Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các kiểu câu kể cho HS lớp 4 trường TH nga điền 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 21 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1
Biện pháp 2
Biện pháp 3
Biện pháp 4
Biện pháp 5
Biện pháp 6
Biện pháp 7
Biện pháp 8
4. Hiệu quả của sáng kiến
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
2
2
2


3
3
3
3
4,5,6
6
6,7
8
9
10
11,12,13
13,14
15
16
17
18
18
19
20

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XII
cũng như trong mục tiêu giáo dục của Đảng và nhà nước giai đoạn đến năm
2020 đều xác định mục tiêu là nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học, trong
đó chú trọng tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất năng lực
cơng dân, chú trọng năng lực kĩ năng sống cho học sinh, trong đó kĩ năng giao

tiếp là kĩ năng vơ cùng quan trọng là nền tảng để phát triển các kĩ năng sống
khác cho học sinh. Để học sinh có được kĩ năng giao tiếp tốt thì việc vơ cùng
quan trọng là nâng cao năng lực sử dụng tiếng việt cho học sinh trong giao tiếp.
Việc hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
( nghe, nói, đọc,viết) để học tập và giao tiếp trong mơi trường sống là một mục
tiêu quan trọng của môn Tiếng Việt. Để thực hiện mục tiêu đó, phân mơn luyện
từ và câu đã góp phần khơng nhỏ giúp học sinh ngày càng có kĩ năng giao tiếp
tự nhiên. Nội dung phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 khá phong phú. Việc dạy
cho học sinh “Câu chia theo mục đích nói”. Trên cơ sở kế thừa chương trình 165
tuần còn được mở rộng và đi sâu hơn về các loại câu. Trong đó các bài học về
câu kể có tới 12 tiết. Chương trình mới giúp học sinh nhận thức đầy đủ và sâu
sắc hơn về câu kể với các kiểu câu Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?.
Khi dạy học về các kiểu câu kể nói trên, khơng phải giáo viên nào cũng có
phương pháp, biện pháp phù hợp để hướng dẫn học sinh nắm vững khái niệm
cũng như phân biệt được các kiểu câu kể, cũng không phải học sinh nào cũng dễ
dàng xác định hay nhận dạng, phân biệt ngay được các kiểu câu kể. Qua thực tế
giảng dạy và trực tiếp kiểm tra kết quả học tập của học sinh hàng ngày, tôi nhận
thấy nhiều học sinh còn nhầm lẫn khi xác định các kiểu câu kể và việc sử dụng
câu kể trong viết văn, trong giao tiếp còn lẫn lộn. Làm thế nào để giúp học sinh
tránh nhầm lẫn hoặc giảm được nhầm lẫn, khi xác định các kiểu câu Ai làm gì?
Ai thế nào? Ai là gì? Trong một đoạn văn ln là vấn đề khiến tơi băn khoăn
trăn trở. Chính vì lí do trên tơi mạnh dạn chọn đề tài.“ Một số biện pháp nâng
cao chất lượng dạy học các kiểu câu kể cho học sinh lớp 4 ở trường TH Nga
Điền 1”. Nhằm tìm ra các biện pháp dạy học hiệu quả để nâng cao chất lượng
dạy học cho học sinh lớp 4 học các kiểu câu kể.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này giúp bản thân tơi cũng như đồng nghiệp có điều kiện
học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và có những hiểu biết cơ bản về cơ sở lí luận và
cơ sở thực tiễn của việc dạy học các kiểu câu kể. Từ đó tìm ra phương pháp dạy
học hiệu quả nhất về dạy học các kiểu câu kể cho học sinh lớp 4. Nghiên cứu

của đề tài này, tơi mong muốn tìm ra các biện pháp dạy học có hiệu quả nhất
nhằm đạt được kết quả là mỗi học sinh đều nắm được bản chất của các câu kể Ai
làm gì? Ai thế nào? Ai là gì? Biết cách phân biệt được ba loại câu kể này từ đó
giúp học sinh nhận biết được chính xác khơng bị nhầm lẫn giữa các câu kể Ai
làm gì? Ai là gì? Ai thế nào? Và từ đó biết sử dụng chính xác hợp lí các câu kể
2


này trong đặt câu, viết văn và trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày. Cụ thể, học
sinh: kể, tả hoặc giới thiệu được sự vật, sự việc mà mình muốn nói đến. Nói lên
được ý kiến, tâm tư, tình cảm của mình một cách hiệu quả nhất, hiểu biết được
về xã hội, tự nhiên, con người. Từ đó nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh,
bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của Tiếng Việt, góp phần khơng nhỏ trong giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh, đó là: Tự tin trong nói năng giao tiếp, hợp tác và ứng xử hằng ngày với bạn
bè và mọi người xung quanh.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học các kiểu câu kể cho học sinh
lớp 4.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp tôi đã sử dụng trong khi thực hiện đề tài này bao gồm:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê xử lí số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm, đối chứng kết quả.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận của việc dạy học các kiểu câu kể cho học sinh lớp 4.
1.1. Vị trí, vai trị của mơn Tiếng Việt và phân môn luyện từ và câu.
Như chúng ta đã biết, trong giáo dục Tiểu học mỗi mơn học đều có vị trí,
vai trị quan trọng riêng. Song để học được các mơn học đó thì trước tiên chúng

ta phải học tiếng mẹ đẻ - đó là Tiếng Việt - chìa khóa của nhận thức, của học
vấn, của sự phát triển trí tuệ đúng đắn, nó cần thiết cho tất cả các em khi bước
vào cuộc sống. Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người Việt
Nam, nó phản ánh tư duy của con người. Đồng thời môn Tiếng Việt cịn góp
phần lớn giúp học sinh phát triển về Đức- Trí- Thể- Mỹ [2]. Do vậy mơn Tiếng
việt là một mơn quan trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong chương trình. Mơn học
này trong trường Tiểu học chiếm một khối lượng kiến thức lớn nhất và thời
lượng nhiều nhất so với các mơn học khác. Trong đó Luyện từ và câu là một
phân môn khá quan trọng trong bộ môn Tiếng Việt, phân môn này đã cung cấp
cho học sinh các đơn vị của ngôn ngữ: tiếng, từ ngữ, câu, cách phân loại từ, câu,
giúp học sinh chọn từ ngữ chuẩn diễn đạt ngắn gọn, đủ ý, giữ phép lịch sự trong
giao tiếp… Như vậy người nghe, người đọc hiểu đúng thơng tin. Phân mơn
Luyện từ và câu góp phần rèn luyện tư duy, phát triển ngôn ngữ và hình thành
nhân cách cho học sinh, tạo cho HS có vốn từ phong phú.
1.2. Nội dung, sự phân bố nội dung các kiểu câu kể trong chương trình lớp
4.
Xét về các loại câu chia theo mục đích nói được chia thành các loại câu:
câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến. Nội dung về câu kể được học ở cuối kì I
(3 tiết) tuần 16 và 17 đến đầu kì II (9 tiết) tuần 19, 20, 21, 22, 24, 25,26. cụ thể
như sau:
Tuần 16: 1 tiết: Câu kể
3


Tuần 17: 2 tiết: Câu kể Ai làm gì? Vị ngữ trong câu kể Ai làm gì?
Tuần 19: 1 tiết: Chủ ngữ trong câu kể Ai làm gì?
Tuần 20: 1 tiết: Luyện tập về câu Ai làm gì?
Tuần 21: 2 tiết: Câu kể Ai thế nào? Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào?
Tuần 22: 1 tiết: Chủ ngữ trong câu kể Ai thế nào?
Tuần 24: 2 tiết: Câu kể Ai là gì? Vị ngữ trong câu kể Ai là gì?

