trị văn hóa, bản sắc truyền thống dân tộc…

1.1.2.2. Nội dung chủ yếu của chương trình nơng thôn mới.
Xây dựng NTM là biểu hiện cụ thể của phát triển nơng thơn nhằm tạo ra
một nơng thơn có kinh tế phát triển, có đời sống về vật chất văn hố và tinh thần
tốt, có bộ mặt nơng thơn hiện đại bao gồm cả cơ sở hạ tầng phục vụ tốt cho sản
xuất, phục vụ tốt cho đời sống và văn hóa của người dân, đẩy mạnh dân chủ hố ở
nơng thơn và nâng cao vai trị của cộng đồng trong những quyết định về phát triển
sản xuất, phát triển văn hố - xã hội và có các tiêu chí phù hợp với điều kiện của
từng vùng, miền. Ở khu vực miền núi phía bắc cần đạt được những u cầu chủ
yếu theo 19 tiêu chí của chương trình nơng thơn mới. Trong đó được chia ra thành
5 nhóm nội dung cụ thể như sau:
a. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch
Đây là tiêu chí cần triển khai đầu tiên để chuẩn bị cho các tiêu chí khác thực
hiện, tiêu chí này bao gồm: Coi trọng cơng tác giáo dục nhằm tạo tiền đề cho
việc nâng cao chất lượng lao động, thực hiện an sinh xã hội: giảm tỷ lệ hộ
nghèo, phát triển y tế để chăm sóc sức khỏe cho dân cư nông thôn. Xây dựng
đời sống văn hóa, thơng tin và truyền thơng nơng thơn, xây dựng các cơng
trình bảo vệ mơi trường nơng thơn trên địa bàn xã, thôn theo quy hoạch, gồm:
xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thốt nước trong thơn, xóm; Xây
dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải ở các xã; Chỉnh trang, cải tạo nghĩa
trang; Cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư, phát triển cây
xanh ở các cơng trình cơng cộng….
b. Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội.
Cùng với việc hồn thiện giải pháp về quy hoạch thì phát triển cơ sở hạ
tầng sẽ giúp thay đổi bộ mặt của nông thôn, tạo cơ sở cho phát triển kinh tế,
nâng cao thu nhập. Hiện nay, cơ sở hạ tầng ở nhiều vùng nơng thơn vẫn cịn


13

nghèo nàn, thiếu thốn, đường giao thơng đi lại khó khăn, các cơng trình cơng

cộng như: trường học, thủy lợi, điện, nhà văn hóa, chợ, trạm y tế… chưa đảm
bảo để phục vụ đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất của người dân. Do đó,
cần nhanh chóng hồn thiện cơ sở hạ tầng từng bước hiện đại nhưng vẫn giữ
gìn được phong cách truyền thống và phải phù hợp với thực trạng của từng địa
phương.
Bao gồm các tiêu chí về:
Giao thơng: Hồn thiện đường xã, trục thơn đường ngõ xóm sạch khơng lầy
lội vào mùa mưa và xây dựng đường trục chính nội đồng phần lớn được cứng hóa,
xe cơ giới đi lại thuận tiện.
Điện nơng thơn: Hồn thiện hệ thống các cơng trình đảm bảo cung cấp điện
phục vụ sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn.
Cơ sở vật chất văn hóa: Hồn thiện hệ thống các cơng trình phục vụ nhu cầu
về hoạt động văn hóa thể thao trên địa bàn.
Trường học: Hoàn thiện trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở có cơ
sở vật chất đạt chuẩn quốc gia.
Chợ nơng thơn: Xây dựng, hồn thiện chợ nông thôn đạt chuẩn của Bộ xây dựng.
Bưu điện: Xây dựng điểm phục vụ bưu chính viễn thơng đảm bảo cung cấp
dịch vụ Internet đến các thôn bản.
Thủy lợi: Cải tạo, xây mới xây mới hệ thống thủy lợi trên địa bàn, xây dựng
đê hoặc bờ bao chống lũ, hồn thiện các cơng trình tưới tiêu và kiên cố hóa kênh
mương.
Hồn chỉnh trụ sở xã: Trụ sở xã xây dựng ở nơi trung tâm, thuận tiện đối nội,
đối ngoại.
Nhà ở dân cư: Chỉnh trang các khu dân cư hiện có, xóa nhà tạm, dột nát, xây
dựng, hồn thành nhà ở nông thôn đạt tiêu chuẩn của Bộ xây dựng.
u cầu: đạt các tiêu chí 2,3,4,5,6,7,8,9 trong BTCQG nơng thôn mới.