Tuần 25: 1 tiết: Chủ ngữ trong câu kể Ai là gì?
Tuần 26: 1 tiết: Luyên tập về câu kể Ai là gì? [ 3]
Những tiết luyện tập gồm tập hợp 3- 4 bài tập. Còn lại các bài cung cấp
kiến thức mới đều có cấu trúc giống nhau: Gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện
tập.Việc sắp xếp nội dung các bài học cũng được cấu trúc tương tự nhau. Mỗi
kiểu câu đều học bài thứ nhất giới thiệu kiểu câu đó là gì? Bài thứ hai học về bộ
phận vị ngữ, bài thứ ba học về chủ ngữ, bài thứ 4 là bài luyện tập.[1]
2. Thực trạng việc dạy- học các kiểu câu kể ở trường Tiểu học Nga Điền I
trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Những việc đã làm được.
* Về giáo viên:
Giáo viên khối 4 của trường đều đạt trên chuẩn, nhiệt tình, có năng lực
chuyên môn đảm bảo, đều đã đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện. Trong quá trình
dạy học đã cố gắng đổi mới PPDH, tổ chức đa dạng các hình thức dạy học nhằm
ngày càng nâng cao hơn chất lượng dạy - học. Trong chun mơn các đồng chí
trong tổ cũng thường xuyên trao đổi, chia sẻ các bài, các dạng câu kể, các dạng
bài tập về câu mà học sinh cịn yếu để tìm ra phương pháp giảng dạy hiệu quả.
* Về học sinh:
Nhìn chung, các em học sinh khối 4 đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập.
Nhiều học sinh ln tự giác học tập, ít để giáo viên phải đôn đốc, nhắc nhở. Đối
với phân môn luyện từ và câu, mức độ tiếp thu bài và vận dụng thực hành của
học sinh là tương đối tốt.
*Sách giáo khoa và tài liệu tham khảo;
100% học sinh khối 4 đều có đầy đủ SGK mơn Tiếng Việt.
Đối với giáo viên, ngồi SGK, vở bài tập, bài soạn cịn có thêm một số tài liệu
khác như: Thiết kế giảng dạy Tiếng Việt 4, từ điển tiếng Việt, các tài liều nâng
cao của phân môn luyện từ và câu, hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt… Các tài
liệu này góp phần hỗ trợ các nội dung dạy học và phương pháp dạy học trong
quá trình giảng dạy.
2.2. Những việc chưa làm được và tồn tại, hạn chế.

* Về giáo viên:
Khi được hỏi về việc dạy học môn Tiếng Việt, phần về ba kiểu câu kể này thì
đều nhận định là khơng dễ dàng, đặc biệt là việc dạy cho học sinh phân biệt,
nhận dạng chính xác và sử dụng trong học tập và giao tiếp hằng ngày. Các tiết
dạy về ba kiểu câu kể này chất lượng chưa cao, vẫn còn một số lúng túng trong
việc hướng dẫn học sinh nắm được bản chất của từng kiểu câu này, đặc biệt là
việc sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh nhận diện, phân loại
4


chính xác và sử dụng hợp lí trong việc đặt câu, viết văn cũng như trong giao tiếp
hằng ngày.
Nguyên nhân; Giáo viên chưa áp dụng đồng bộ một số giải pháp để hướng
dẫn học sinh nắm được bản chất của từng kiểu câu kể; bên cạnh đó, việc vận
dụng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh nhận diện chính xác các kiểu câu
kể này chưa được linh hoạt.
* Về học sinh
Với những kiến thức đòi hỏi khả năng tư duy thì đa số học sinh cịn lúng
túng. Việc xác định câu kể này thuộc kiểu câu Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?
Là một dẫn chứng cho sự lúng túng đó của học sinh.
Học sinh thường lẫn lộn giữa các kiểu câu kể trong việc nhận dạng kiểu câu.
Học sinh không xác định được chủ ngữ, vị ngữ của câu, nếu câu có thêm thành
phần phụ là trạng ngữ đặt ở đầu câu nên việc đặt câu ( nói và viết) theo yêu cầu
cụ thể thường khơng chính xác.
Bên cạnh đó, rải rác vẫn cịn những học sinh phải đôn đốc, nhắc nhở rất
nhiều, ý thức tự giác chưa cao. Nguyên nhân là các em chưa hiểu bài, chưa chăm
học.
Nguyên nhân;
+ Học sinh không nắm vững về từ loại ( Danh từ, Động từ, Tính từ)
+ Học sinh không xác định được từ chủ yếu trong một cụm từ ( Cụm danh từ,

cụm động từ, cụm tính từ). Từ đó các em xác định khơng chính xác kiểu câu.
+ Học sinh chưa xác định được đâu là thành phần chính của câu.
+ Học sinh chưa biết đặt câu hỏi khi tìm chủ ngữ, vị ngữ của câu.
*Sách giáo khoa và tài liệu tham khảo:
Tài liệu tham khảo, đối với phân môn luyện từ và câu các em chưa có sự
đầu tư nhiều. Phần lớn, các em thường mua các tài liệu phục vụ cho phân môn
Tập làm văn.
2.3. Khảo sát thực tế chất lượng cuối học kì I của hai lớp 4 trường Tiểu học
Nga Điền 1.
Để khảo sát chất lượng học của học sinh đối với việc xác định kiểu câu kể,
tôi đã cho học sinh lớp 4A và 4B (lớp 4B- lớp thực nghiệm; lớp 4A- lớp đối
chứng) làm bài tập nhỏ sau đây:
Em hãy gạch 1 gạch dưới chủ ngữ, hai gạch dưới vị ngữ trong các câu văn
sau và nói rõ câu văn thuộc kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế nào? Hay câu Ai là
gì?;
“ Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn đang phân vân.
Trên cành cây, mấy chú chim xinh xắn đang nhảy nhót và hót ríu rít.
Bố là người thầy dạy bơi cho em.”
Kết quả là:
Lớp
Sĩ số Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4A

27
8
29,6%
9
33,3%
10
37,1%
4B
28
9
32,1%
10
35,8%
9
32,1%
5


Kết quả làm bài cụ thể như sau:
Câu
Số HS xác định Số HS xác định Số HS xác định
kiểu câu Ai làm kiểu câu Ai thế kiểu câu Ai là gì?
gì?
nào?
Bốn cánh khẽ 35HS
20HS
rung rung như
đang cịn đang
phân vân.
Trên cành cây, 33HS

20HS
2HS
mấy chú chim
xinh xắn đang
nhảy nhót va hót
ríu rít.
Bố là người thầy 13HS
3HS
39HS
dạy bơi cho em
*Những điểm tồn tại và nguyên nhân;
Câu văn thứ nhất thuộc kiểu câu Ai thế nào? Song lại có tới gần 65% số
HS xác định đây là kiểu câu Ai làm gì? Do nhầm lẫn từ “rung rung” chỉ hoạt
động của đôi “cánh” mà không quan tâm đến từ “khẽ ” chỉ đặc điểm của sự vật
( bốn cánh).
Câu văn thứ hai thuộc kiểu câu Ai làm gì? Song rất nhiều em nhầm đây là
kiểu câu Ai thế nào? Vì ở đây có từ; “ xinh xắn”, và đã xác định chủ ngữ là
“ mấy chú chim”.
Câu văn thứ ba ít học sinh nhầm hơn, tuy nhiên vẫn còn 13 em xác định
đây là kiểu câu Ai làm gì? Vì ở đây có từ “ dạy học”, và xác định chủ ngữ là
“người thầy”.
Với các bài tập yêu cầu HS viết đoạn văn trong đó có câu thuộc một trong
các kiểu câu kể đã học nhiều em chỉ chú trọng sao cho viết đúng đoạn văn có đủ
số lượng câu theo yêu cầu đề bài (5-7 câu). Nhiều khi các em còn quan niệm cứ
một dòng là được một câu nên thường trao đổi với nhau “ tớ được 3 dòng rồi”
“còn tớ được 6 dòng rồi”. Tất cả những quan sát và đánh giá trên đây cho thấy
việc xác định đúng các kiểu câu kể và phân biệt rõ các kiểu câu kể của học sinh
phần nào có sự mơ hồ, thiếu sự chắc chắn.
Từ những tồn tại, hạn chế của giáo viên và học sinh trong q trình dạy
học như trên, tơi đã đưa ra một số biện pháp áp dụng trong thực tiễn dạy học