14


c. Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất, nâng cao thu nhập
Đây là nội dung trọng tâm, mang tính cốt lõi của Chương trình xây dựng
nơng thơn mới, là nội dung khó thực hiện nhất và cần phải có thời gian, đặc
biệt là tiêu chí về thu nhập và cơ cấu lao động. Muốn tăng thu nhập thì phải
giảm tỷ lệ lao động trong nơng nghiệp (vì nước ta hiện nay bình qn một hộ
sản xuất nơng nghiệp chỉ có 0,61 ha đất sản xuất, vùng đồng bằng sơng Hồng
chỉ có 0,35 ha thì đưa cơng nghệ kiểu gì cũng khơng thể làm giàu được với
quy mơ như hiện nay) bằng cách đào tạo nghề để làm phi nông nghiệp và dần
dần rút bớt lao động trong nông nghiệp ra. Xây dựng NTM là phải làm cho
đời sống kinh tế của người dân giàu có hơn, đời sống văn hóa lành mạnh và
giữ gìn bản sắc dân tộc, chứ không phải xây dựng NTM chỉ với mục tiêu là
xây dựng cơ sở hạ tầng. Cần đạt tiêu chí số 10,11,12,13 trong BTCQG về nông
thôn mới với các nội dung:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nơng nghiệp theo hướng phát
triển sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao.
- Tăng cường cơng tác khuyến nông; đẩy nhanh nghiên cứu, ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông – lâm – nghiệp.
- Cơ giới hóa nơng nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất nông lâm – ngư nghiệp.
- Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống theo phương châm “mỗi làng
một sản phẩm”, phát triển làng nghề theo thế mạnh của địa phương.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đưa công nghiệp vào nông
thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nơng thơn.
- Thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo
Nghị quyết 30a của chính Phủ.
- Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo.
- Thực hiện an sinh xã hội.


15


- Phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các loại hình kinh tế ở nơng thơn.
d. Phát triển Văn hố - Xã hội - Môi trường
Bên cạnh việc đảm bảo đời sống vật chất thì đời sống tinh thần của
người dân cũng phải được quan tâm vì có như vậy thì mới xây dựng được
NTM bền vững. Nội dung này bao gồm: Coi trọng công tác giáo dục nhằm
tạo tiền đề cho việc nâng cao chất lượng lao động, thực hiện an sinh xã hội:
giảm tỷ lệ hộ nghèo, phát triển y tế để chăm sóc sức khỏe cho dân cư nơng
thơn. Xây dựng đời sống văn hóa, thơng tin và truyền thơng nơng thơn, xây
dựng các cơng trình bảo vệ mơi trường nông thôn trên địa bàn xã, thôn theo
quy hoạch, gồm: xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước trong
thơn, xóm; Xây dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải ở các xã; Chỉnh trang,
cải tạo nghĩa trang; Cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư,
phát triển cây xanh ở các công trình cơng cộng….Cần đạt tiêu chí số
14,15,16,17 của BTCQG về nông thôn mới với các nội dung:
- Giáo dục: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục
và đào tạo, duy trì phổ cập giáo dục, nâng cao tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học
cơ sở tiếp tục học trung học phổ thông và đẩy mạnh đào tạo nghể.
- Y tế: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế, nâng cao
tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế.
- Về văn hóa. Phấn đấu các xã có thơn, bản đạt tiêu chuẩn “Làng văn hóa"
- Về mơi trường: Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn.
e. Củng cố và xây dựng hệ thống chính trị xã hội vững mạnh
Trong q trình đơ thị hóa sẽ xuất hiện nhiều ý kiến cũng như hành động
trái chiều, đi ngược lại quy định. Do đó, cần ban hành nội quy, quy ước làng