như sau:
3. Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Biện pháp1. Thực hiện tốt yêu cầu cần thiết đối với giáo viên dạy lớp 4.
- Tìm hiểu và nắm vững cấu trúc, nội dung dạy câu kể ở lớp 4:
Nội dung chương trình phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 được sắp xếp xen kẽ
các bài mở rộng vốn từ với các bài học có nội dung lí thuyết. Qua các bài lí
thuyết, các em được cung cấp kiến thức từ dễ đến khó, bắt đầu từ các bài học về
6


tiếng, từ đến câu, bộ phận phụ của câu, dấu câu và một số nghi thức giao tiếp
được học xen kẽ trong chương trình.[1]
Nội dung về câu kể được học ở cuối kì I (3 tiết) ở tuần 16 và 17 đến đầu kì
II (9 tiết) tuần 19,20,21,22,24,25,26. Cụ thể như sau:
Những tiết luyện tập gồm tập hợp 3- 4 bài tập. Còn lại các bài cung cấp kiến
thức mới đều có cấu trúc giống nhau: gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện tập.
Việc sắp xếp nội dung các bài học cũng được cấu trúc tương tự nhau. Mỗi
kiểu câu kể đều học bài thứ nhất giới thiệu kiểu câu đó là gì? Bài thứ hai học về
bộ phận vị ngữ, bài thứ ba học về chủ ngữ, bài thứ tư là bài luyện tập.
- Tìm hiểu các tài liệu hướng dẫn giảng dạy về câu kể ở lớp 4:
Để có được sự thống nhất chung và đúng đắn nhất trong một tiết dạy về câu
kể, tôi thường xem lại chương trình học BDTX, nội dung học chuyên đề đối với
phân môn luyện từ và câu, tham khảo tiến trình bài soạn trong sách giáo viên
Tiếng Việt 4, thiết kế giảng dạy Tiếng Việt 4. Sau khi tham khảo tài liệu, tôi lập
kế hoạch bài học cho mỗi tiết dạy có sự lựa chọn, sắp xếp lại sao cho phù hợp
với đối tượng học sinh, điều kiện dạy học song vẫn đảm bảo đầy đủ nội dung và
mục tiêu tiết dạy.
Ngồi ra, tơi cịn tham khảo, vận dụng, kế thừa các phương pháp dạy học về
câu kể của chương trình cũ, đọc thêm tài liệu sách, báo có tin, bài nói, viết về
dạy luyện từ và câu ở lớp 4 nhằm góp phần giúp học sinh nâng cao chất lượng

xác định các kiểu câu kể.
- Nắm vững tinh thần chung khi dạy luyện từ và câu ở lớp 4:
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 được dạy dưới hai kiểu:
* Kiều bài lí thuyết: bao gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện tập.Thông
thường, giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết các bài tập ở phần nhận xét,
giáo viên gợi mở giúp học sinh rút ra ghi nhớ. Từ ghi nhớ, học sinh vận dụng
làm bài tập ở phần luyện tập dưới hình thức cá nhân hay nhóm.[4]
* Kiểu bài luyện tập và mở rộng vốn từ: Bao gồm tập hợp các bài tập. Chủ yếu,
giáo viên tổ chức cho học sinh các hoạt động dạy học theo cách thức linh hoạt
( trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân) theo trình tự:
+ Hướng dẫn HS tìm hiểu yêu cầu bài tập.
+ Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc một bài.
+ Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động học tập.
+ Tổ chức đánh giá, nhận xét kết quả bài làm.
Tham khảo các tiết dạy trên băng và ý kiến đồng nghiệp:
Trong thời gian tham gia học chuyên đề thay SGK lớp 4 và lớp 5, tôi đã
được xem một số băng hình các tiết dạy luyện từ và câu. Thực tế khơng có các
băng dạy về câu kể song qua băng hình dạy các kiểu bài lí thuyết, ít nhiều bản
thân tôi đã học tập được cách tổ chức dạy học, đặc biệt là cách tổ chức cho học
sinh khai thức ngữ liệu ở phần nhận xét. Trong quá trình giảng dạy, nếu có vấn
đề gì cịn băn khoăn áy náy, tôi thường tham khảo ý kiến đồng nghiệp, xin ý
kiến chỉ đạo của phụ trách chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm tổ chức dạy học
của đồng nghiệp trong trường. Qua đó, tơi đã tự rút ra những kinh nghiệm thiết
7


thực khi dạy luyện từ và câu nói chung và dạy cho học sinh xác định đúng, phân
biệt được các kiểu câu kể đã học nói riêng.
Biện pháp 2. Hướng dẫn học sinh nắm vững khái niệm câu kể, cách dùng
câu kể.

Khác với chương trình cũ, chương trình mới ngồi bài “câu kể” có tính khái
qt chung, học sinh cịn được học kĩ càng về 3 kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế
nào? Ai là gì?. Ở những tiết đầu, khi mới học về kiểu câu kể Ai làm gì? Đa số
học sinh đều xác định tương đối đúng kiểu câu này. Nhưng khi học tiếp sang
kiểu câu Ai thế nào ? và Ai là gì? Thì việc xác định các kiểu câu kể trong một
đoạn văn nhiều em bị nhầm lẫn. Chẳng hạn hai câu sau đây là hai câu kể kiểu Ai
làm gì? Nhưng đa số học sinh xác định đây là câu kể kiểu Ai thế nào?
Câu 1: Đàn voi bước đi chậm rãi.
Câu 2: Người quản tượng ngồi vắt vẻo trên chú voi đi đầu.
Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này là do các em thấy trong hai câu trên đều có
các từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất ( từ chậm rãi, vắt vẻo) mà khơng tìm hiểu để
thấy hai từ này đều chỉ đặc điểm của hoạt động( đi, ngồi) chứ không chỉ đặc
điểm của sự vật. Để giúp học sinh tránh được sự nhầm lẫn trên, tôi hướng dẫn
học sinh thuộc ghi nhớ về khái niệm câu kể. Thuộc khái niệm thì có nhiều học
sinh rất thuộc song hiểu và nắm vững khái niệm câu kể thì chỉ có những học
sinh nổi trội mới đạt được. Vì vậy, nhằm giúp học sinh nắm vững khái niệm câu
kể, ngay bài học đầu tiên về câu kể, giáo viên phải gây được ấn tượng cho học
sinh bằng cách tổ chức cho HS phân tích tốt ngữ liệu. Đoạn văn ngữ liệu ( bài
tập 1) trang 161- Tiếng Việt 4- tập 1 có 3 câu kể và 1 câu hỏi. Từ sự phân tích
đoạn văn ngữ liệu này và đoạn ngữ liệu bài tập 3, giáo viên cho học sinh phát
hiện và so sánh đặc điểm của câu hỏi với các câu còn lại, gợi mở để học sinh
phát hiện đặc điểm của kiểu câu mới. Từ đó rút ra kết luận về câu kể và chốt lại
nội dung so sánh giữa câu hỏi và câu kể bằng bảng so sánh sau:[1]
Câu hỏi
Câu kể
Dùng để hỏi những điều chưa biết Dùng để kể, tả hoặc giới thiệu về sự vật
nói lên ý kiến, tâm tư, tình cảm của mỗi
người
Cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi(?)
Cuối câu kể có dấu chấm(.)