16


xóm về trật tự, an ninh; Phịng, chống các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu.
Điều chỉnh và bổ sung chức năng, nhiệm vụ và chính sách tạo điều kiện cho lực
lượng an ninh xã, thơn, xóm hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự xã hội
trên địa bàn theo yêu cầu xây dựng nông thơn mới.
Cần đạt tiêu chí 18 và 19 trong BTCQG về nông thôn mới, bao gồm các nội
dung cơ bản là: Củng cố và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị các cấp; đảm bảo an ninh quốc phịng và trật tự an tồn xã hội, chống các
hủ tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội.
1.1.2.3. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
- Các nội dung, hoạt động của Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới phải hướng tới mục tiêu thực hiện 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới ban hành tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4
năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi là Bộ tiêu chí quốc gia NTM).
- Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà
nước đóng vai trị định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, chính sách, cơ
chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ và hướng dẫn thực hiện. Các hoạt động cụ thể do chính
cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.
- Kế thừa, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ
có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai trên địa bàn nông thôn.
- Thực hiện Chương trình xây dựng nơng thơn mới phải gắn với kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, có quy hoạch và cơ chế đảm bảo thực
hiện các quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
- Cơng khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực; tăng cường phân
cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các cơng trình, dự án của
Chương trình xây dựng nơng thơn mới; phát huy vai trị làm chủ của người dân và


17


cộng đồng, thực hiện dân chủ cơ sở trong quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện và giám sát, đánh giá.
- Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và tồn xã
hội; cấp uỷ đảng, chính quyền đóng vai trị chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng
quy hoạch, đề án, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị, xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong
xây dựng nông thôn mới.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới đẩy nhanh xây dựng nơng thơn mới
1.1.3.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước
Vai trò lãnh đạo, định hướng của Đảng là kim chỉ nam để thực hiện thắng lợi
3 mục tiêu cốt yếu cho nông dân: trở thành lực lượng lao động tiên tiến, là lực
lượng chính trị vững mạnh và phát triển mạnh mẽ, có những thay đổi về chất.
Trước hết, Nhà nước phải có chính sách phát triển nơng thơn tồn diện, khơng
phải chỉ tập trung vào nông nghiệp. Thứ hai, Nhà nước phải hỗ trợ việc tăng
cường năng lực cho các cộng đồng nông thôn để nơng dân có thể tham gia vào
việc phát triển nơng thôn, xây dựng các thể chế nông thôn dựa vào cộng đồng;
hợp tác xã và các tổ chức dân sự, nghề nghiệp của nơng dân [14]
1.1.3.2. Trình độ phát triển kinh tế xã hội
Nước ta xây dựng nông thôn mới trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế
cịn thấp; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém, quy mơ sản xuất nhỏ
bé, nguồn lực cịn hạn hẹp; mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư thấp, chưa đủ
tạo sức bất mới đối với sản xuất và phát triển thị trường. Lĩnh vực xã hội tồn tại
nhiều vấn đề bức xúc. Cải cách hành chính tiến hành còn chậm. Những tồn tạo,
hạn chế này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình và kết quả xây dựng nông thôn
mới. [6]