Khi đọc, giọng bình thường
Khi đọc, cần cao giọng ở cuối câu
VD: Những kho báu ấy ở đâu?
VD: Bu-ra-ti-nô là một chú bé người gỗ
Từ sự so sánh đó, giáo viên khắc sâu ghi nhớ về khái niệm câu kể cho HS
về cả nội dung và dấu hiệu hình thức.
Nắm được khái niệm câu kể, GV giúp học sinh hiểu câu kể thường dùng để
tả, kể, giới thiệu hoặc nói lên ý kiến, tâm tư, tình cảm mỗi người [3]. Để phân
biệt được các kiểu câu kể, trước hết các em cần nắm được khái niệm câu kể, xác
định đúng câu kể. Vì vậy, giáo viên cũng có thể dựa vào nội dung đã học về câu
hỏi để giúp học sinh nắm được khái niệm câu kể như trình bày trên đây.
Biện pháp 3. Hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu bài tập và ngữ liệu
đã cho.
8


Thông thường, nhiều học sinh quan tâm đến ngữ liệu của bài tập là một đoạn
văn hay một văn bản mà quên đi yêu cầu bài tập. Làm thế nào để học sinh chú ý
nắm vững yêu cầu của bài? Để làm được điều đó, trong mỗi tiết dạy, tơi thường
gọi 1 học sinh đọc to yêu cầu, cả lớp đọc thầm, GV ghi đề bài lên bảng có thể
gạch chân dưới các từ ngữ quan trọng. Sau khi cho học sinh đọc nội dung bài
tập, GV nhắc lại yêu cầu của bài một lần nữa.
Ví dụ: Bài 2- Phần nhận xét- trang 24- Tiếng Việt 4 tập 2 yêu cầu: tìm
những từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất hoặc trạng thái của sự vật trong các câu ở
đoạn văn trên( tức đoạn văn ở BT1)
- Bước đầu tôi cho 1 học sinh đọc to yêu cầu, cả lớp đọc thầm.
- Tiếp theo, cả lớp đọc thầm đoạn văn ở bài tập 1, GV ghi đề bài lên bảng.
- Một học sinh nhắc lại yêu cầu đề bài, GV gạch chân dưới các từ. “ Từ ngữ
chỉ đặc điểm, tính chất hoặc trạng thái của sự vật”.
- Với đối tượng tiếp thu bài cịn chậm, tơi đưa ra hai ví dụ và hệ thống câu hỏi

gợi mở để giúp các em nắm vững yêu cầu đề bài hơn, Chẳng hạn:
Xét hai câu sau: Câu 1: Cây cối xanh um.
Câu 2: Đàn voi bước đi chậm rãi.
- Hỏi: Câu nào có từ ngữ chỉ đặc điểm tính chất của sự vật? Đó là từ ngữ nào?
(câu 1- từ “xanh um”)
- Hỏi: Câu nào có từ ngữ chỉ đặc điểm của hoạt động? Đó là từ ngữ nào?
- ( Câu 2- từ “chậm rãi”).
Vậy trong các từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất ở hai câu trên thì từ “xanh
um” đúng với yêu cầu đề bài. Có những bài tập cho ngữ liệu là một đoạn văn và
yêu cầu học sinh tìm các kiểu câu kể có trong đoạn văn đó,
Để thực hiện được yêu cầu của đề bài, học sinh phải nắm vững ngữ liệu. Vì
vậy, tơi thường cho các em vừa đọc đoạn văn, vừa đánh số thứ tự trước mỗi câu
bằng bút chì. Sau đó xét lần lượt từng câu xem câu đó thuộc kiểu câu kể nào?
Ví dụ; bài 1a - trang 24 – tiếng việt 4 – tập 2
Đọc đoạn văn sau và tìm các câu kể Ai thế nào? Có trong đoạn văn( 1)
“ Rồi những người con cũng lớn lên rồi lần lượt lên đường. (2) Căn nhà trống
vắng.( 3 ) Những đêm không ngủ, mẹ lại nghĩ về họ .(4) Anh khoa hồn nhiên,
xởi, lởi. (5) Anh đức, lầm lì, ít nói. (6) Cịn anh tịnh thì đĩnh đạc, chu đáo” [4]
Đoạn văn gồm 6 câu được đánh số thứ tự từ 1 đến 6. sau khi xét từng
câu, các em sẽ nhận ra những câu kể Ai thế nào? Trong đoạn văn trên là
câu1,2,4,5,6. Tuy nhiên, với câu 1, nhiều học sinh vẫn nhầm là câu kể Ai làm gì?
vì có vị ngữ thứ hai chỉ hoạt động ( lần lượt lên đường). Kết quả khẳng định câu
1 là câu kể Ai làm gì? Là có căn cứ. Vì vậy, giáo viên cần giải thích rõ để các em
hiểu như sau: Câu văn này có hai vị ngữ, vị ngữ thứ nhất trả lời câu hỏi Ai thế
nào? ( lớn lên) và vị ngữ thứ hai trả lời câu hỏi Ai làm gì? ( lần lượt lên đường).
Nhưng vì vị ngữ chỉ đặc điểm (lớn lên) đặt trước nên toàn câu trả lời cho câu
hỏi Ai thế nào?
Gặp những trường hợp khó xác định đó là kiểu câu gì như câu 1, giáo viên
cần có những gợi mở giúp học sinh phát hiện và đi đến kết luận đầy đủ, đúng
9



đắn. Như vậy các em cũng dễ dàng khắc sâu kiến thức và vận dụng linh hoạt
trong khi làm bài.
Biện pháp 4 . Hướng dẫn học sinh nắm vững ghi nhớ về mỗi kiểu câu kể.
Để xác định đúng kiểu câu kể, trước tiên học sinh phải học thuộc ghi nhớ,
nhớ được những điều kiện cần thiết làm cơ sở cho việc xác định đó là kiểu câu
kể gì? Vì vậy, trong mỗi tiết luyện từ và câu, sau khi tổ chức cho học sinh khai
thác ngữ liệu, khái quát các vấn đề, tôi thường cho học sinh tự rút ra ghi nhớ
theo cách hiểu của các em. Sau đó đối chiếu ghi nhớ trong sách giáo khoa để bổ
sung cho đầy đủ [ 5] . Giáo viên gọi 2- 3 học sinh nêu lại ghi nhớ đồng thời học
sinh khác nhẩm thuộc , gọi học sinh nào đã thuộc ghi nhớ xung phong đọc trước
lớp, giáo viên tuyên dương, khen ngợi những học sinh này, đối với những học
sinh nổi trội, giáo viên yêu cầu các em tự lấy ví dụ minh họa nội dung ghi
nhớ.Trong mỗi tiết học về các kiểu câu kể, tôi thường mô phỏng nội dung cần
ghi nhớ theo sơ đồ sau;
Câu kể Ai làm gì?
( gồm 2 bộ phận)
Chủ ngữ
trả lời câu hỏi Ai (cái gì? Con gì ?)

Vị ngữ
( trả lời câu hỏi làm gì?)

Sau khi học xong cả 3 kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì? Tơi yêu
cầu học sinh dựa vào ghi nhớ và tự kẻ lại sơ đồ về mỗi loại câu , sau đó so sánh
những điểm giống và khác nhau giữa các kiểu câu kể. Học sinh sẽ dễ dàng phát
hiện điểm giống nhau là : cả 3 kiểu câu kể đều có hai bộ phận : chủ ngữ và vị
ngữ ; bộ phận chủ ngữ đều trả lời cho câu hỏi Ai ( con gì? cái gì?) và điểm khác
nhau là vị ngữ trong câu Ai làm gì ? trả lời câu hỏi làm gì ? vị ngữ trong câu Ai

thế nào ? trả lời cho câu hỏi thế nào ? vị ngữ trong câu hỏi Ai là gì ? trả lời câu
hỏi là gì ? [2]
Cuối cùng giáo viên chốt kết quả đúng bằng cách treo bảng phụ kẻ sơ đồ sau :
Câu kể Ai làm gì ?
Gồm hai bộ phận

Chủ ngữ
(Trả lời
Ai, con
gì ? cái
gì ?

Vị ngữ
(Trả lời
câu hỏi
làm gì )

Câu kể Ai thế nào ?
Gồm hai bộ phận
Chủ ngữ
(Trả lời Ai,
con gì ?
cái gì ?

Vị ngữ
(Trả lời
câu hỏi
thế nào )

Câu kể Ai là gì ?

Gồm hai bộ phận

Chủ ngữ
(Trả lời
Ai, con
gì ? cái
gì ?

Vị ngữ
(Trả lời
câu hỏi
là ai, là
cái
gì ? )

10


Biện pháp 5. Hướng dẫn học sinh so sánh vị ngữ của 3 kiểu câu Ai làm gì ?
Ai thế nào ? Ai là gì ?
Từ việc nhận ra sự khác nhau của vị ngữ trong 3 kiểu câu kể nói trên, GV
tiếp tục giúp các em nhận thức sự khác nhau rõ rệt về vị ngữ trong 3 kiểu câu kể.
Tuy nhiên, trước khi khắc sâu sự khác biệt này, một yêu cầu quan trọng là giúp
HS biết xác định đúng chủ ngữ - vị ngữ, tôi thường cho các em đặt câu hỏi cho
mỗi bộ phận hoặc xây dựng một hệ thống câu hỏi mở. Chẳng hạn, xác định chủ
ngữ - vị ngữ của câu kể Ai thế nào? sau đây :
« Khi chạy trên mặt đất, nó giống con ngỗng cụ nhưng nhanh nhẹn hơn
nhiều. »
Hỏi : Tìm từ ngữ trả lời câu hỏi Con gì giống con ngỗng cụ nhưng nhanh nhẹn
hơn nhiều ?( ‘Nó’- tức con đại bàng đã nói ở các câu trên).

Hỏi : Vậy trả lời cho câu hỏi ‘ con gì:? là bộ phận nào?( Bộ phận chủ ngữ)
- Tương tự, giáo viên hỏi : từ ngữ nào trả lời cho câu hỏi : Nó như thế nào ?
( giống con ngỗng cụ nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều)
- Hỏi : Trả lời cho câu hỏi như thế nào là bộ phận gì ? ( Bộ phận vị ngữ)
Tiếp sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày theo mẫu sau :
Khi chạy trên mặt đất, nó / giống con ngỗng nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều.
CN
VN
Làm mẫu một câu như vậy, các câu khác, học sinh có thể làm được. Đối với
cụm từ ‘khi chạy trên mặt đất’, nếu giáo viên không đặt những câu hỏi như trên
để học sinh xác đinh chủ ngữ - vị ngữ thì sẽ có nhiều học sinh nhầm cụm từ này
là chủ ngữ vì các em chưa học thành phần phụ trạng ngữ. Khi đó, GV lưu ý học
sinh về dấu hiệu hình thức giữa chủ ngữ và vị ngữ khơng có dấu phẩy ngăn
cách, cụm từ này là một bộ phận phụ của câu chúng ta sẽ học sau.
Khi học sinh đã có kĩ năng xác định chủ ngữ - vị ngữ trong câu, trong các
tiết học về vị ngữ của mỗi kiểu câu, GV tiếp tục khắc sâu ghi nhớ về bộ phận vị
ngữ bằng sơ đồ sau :
Chỉ (hay biểu thị)…
Vị ngữ trong câu kể
(…)

Do…

Với mỗi bài dạy về vị ngữ của các kiểu câu kể, tôi thường viết nội dung ghi
nhớ theo kiểu sơ đồ trên. Sau khi học xong ba kiểu câu kể, tôi chỉ cần vẽ sơ đồ
khái quát trên đây và yêu cầu học sinh nêu nội dung của mỗi vị ngữ ứng với mỗi
kiểu câu là HS dễ dàng nhớ và nêu được nội dung cần nhớ, cụ thể như sau:

11



Chỉ hoạt động của người, vật.
Vị ngữ trong câu kể Ai
làm gì?

Vị ngữ trong câu kể Ai
thế nào?

Vị ngữ trong câu kể Ai
là gì?

Do động từ, cụm động từ tạo thành.

Chỉ đặc điểm,tính chất, trạng thái của sự
vật
Do động từ, tính từ, cụm động từ, cụm
tính từ tạo thành.
Chỉ nội dung dùng để giới thiệu, nối với
chủ ngữ bằng từ “ là”
Do danh từ, cụm danh từ tạo thành.

Để khắc sâu hơn sự khác nhau giữa vị ngữ của ba kiểu câu kể trên và cũng là
sự khác nhau của các kiểu câu kể, GV có thể chỉ rõ 2 căn cứ để phân biệt:
Thứ nhất: dựa vào nội dung, ý nghĩa ( tức là nội dung biểu thị câu vị ngữ trong
mỗi kiểu câu kể).
Câu Ai làm gì? Chỉ hoạt động

Vị ngữ

Câu Ai thế nào? Chỉ đặc điểm, tính

chất, trạng thái.
Câu Ai là gì? Chỉ nội dung để giới thiệu,
nối với CN bằng từ “ là”

Thứ hai : Dựa vào từ loại :
Câu Ai làm gì? Do động từ, cụm động từ
tạo thành.
Vị ngữ

Câu Ai thế nào? Do động từ, tính từ, cụm
động từ, cụm tính từ tạo thành.
Câu Ai là gì? Do danh từ, cụm danh từ tạo
thành
12


Nhìn vào sơ đồ trên, ta thấy giữa vị ngữ trong câu Ai làm gì? Và câu Ai thế
nào? Có điểm giống nhau là chúng đều do động từ, cụm động từ tạo thành. Vì
vậy, GV lưu ý HS vị ngữ trong câu Ai làm gì? Do động từ cụm động từ tạo
thành biểu thị hoạt động của sự vật, còn vị ngữ trong câu Ai thế nào? Do động
từ, cụm động từ tạo thành biểu thị trạng thái của sự vật.
Ví dụ: Xác định kiểu câu kể của câu sau đây:
Sơng thơi vỗ sóng dồn dập vơ bờ như hồi chiều.
- Chủ ngữ là: sông
- Vị ngữ là:
thôi vỗ sóng dồn dập vơ bờ như hồi chiều.
Đây là câu kể Ai thế nào? Song rất nhiều học sinh nhầm lẫn xác định đây
là câu kể kiểu Ai làm gì? Vì các em cho rằng vị ngữ ‘ thơi vỗ sóng dồn dập vơ
bờ như hồi chiều’ là cụm động từ biểu thị hoạt động( vỗ sóng).Tuy nhiên, động
từ trung tâm của cụm trên là từ “thôi” ( chỉ trạng thái của sự vật).