18


1.1.3.3. Trình độ dân trí, đời sống và thu nhập của người dân
Thực trạng học vấn, dân trí và chuyên mơn kỹ thuật đang cịn thấp kém đã
gây rất nhiều khó khăn trong việc đưa các tiến bộ khoa học và cơng nghệ vào q
trình lao động sản xuất ở khu vực nông nghiệp – nông thôn. Thực trạng này cũng
đã và đang là những nguyên nhân quan trọng làm cho nhiều vấn đề trong nông
nghiệp, nông thôn, nông dân chậm được giải quyết.
Thu nhập bình quân của người dân nơng thơn hiện nay trên dưới 500.000
đồng/tháng, trong khi đó việc chi cho ăn, mặc chiếm tới 80-90%. Hiện trạng về
khoảng cách giàu, nghèo có xu hướng tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới)
vẫn còn ở mức 18% (ở nhiều vùng sâu, vùng xa tới 40%) . [19]
1.1.3.4. Năng lực, trình độ, trách nhiệm và kinh nghiệm xây dựng NTM của cán
bộ địa phương.
Một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có nhận thức chưa đầy đủ
về Chương trình xây dựng nơng thơn mới. Họ cho rằng đó là dự án phát triển sản
xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng; hoặc là biến đổi nông thơn thành thị trấn, thị tứ để đơ
thị hóa; hoặc xây dựng nông thôn mới là trách nhiệm của Nhà nước phải làm cho
dân nên nảy sinh tâm lý trông chờ, thụ động, ỷ lại, ảo tưởng là sắp có nơng thơn
mới. Vì vậy vấn để đổi mới tư duy để nâng cao nhận thức, hiệu quả công tác lập
kế hoạch, tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới của
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân là hết sức cần thiết [9]
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là lực lượng tiên phong, đi đầu trong xây
dựng nông thôn mới. Trước tiên họ phải đổi mới tư duy để nhận thức đúng về chủ
trương của Đảng, chương trình mục tiêu xây dựng nơng thơn mới của Chính phủ;
từ đó tun truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân tham gia.
1.1.3.5. Sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp.
Sự phối hợp thể hiện: Thứ nhất. Quán triệt và thống nhất trong tổ chức về ý
nghĩa và nhiệm vụ trong công tác xây dựng nông thôn mới; Thứ hai. Là cầu nối
hiệu quả giữa chính quyền và người dân; Thứ ba. Tuyên truyền, vận động và tổ



19

chức các phong trào thi đua nhằm huy động nhân lực, vật lực giải quyết các công
việc cụ thể; Thứ tư. Gương mẫu, trách nhiệm và đi đầu trong việc triển khai, thực
hiện và duy trì sử dụng các cơng trình, thành quả của cơng tác xây dựng nơng thơn mới.
[15]
1.1.3.6. Thu hút đầu tư vào nông thôn
Các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nơng thơn vì
đây là ngành sản xuất có nhiều rủi ro, đầu tư lớn mà hiệu quả thấp và mâu thuẫn
giữa các thị trường lớn trong khi sản xuất nhỏ. Nếu khơng giải quyết được các
mâu thuẫn này thì việc thu hút đầu tư nguồn lực vào nông nghiệp, nông thôn sẽ
không mang lại hiệu quả. [15]
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển nông thôn văn minh, hiện đại ở các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới.
1.2.1.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến khu vực kinh tế
nông thôn khi thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ I (1962-1966) và thứ II
(1966-1971) với chủ trương công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu, tháng 4
năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc phát động phong trào làng mới (Saemaul
Undong). Mục tiêu của phong trào này là "nhằm biến đổi cộng đồng nông
thôn cũ thành cộng đồng nông thôn mới: mọi người làm việc và hợp tác với
nhau xây dựng cộng đồng mình ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Cuối cùng là
để xây dựng một quốc gia ngày một giàu mạnh hơn". Để xây dựng thành công
nông thôn mới, Hàn Quốc đã áp dụng những giải pháp chính sau đây:
- Đoàn kết nhân nhân, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường trong nhân dân
để xây dựng nông thôn mới: Để đoàn kết, tập hợp nhân dân trong sự nghiệp
chung, phong trào Saemaul Undong đề cao ba phẩm chất chính, đó là “Sự cần
cù, tự lực và hợp tác”. Cần cù mang lại tính chân thật, khơng cho phép sự giả
tạo và thói kiêu căng ngạo mạn. Tính tự lực giúp cho con người tự quyết định



20

vận mệnh của chính mình, khơng phải nhờ cậy đến bất kỳ sự giúp đỡ nào từ
bên ngoài. Hợp tác dựa trên mong muốn phát triển chung cả cộng đồng để nỗ
lực vì mục tiêu chung.Chính vì vậy, ba ngun tắc chủ yếu của phong trào
Saemaul cũng chính là hạt nhân của công cuộc xây dựng một xã hội tiên tiến
và một quốc gia thịnh vượng.
- Kích thích sự tham gia bằng những lợi ích thiết thực: Giai đoạn đầu của
sự nghiệp xây dựng nơng thơn mới, Chính phủ Hàn Quốc khơng có nhiều
kinh phí, do đó, Chính phủ đã khéo léo sử dụng chính sách kích cầu đầu tư,
huy động sức mạnh của nhân dân. Chính phủ chỉ hỗ trợ một phần ngun vật
liệu cịn nơng dân mới chính là đối tượng ra quyết định và thực thi mọi việc.
Kết quả là sau 8 năm (1971-1978), nhờ khơi dậy nội lực của nông dân mà
nông thôn Hàn Quốc đã có những biến đổi to lớn. Cuối những năm 80, nơng
thơn Hàn Quốc đã có những dấu hiệu của sự phát triển và đơ thị hóa.
- Phát triển kinh tế hộ và các loại hình kinh tế có sức cạnh tranh cao như:
+ Đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ. Ông Lee Sang Mu, Cố vấn đặc biệt
của Chính phủ Hàn Quốc về Nông - lâm - ngư nghiệp cho biết: “Quan điểm
của Hàn Quốc là không kêu gọi đầu tư nước ngồi cho nơng nghiệp, vì lo
ngại lợi nhuận các cơng ty nước ngồi hưởng, cịn nơng dân suốt đời làm
th”. Chính vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương hỗ trợ để nơng dân tự
mình đứng lên trở thành người chủ đích thực.
+ Thành lập các khu liên hiệp nông nghiệp trồng các sản phẩm như: nấm,
thuốc lá, rau sạch quanh năm… đem lại lợi nhuận cao cho người nơng dân.
+ Chính phủ cho xây dựng các nhà máy ở nông thôn để tạo việc làm và
tăng thu nhập cho nhiều phụ nữ. Kết quả là thu nhập ở nơng thơn tăng đều
đặn. Năm 1977, có 98% các xã đã có thể độc lập về kinh tế.
- Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân:

Đi kèm với việc phát triển hạ tầng và tăng cường các cơ sở đào tạo nghề


21

nông, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, các loại giống mới như nấm, cây thuốc
lá… vào sản xuất. Các làng xã và xí nghiệp đều được trang bị thư viện
Saemaul và các phương tiện vui chơi giải trí khác. Khi đất nước đã giàu có,
Chính phủ Hàn Quốc có thêm nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển khoa
học công nghệ phục vụ nông nghiệp, thôn thôn như: thành lập các trung tâm
chuyên về nông nghiệp nhằm nghiên cứu và phát triển nông nghiệp, giúp
người nông dân tiếp cận nhanh nhất với các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật và
marketing.
Nhờ hiệu quả của phong trào Saemaul Undong mà Hàn Quốc từ một
nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia giàu có, hiện đại
bậc nhất châu Á.
1.2.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Tại Nhật Bản, từ năm 1979, Tỉnh trưởng Oita-Tiến sĩ Morihiko
Hiramatsu đã khởi xướng và phát triển phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm"
(One Village, one Product - OVOP) với mục tiêu phát triển vùng nông thôn
của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển chung của cả Nhật
Bản. Phong trào "mỗi làng một sản phẩm" dựa trên 3 nguyên tắc chính là: địa
phương hóa rồi hướng tới tồn cầu; Tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo; Phát triển
nguồn nhân lực. Trong đó, nhấn mạnh đến vai trị của chính quyền địa
phương trong việc hỗ trợ kỹ thuật, quảng bá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm được
xác định là thế mạnh. Sau 20 năm áp dụng phong trào OVOP, Nhật Bản đã có
329 sản phẩm đặc sản địa phương có giá trị thương mại cao như nấm hương
Shitake, rượu Shochu lúa mạch, cam Kabosu,... giúp nâng cao thu nhập của
nông dân địa phương. [7]
1.2.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan về phát triển nông thôn.