Trong trường hợp khó xác định kiểu câu kể như câu văn trên, GV có thể
đưa ra dẫn chứng để minh họa. Chẳng hạn: Hãy xác định kiểu câu kể của hai câu
sau:
Câu 1: Sông thôi vỗ sóng dồn dập vơ bờ như hồi chiều.
Câu 2: Sơng vỗ sóng dồn dập vơ bờ như hồi chiều.
Bên cạnh việc đưa ra hai câu kể trên đây, GV có thể giúp học sinh phân tích
để hiểu nghĩa “ thơi vỗ sóng” đối lập với “ vỗ sóng”. Từ đó, HS sẽ nhận định
một lần nữa câu 1 là câu kể kiểu Ai thế nào? Câu 2 là câu kể kiểu Ai làm gì? Và
khơng cịn phân vân khi kết luận câu “ sơng thơi vỗ sóng vơ bờ như hồi chiều’ là
câu kể Ai thế nào?
- Trong 3 kiểu câu kể được học, dựa vào dấu hiệu hình thức học sinh dễ nhận
biết nhất là câu kể kiểu Ai làm gì? vì trong câu này thường có từ “là” thường
nối giữa chủ ngữ và vị ngữ. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý học sinh nhưng
câu kể Ai là gì? Dùng để nhận định cũng có khi từ “là” không phải là chiếc cầu
nối giữa chủ ngữ và vị ngữ mà nó nằm trong bộ phận vị ngữ như câu sau:
Cả hai ông// đều không phải là người Hà Nội.
CN
VN
Đặc biệt, Gv lưu ý học sinh có những câu văn có từ “là” song khơng phải là
câu kể Ai là gì?. Chẳng hạn câu:
Tàu nào// có hàng cần bốc//là cần trục//vươn tới.
CN 1
VN 1
CN 2
VN 2
Các bộ phận chủ ngữ, vị ngữ của câu này không trả lời cho câu hỏi Ai là gì?.Từ
“là” ở đây chỉ dùng để nối hai vế câu( giống như từ “thì”). Nó đều tả một sự việc
có tính quy luật : hễ cần bốc hàng là cần trục có mặt.
Biện pháp 6. Giáo viên linh hoạt khi đặt câu hỏi và khẳng định kết quả trả
lời của học sinh.

Trong việc khai thác ngữ liệu, đôi khi giáo viên cần chẻ nhỏ hoặc mềm hóa
các câu hỏi trong SGK, cũng có khi cần đặt những câu hỏi có tính khái qt,
tổng hợp. Bên cạnh đó, GV cần vận dụng các câu hỏi linh hoạt với từng đối
tượng học sinh khi khai thác ngữ liệu hoặc tổ chức luyện tập. Chẳng hạn, câu
13


hỏi 3 (phần nhận xét- bài “câu kể Ai làm gì? ”- trang 6- Tiếng Việt 4- Tập 2) yêu
cầu học sinh nêu ý nghĩa của bộ phận chủ ngữ. GV có thể thay thế bằng câu
hỏi : chủ ngữ chỉ gì ?( chỉ người hoặc con vật, cây cối…). Từ đó, GV khái quát :
chủ ngữ của câu kể Ai làm gì ? thường chỉ người, con vật, cây cối…
Hoặc ở bài “ Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào ?” có câu hỏi : Vị ngữ trong các
câu trên biểu thị nội dung gì ?( trang 29- Tiếng Việt 4 tập 2). GV chuyển thành
câu hỏi : Vị ngữ trong các câu trên chỉ gì? ( Sau khi HS trả lời GV gợi mở để HS
khái quát. Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào ? thường chỉ ( hay thường biểu thị)
đặc điểm, tính chất, trạng thái của sự vật.
Mỗi khi đặt câu hỏi, HS trả lời, GV chưa vội khẳng định ngay kết quả trả
lời đó là đúng hay sai mà có thể thử nghiệm kết quả của 2-3 học sinh để các em
có thời gian ngẫm xem kết quả trả lời của mình như vậy đã đúng chưa ? Thực tế,
nhiều HS khi trả lời câu hỏi mà không hiểu trả lời như vậy là đúng hay sai do
các em không tập trung chú ý nghe giảng, khi GV gọi trả lời, được bạn khác
nhắc, các em liền trả lời theo ý của bạn. Vì vậy, tơi thường kiểm tra việc nắm bài
của học sinh bằng cách đối chiếu kết quả. Ai đồng ý với ý kiến của bạn A ? Ai
đồng ý với ý kiến của bạn B ?. Cũng có lúc hơn 90% số học sinh đồng ý với một
ý kiến sai do em HS trả lời câu hỏi đó là một HS nổi trội, còn ý kiến đúng lại là
của một em HS có học lực bình thường. Điều đó cho thấy việc nắm kiến thức
của các em chưa chắc chắn mà phần nào còn dựa vào cảm quan : Cứ bạn nào
học nổi trội là luôn đưa ra ý kiến đúng. Khi gặp trường hợp này, tôi thường dùng
các câu hỏi gợi mở để dần dần học sinh nhân thức đúng vấn đề. Không khẳng
định kết quả đúng, sai trước mà tự các em qua việc trả lời câu hỏi dẫn đến thay

đổi ý kiến và nhận thức đúng vấn đề hơn.
Ví dụ : Bài 1- phần luyện tập trang 37- Tiếng Việt 4- tập 2 : Tìm chủ ngữ của
câu kể Ai thế nào ? trong đoạn văn tả chú chuồn chuồn nước của nhà văn
Nguyễn Thế Hội, trong đó có câu :
“ Cái đầu trịn và hai con mắt long lanh như thủy tinh”.
Kết quả bài của HS có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tập trung chủ yếu 2 ý
kiến sau :
1. Cái đầu// tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh.
CN
2. Cái đầu// tròn và hai con mắt// long lanh như thủy tinh.
CN 1
CN 2
Sau khi học sinh trình bày ý kiến xác định chủ ngữ câu trên, GV chưa khẳng
định kết quả đúng.
- Hỏi : Bạn nào đồng ý với ý kiến thứ nhất ?
Bạn nào đồng ý với ý kiến thứ hai ?
- Qua thực tế dạy ở lớp 4B thì có tới hơn 60% học sinh đồng ý với cách xác
định chủ ngữ như ý kiến thứ nhất. Thấy được sự thiếu chính xác đó, GV đưa ra
hệ thống câu hỏi :
+ Hỏi : Câu văn trên thông báo mấy ý ? Đó là những ý gì? (2ý : ý1 : cái đầu
tròn ; ý 2 : hai con mắt long lanh như thủy tinh)
14


+ Hỏi : Trong câu trên, tác giả tả cái gì có hình trịn ? Cái gì long lanh như thủy
tinh ?( cái đầu tròn, hai con mắt long lanh như thủy tinh).
+ Hỏi : Bộ phận trả lời cho câu hỏi “ Cái gì ?” gọi là chủ ngữ hay vị ngữ ?
( chủ ngữ)
+Hỏi : Vậy câu trên có mấy chủ ngữ ? (2 chủ ngữ là : cái đầu và hai con mắt).
Lúc đó GV mới kết luận : ý kiến thứ hai là đúng, ý kiến thứ nhất xác định