Thái Lan đã lựa chọn chiến lược xuất khẩu nơng sản từ năm 1977, chiến
lược đó đặt mục tiêu làm cho những nơng sản có ưu thế của Thái Lan với tính


22

chất một nước nhiệt đới có thể chiếm lĩnh được thị trường thế giới bằng chính
sản phẩm nơng nghiệp đã kinh qua chế biến. Công nghệ chế biến được chọn
là khâu đột phá để thực hiện chiến lược ấy.
Công nghiệp hóa nơng nghiệp với nghĩa là làm cho nơng nghiệp trở
thành một khâu gắn chặt với công nghiệp làm hàng xuất khẩu và do đó phải
phát triển các doanh nghiệp trong công nghiệp đảm nhận liên hiệp với nông
dân tạo ra sản phẩm để chế biến có hiệu quả xuất khẩu cao. Để có được nền
cơng nghiệp chế biến mạnh như vậy thì phải làm nơng nghiệp theo một kiểu
tổ chức khác. Tổ chức đó như cách của Thái Lan (có lẽ cũng là nước đầu tiên
trong số các nước đang phát triển) là đi theo công thức 4 nhà: Nhà nước +
Nhà doanh nghiệp + Nhà ngân hàng + Nhà nông. Việt Nam cũng lấy ý tưởng
này nhưng thay nhà ngân hàng bằng nhà khoa học.
Công thức của Thái Lan nhằm việc lập ra các doanh nghiệp kinh doanh
nông sản xuất khẩu đi từ đầu đến cuối của quá trình sản xuất. Hình thức kết
hợp thì linh động thay đổi theo từng loại công việc và sản phẩm, nhưng về
nguyên tắc thì cả 4 nhân vật này đều là chủ thể q trình sản xuất: Chính phủ
địa phương chịu trách nhiệm tạo dựng cơ sở hạ tầng, nhất là đường xá, chọn
các nơng hộ có khả năng tham gia liên kết với doanh nghiệp ngay từ lúc đầu.
chọn những làng xã nào để thực hiện dự án sản xuất; Ngân hàng có trách
nhiệm đầu tư vốn vào việc xây dựng các cơ sở chăn nuôi hoặc trồng trọt cho
từng hộ nông dân đã được chọn; Doanh nghiệp chịu trách nhiệm cung ứng
thiết bị, vật tư cho sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Kết thúc quá trình
sản xuất và tiêu thụ, lợi nhuận sẽ được chia cho 4 bên theo tỷ lệ thích hợp,
Chính phủ thu lợi qua thuế, ngân hàng thu lợi của lợi tức cho vay, doanh

nghiệp thu lợi qua lợi nhuân, nông dân thu lợi qua lợi nhuận và trừ dần các
khoản đầu tư về thiết bị dài hạn. Sau 5-7 năm, các thiết bị nhà xưởng, máy
móc đã đầu tư cho nơng hộ sẽ do nơng dân sở hữu hồn tồn.


23

Như vậy, nông hộ không bị nép vế như là người vay lãi ngân hàng hay
mang nợ doanh nghiệp. Do đó, cũng khơng xảy ra tình trạng phải phạt nơng
dân khi họ khơng tơn trọng hợp đồng như có thể thấy ở nơi khác. Kết quả
cuối cùng là Thái Lan có được một hệ thống các vùng kinh tế nơng nghiệp
chun mơn hóa có quy mơ hợp lý. Lúc đầu, Thái Lan làm mơ hình này trong
chăn ni, sau phát triển sang các mặt hàng khác như gạo, thủy sản và đặc
biệt là hoa quả nhiệt đới, hiện đang đứng đầu thế giới. Đến năm 1989, Thái
Lan đã có 14 loại nông sản phẩm xuất khẩu trên thế giới thực hiện chủ yếu
vào sự liên kết này [7]
Những đánh giá cũng như kinh nghiệm của các nước là bài học rất bổ ích
mà chúng ta có thể tiếp thu để thực hiện một cách đúng đắn, có kế hoạch và
xác thực hơn trong q trình xây dựng nơng thơn mới trong giai đoạn sắp tới.
1.2.2. Kinh nghiệm triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nơng thơn
mới của các địa phương trong nước.
Tại Hội nghị sơ kết chương trình xây dựng thí điểm mơ hình nơng thơn
mới ngày 16/7/2011 tại Hà Nội thì tất cả 11 xã thí điểm mơ hình NTM đã
hồn thành cơng tác quy hoạch chung, các cơng trình hạ tầng xây dựng mới
hoặc nâng cấp cơ bản đều dựa theo quy hoạch được duyệt, 902/1.188 cơng
trình hạ tầng theo kế hoạch đã được hoàn thành, hai xã Thụy Hương (TP Hà
Nội) và Tân Thông Hội (TP Hồ Chí Minh) đã cơ bản đạt tiêu chí hạ tầng (đạt
98%), 8 xã khác đạt từ 75 đến 80%, một xã đạt 68%. Trong hai năm qua, trên
địa bàn 11 xã điểm đã xây dựng 200 mơ hình, dự án sản xuất nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Các dự án sản xuất đều có ứng dụng tiến bộ

khoa học kỹ thuật. Dưới đây là kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới tại 3 xã:
Thụy Hương, Hải Đường và Tân Thông Hội.
(1) Xã Thụy Hương (huyện Chương Mỹ, Hà Nội) là 1 trong 11 xã được
chọn xây dựng thí điểm mơ hình nơng thơn mới (NTM) của toàn quốc vào


24

tháng 6/2009. Đây là một xã đồng bằng, thuần nông nằm ven sông Đáy cách
trung tâm Hà Nội khoảng 20km về phía Tây Nam. Thời điểm bắt đầu xây
dựng NTM, mặc dù là địa phương có tiềm năng về canh tác nông nghiệp với
tỉ lệ đất màu chiếm tới 40%, thuận lợi để hình thành vùng sản xuất thâm canh
cho năng suất, chất lượng nông sản cao song trong sản xuất nơng nghiệp của
xã vẫn chưa hình thành được quy hoạch; Sản xuất vẫn ở thế độc canh, khai
thác tiềm năng đất đai, lao động còn hạn chế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng
vật ni cịn chậm. Bên cạnh đó, hệ thống giao thơng liên xã, đường trục
thơn, xóm, đường điện, trường học, trạm y tế, hệ thống thủy lợi… cũng chưa
hoàn thiện. Vậy mà đến nay, sau 2 năm triển khai, bức tranh NTM tại Thụy
Hương đã có nhiều bước chuyển đáng kể: Hiện nay, 14/19 tiêu chí xây dựng
NTM ở Thụy Hương đã cơ bản đạt với mức cao từ 90% - 100%. Đó là các
tiêu chí về quy hoạch, giao thông, thủy lợi, tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế…
5 tiêu chí cịn lại cũng đã đạt ở mức trên 70%. Có những tiêu chí căn bản,
tưởng rất khó thực hiện đến nay cũng đã hồn thành ở mức cao. Điển hình là
ở nội dung phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất. Với sự vào cuộc nỗ lực của
cả hệ thống chính trị, sự hỗ trợ, đầu tư của Trung ương, thành phố và cả sự
đóng góp của chính người dân, đến nay Thụy Hương đã được triển khai nhiều
dự án phát triển sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập cho người
dân. Nhiều diện tích lúa của xã đã được cấy bằng giống lúa thơm, chất lượng
cao. Phương thức sản xuất lúa cơ giới hoá đồng bộ, thực hiện liên kết và dịch
vụ cũng được áp dụng. Dự án xây dựng vùng trồng hoa và cây ăn quả, rau an