chưa đầy đủ.
Biện pháp 7. Hướng dẫn học sinh luyện viết đoạn văn có câu kể.
Đây là hoạt động quan trọng giúp HS có kĩ năng thành thạo khi biết vận
dụng những hiểu biết để viết thành văn bản. Để giúp HS viết đúng đoạn văn có
kiểu câu kể theo yêu cầu đề bài, GV thường giúp HS nắm chắc yêu cầu đề bài,
hình dung ra nội dung đoạn văn sẽ viết, sau đó lựa chọn viết câu mở đoạn, chọn
cách kết đoạn thể hiện được suy nghĩ, cảm xúc của mình. Các câu cịn lại phải
vừa đảm bảo u cầu đề bài, vừa mang tính lơgíc.
Ví dụ : Bài tập 3 – trang 16- Tiếng Việt 4- Tập 2 :
Viết một đoạn văn khoảng 5 câu kể về cơng việc trực nhật lớp của tổ
em.Trong đó dùng câu kể Ai làm gì ?. Đầu tiên, GV cho HS đọc thầm, xác định
yêu cầu đề bài, tự gạch dưới từ ngữ quan trọng của đề bài, gọi 1 HS đọc to yêu
cầu đề bài. Tiếp theo, GV cho HS suy nghĩ viết câu mở đoạn, lưu ý HS cần mở
đoạn thường có tính khái qt (chẳng hạn : Hàng tuần, cứ vào thứ 2 là tổ em
làm cơng việc quen thuộc, đó là trực nhật lớp). Sau đó, GV đặt câu hỏi gợi mở
để học sinh có hướng kết đoạn đúng. ( Chẳng hạn sau khi trực nhật lớp xong,
em thấy lớp học như thế nào ? hoặc vì sao em thấy vui khi lớp học sạch sẽ?).
Phần thân đoạn, GV đặt câu hỏi có dạng như : Em đã làm những việc gì ? Mỗi
bạn trong tổ đã làm những việc gì ? Cuối cùng, GV gọi 2-3 HS đọc kết quả bài
làm, chỉ rõ câu kể Ai làm gì ? trong đoạn văn. GV và cả lớp nhận xét, bổ sung,
khen ngợi HS có đoạn văn viết hay. Với trình tự như trên, nhiều học sinh viết
đoạn văn tuy chưa thật là xuất sắc nhưng đúng với u cầu đề bài, có bố cục rõ
ràng.
Ví dụ : Bài viết của em Vũ Thị Phương Linh, lớp 4B như sau :
Sáng hôm qua là phiên tổ em trực nhật, vì thế cả tổ ai cũng đi học sớm hơn
mọi ngày.Theo sự phân công của tổ trưởng chúng em bắt tay vào làm việc. Hai
bạn Hằng và Vi quét thật sạch nền lớp. Bạn Trang lau chùi bàn cô giáo và bảng
đen, giặt khăn lau. Hai bạn Hùng và Nam kê lại bàn ghế. Em lấy chổi lông gà
quét thật sạch bụi trên bàn ghế và tủ sách cuối lớp. Bạn Tùng tổ trưởng quét
hành lang, bậc thềm. Chỉ một lúc sau, chúng em đã làm xong mọi việc.

Cũng tương tự cách hướng dẫn trên đây, học sinh làm bài tập 2- trang 37
SGK Tiếng Việt 4 tập 2 : Viết một đoạn văn khoảng 5 câu về một loại trái cây
mà em thích trong đoạn văn có sử dụng một số câu kể Ai thế nào ? em Đoàn
Thị Anh Thư lớp 4B đã viết ;
Mùa hè là mùa của biết bao loại trái cây thơm mát, ngọt lành. Mùa hè tặng
cho con người nhiều loại quả nhưng em thích ăn quả mít nhất. Quả mít khi chín
chắc nịch, to, trịn như cái thúng. Lớp vỏ bên ngoài màu nâu sẫm với những cái
15


gai chi chít. Trơng xa, trái mít giống một con nhím lớn vậy. Bên trong lớp vỏ
mít xù xì là những múi mít vàng ương như mật. mỗi khi mẹ bổ mít, hương mít
thơm lừng tràn ngập cả căn nhà. Em thích ăn mít vì mít vừa ngon, vừa bổ.
Và với cách hướng dẫn trên, cịn có nhiều bài viết khác của học sinh đã để
lại cho tôi ấn tượng sâu sắc; thâm tâm tôi thấy mừng khi dạy cho học sinh xác
định các kiểu câu kể còn giúp các em viết bố cục một đoạn văn có kỹ năng viết
đoạn văn giàu hình ảnh và giàu cảm xúc.
Biện pháp 8. Tăng cường kiểm tra, đánh giá học sinh
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh vô cùng quan trọng. Vì có thường
xun đánh giá thì mới biết được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh
để điều chỉnh hình thức và phương pháp cho phù hợp. Biết được sự tiến bộ của
từng học sinh trong từng tiết dạy.
Ví dụ : Việc xác định kiểu câu của con chưa chính xác, con cần đọc kĩ, xác
định đúng đối tượng trong câu, đặt câu hỏi cho từng bộ phận .
Hình thức đánh giá là giáo viên đánh giá bằng lời trực tiếp với từng học
sinh, uốn nắn sửa cho học sinh từng chi tiết nhỏ trong bài làm. Đánh giá bằng
nhận xét viết vào vở thông qua kết quả làm bài của học sinh. Ngoài ra giáo viên
cần tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích để học sinh được tham gia đánh giá
lẫn nhau.
Đánh giá sau mỗi bài học tôi thường ra đề kiểm tra cho học sinh làm sau đó

tơi thu bài đánh giá kết quả để nắm bắt những kĩ năng học sinh còn chưa đạt để
tổ chức rèn luyện thêm.

16


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với việc nâng cao chất lượng
dạy- học các kiểu câu kể ở khối 4 của trường tiểu học Nga Điền 1.
Sau khi áp dụng đồng bộ các biện pháp được nêu ở trên thì bản thân đã rất
tự tin và khơng còn lúng túng trong việc tổ chức dạy học các bài về ba kiểu câu
kể này.
Về học sinh, đa số học sinh đã nắm vững khái niệm câu kể và câu kể thường
dùng để tả, giới thiệu hoặc nói lên ý kiến, tâm tư, tình cảm của mỗi người, nắm
được khái niệm của ba kiểu câu kể này và hiểu rõ bản chất của từng kiểu câu
kể. Đó là: Bản chất của câu kể Ai làm gì ? là dùng để kể về hoạt động của
người, động vật hoặc đồ vật( được nhân hóa). Bản chất của câu kể Ai thế nào ?
là dùng để miêu tả về đặc điểm, tính chất hoặc trạng thái của người, vật. Bản
chất của câu kể Ai là gì ? là dùng để giới thiệu hoặc nêu nhận định về người,
vật. Học sinh đã nắm chắc khái niệm so với ban đầu.
Dựa vào sơ đồ về mỗi loại câu, đa số HS đã dễ dàng phát hiện điểm giống
nhau là : cả 3 kiểu câu kể đều có 2 bộ phận : chủ ngữ và vị ngữ ; bộ phận chủ
ngữ đều trả lời cho câu hỏi Ai( con gì ? Cái gì ?), và điểm khác nhau là vị ngữ
trong câu Ai làm gì ? trả lời cho câu hỏi làm gì ? Vị ngữ trong câu Ai thế nào trả
lời cho câu hỏi thế nào ? Vị ngữ trong câu hỏi Ai là gì ? trả lời cho câu hỏi là
gì ?. Đa số học sinh vẽ được sơ đồ khái quát nội dung của mỗi vị ngữ ứng với
mỗi kiểu câu, từ đó học sinh phân biệt được chính xác các kiểu câu kể đó. Đa số
học sinh đã biết dựa vào 2 căn cứ để phân biệt các kiểu câu kể, đó là : Dựa vào
nội dung ý nghĩa ( tức là nội dung biểu thị của vị ngữ trong mỗi kiểu câu kể).Và
dựa vào từ loại ( tức là do từ loại nào hay cụm từ loại nào tạo thành). Trong
giao tiếp học sinh nhạy bén, tự tin, nói năng, diễn đạt câu chuẩn hơn.