toàn, khu chăn nuôi tập trung, xa khu dân cư đã và đang được triển khai…
Đến thời điểm này, có thể nói, ngoài xã Thụy Hương, tại 18 xã Hà Nội
chọn để xây dựng mơ hình điểm NTM của thành phố và các huyện, thị xã như
Song Phượng (Đan Phượng), Đại Áng (Thanh Trì), Mai Đình (Sóc Sơn ) hay
Cổ Đơ (Ba Vì)... các nội dung cụ thể cũng đều được khẩn trương tổ chức thực


25

hiện từng bước theo đề án mà Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt.
(2) Xã Hải Đường (Nam Định): Cách Hà Nội hơn 150 km, Hải Đường là
xã thuần nông của Tỉnh Nam Định với hơn 13.000 dân và có hơn 1.000 ha đất
tự nhiên. Tại thời điểm bắt đầu thực hiện mơ hình nơng thơn mới (tháng
6/2009), thu nhập bình quân/người của xã chỉ đạt 7,5 triệu đồng/người/năm.
Chỉ sau hơn 1 năm thực hiện mơ hình, thu nhập bình quân/người năm 2010
của xã đã tăng lên mức 11 triệu đồng/người (tăng 46%). Có được sự thay đổi
ấy là cả q trình phấn đấu, nỗ lực triển khai khơng mệt mỏi của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân xã Hải Đường: Ngay sau khi được chọn làm xã
điểm, chính quyền xã đã nhanh chóng thành lập ban quản lý xây dựng chương
trình nơng thơn mới gồm 11 người do Chủ tịch xã làm Trưởng ban. Xã đã tiến
hành nhiều buổi họp dân và tổ chức các buổi thảo luận đến từng thơn, xóm.
Tại các buổi họp, người dân trình bày tâm tư nguyện vọng và những trăn trở
của mình. Sau đó, ban quản lý tổng hợp ý kiến người dân để xây dựng dự án.
Xác định khó khăn của mình là xã thuần nơng, chủ yếu sản xuất nơng nghiệp,
không nghề phụ, không nghề truyền thống. Muốn tăng thu nhập cho người
dân, xã Hải Đường đã chú trọng đầu tư đào tạo nghề cho người lao động. Xã
đã liên hệ, phối hợp với các đơn vị chức năng khai giảng 14 lớp học nghề, thu
hút 640 người tham gia. Trong đó, có 10 lớp hồn thiện chương trình đào tạo
nghề theo Quyết định 1956/QĐ-TTg của Chính phủ; 4 lớp khuyến công,
khuyến nông. Đào tạo cho người dân những nghề phù hợp với điều kiện của

xã như: Trồng rau sạch, ni cá nước ngọt, mộc, may, thêu, thảm cói, vê
đay… Trung tâm dạy nghề của huyện Hải Hậu đã tổ chức dạy nghề, đầu tư
nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm cho người dân Hải Đường. Đến nay, xã Hải
Đường đã đạt 12/19 tiêu chí để xây dựng nơng thơn mới. Đó là các tiêu chí:
Quy hoạch và thực hiện quy hoạch, thủy lợi, điện, trường học, chợ nông thôn,
bưu điện, nhà ở dân cư, hình thức tổ chức sản xuất, y tế, môi trường, hệ thống


×