*Kết quả khảo sát đến thời điểm tháng 3 năm 2021 của hai lớp 4A và 4B
như sau.
Gồm 3 bài tập :
Bài 1 : Phân biệt 3 kiểu câu ( bằng cách nêu định nghĩa, ví dụ về từng kiểu câu)
Ai làm gì ?
Ai thế nào ?
Ai là gì ?
Định nghĩa
Ví dụ
Bài 2 : Tìm 3 kiểu câu kể nói trên trong đoạn văn sau. Nói rõ tác dụng của từng
kiểu câu kể.
Bấy giờ tơi còn là một chú bé lên mười. Mỗi lần đi cắt cỏ, bao giờ tơi cũng
tìm bứt một nắm cây mía đất, khoan khối nằm xuống cạnh sọt cỏ đã đầy và
nhấm nháp từng cây một. Buổi chiều ở làng ven sơng n tĩnh một cách lạ lùng.
Theo Trần Hịa Bình
Bài 3 ; Hãy viết một đoạn văn ngắn về bác sĩ Ly trong truyện Khuất phục tên
Cướp biển đã học. Trong đoạn văn, có sử dụng ba kiểu câu kể nói trên [6]
Sau khi chấm bài tơi nhận thấy :
Ở bài 1, đa số học sinh nêu được định nghĩa về ba kiểu câu kể và nêu được
ví dụ đúng với mỗi câu, tuy nhiên cũng có nhiều học sinh lớp 4A nêu định nghĩa
chưa thật đầy đủ.
17


Ở bài 2, đa số học sinh lớp 4B đã xác định đúng được câu thứ nhất là kiểu
câu Ai là gì ? và có tác dụng giới thiệu nhân vật ‘tơi’, câu thứ hai là kiểu câu Ai
làm gì ? và có tác dụng kể các hoạt động của nhân vật ‘tôi’ , câu thứ ba là kiểu
câu Ai thế nào ? có tác dụng kể về đặc điểm, trạng thái của buổi chiều của làng
ven sông.
Bài 3. Đa số học sinh viết được đoạn văn và có sử dụng ba kiểu câu kể, tuy

nhiên nhiều học sinh lớp 4A viết đoạn văn còn lủng củng, liên kết chưa chặt chẽ.
Thống kê kết quả như sau
Lớp
Sĩ số
Hồn
Hồn
Chưa
thành
thành
hồn
tốt
thành
SL
TL
SL
TL
4A
27
10
37%
13
48,2%
4
14,8%
4B
28
18
64,3%
10
35,7%

0
Nhìn vào kết quả khảo sát ở hai lớp 4B và 4A đã thấy có sự khác biệt rõ
ràng. Lớp 4A( Lớp khơng thực nghiệm) vẫn cịn 4 học sinh chưa hồn thành, lớp
4B (Lớp tơi thực nghiệm) khơng cịn học sinh chưa hoàn thành, hơn nữa tỉ lệ
học sinh hoàn thiện tốt ở lớp 4B tăng cao. Như vậy, sau khi áp dụng các biện
pháp như đã nêu trên thì chất lượng dạy- học các kiểu câu kể lớp 4B đã có
chuyển biến rõ rệt, học sinh nắm, vận dụng bài học rất tốt, khơng cịn học sinh
chưa hồn thành. Tơi rất mừng vì sau một thời gian bản thân tơi cùng với đồng
nghiệp đã nghiên cứu, trao đổi, thảo luận và thực nghiệm cùng tìm ra giải pháp
để nâng cao chất lượng dạy- học các kiểu câu kể cho học sinh lớp 4 trường tiểu
học Nga Điền 1 nói chung và lớp 4B của tơi nói riêng, góp phần nâng cao chất
lượng dạy- học môn Tiếng Việt trong nhà trường năm học 2020- 2021
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Dạy luyện từ và câu trong đó có nội dung dạy về câu kể có vẻ như khơ
khan, song nếu chúng ta khai thác đầy đủ các khía cạnh về câu kể sẽ thấy dạy và
học câu kể có nhiều điều lí thú. Trong khn khổ sáng kiến này, tơi mong muốn
đóng góp một số kinh nghiệm nhỏ khi dạy cho học sinh lớp 4 xác định đúng các
kiểu câu kể, phận biệt được các kiểu câu kể và sử dụng linh hoạt, chính xác
trong giao tiếp hằng ngày cũng như viết văn của học sinh. Giúp học sinh xác
định đúng các kiểu câu kể trong một đoạn văn là một việc làm địi hỏi tính khéo
léo, linh hoạt trong tổ chức hoạt động dạy- học.
Nếu áp dụng đồng bộ các biện pháp được nêu trong sáng kiến kinh nghiệm
này thì giáo viên sẽ rất tự tin và khơng cịn lúng túng trong việc tổ chức dạy học
các bài về ba kiểu câu kể này, còn học sinh sẽ hiểu rõ được bản chất của từng
kiểu câu kể, nhận diện đúng được từng kiểu câu kể và sử dụng chính xác được
các kiểu câu kể này trong việc đặt câu viết văn cũng như diễn đạt những mong
muốn, ý kiến, tâm tư, tình cảm của cá nhân.
Trong khn khổ và thời gian có hạn, sáng kiến kinh nghiệm này mới nêu
lên được một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy- học các kiểu câu kể cho

18


học sinh đại trà lớp 4. Sáng kiến này có thể phát triển và chuyên sâu thêm để vận
dụng trong công tác bồi dưỡng cho những học sinh nổi trội, học sinh có năng
khiếu mơn Tiếng Việt.
2. Kiến nghị.
- Đối với giáo viên:
+ Nắm vững nội dung kiến thức về câu, câu kể, các kiểu câu kể trong chương
trình Tiếng Việt; nắm vững đặc điểm đối tượng học sinh.
+ Chuẩn bị kĩ lưỡng bài dạy trước khi lên lớp.
+ Phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt, đồng bộ các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học để mỗi tiết dạy đạt được chất lượng cao nhất.
+ Nghiên cứu kĩ SGK và các tài liệu hướng dẫn giảng dạy.
+ Không ngừng học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp và tự tích lũy kinh nghiệm
cho bản thân.
Đối với nhà trường: tăng cường thao giảng, dự giờ, hội thảo về nội dung
mới, nâng cao chất lượng dạy- học về câu, câu kể, các kiểu câu kể trong Tiếng
Việt
Đối với Phòng giáo dục& đào tạo; tổ chức các hội thảo chuyên đề về các biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy- học về câu kể, các kiểu câu kể trong Tiếng
Việt để giáo viên được trao đổi, học hỏi, chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm
nhằm nâng cao chất lượng dạy- học các kiểu câu kể.
*Trên đây là một số biện pháp dạy học các kiểu câu kể cho học sinh lớp 4
có hiệu quả cao. Sau khi nghiên cứu và áp dụng vào thực tế, tơi thấy học sinh có
những tiến bộ vượt bậc.
Hồn thành được đề tài này, tơi được sự giúp đỡ của các đồng chí trong Ban
giám hiệu nhà trường, các đồng chí trong tổ chun mơn và các bạn đồng
nghiệp. Mặc dù bản thân đã có cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong được sự góp ý của các đồng chí để đề tài này

hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nga Điền ngày 15 tháng 3 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Tơi xin cam đoan SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết.
Phạm Thị Hạnh

Mai Thị Hoa

19


V. DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Mai Thị Hoa
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Nga Điền I

TT
1.
2.

3.
4.

Tên đề tài SKKN

Sử dụng đồ dùng dạy học
môn TNXH lớp 2
Rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 5 qua phân mơn kể
chuyện
Sử dụng một số trị chơi học
tập khi dạy mơn tốn lớp 3
Hướng dẫn học sinh giải tốn
có lời văn lớp 4

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
Ngành GD cấp
huyện.
Ngành GD cấp
huyện
Ngành GD cấp
huyện.
Ngành GD cấp
huyện.

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
C


2010- 2011

B

2013- 2014

B

2015 - 2016

B

2018- 2019

Năm học
đánh giá xếp
loại

20


IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng việt ở Tiểu học ( Lê Hữu Thỉnh –
Trần Mạnh Hưởng)
[2].Mấy vấn đề về lí luận và phương pháp dạy học từ ngữ Tiếng việt trong
nhà trường( Nguyễn Đức Tôn)
[3]. Sách giáo khoa Tiếng việt 4 tập 1, 2
[4]. Sách giáo viên Tiếng việt 4 tập 1, 2.
[5]. Tạp chí giáo dục (nhiều số)

[6].Tiếng việt nâng cao 4

21



×