Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Đạo hiếu và giáo dục đạo hiếu cho thế hệ trẻ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.04 KB, 4 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 1 tháng 5/2018, tr 257-260

ĐẠO HIẾU VÀ GIÁO DỤC ĐẠO HIẾU CHO THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY
Nguyễn Thị Lên - Trường Trung cấp Xây dựng Hà Nội
Ngày nhận bài: 12/03/2018; ngày sửa chữa: 21/03/2018; ngày duyệt đăng: 23/04/2018.
Abstract: Based on the small agro-economy, village structure and indigenous culture, filial piety
in Vietnam is formed and expressed profoundly. The article mentions the foundations of filial piety
in Vietnam by exploring the cult of filial piety in traditional society and teaching filial piety to
Vietnamese young generation today.
Keywords: Filial piety, religion, establishment basis.
1. Mở đầu
Đạo làm người là triết lí nhân sinh, thể hiện thái độ,
hành vi mỗi người cần phải thực hiện trong quan hệ ứng
xử với người khác. Trong gia đình, đạo cha con yêu cầu
cha phải thương con, con phải hiếu với cha; đạo vợ chồng
yêu cầu vợ chồng phải thuận hòa, chung thủy. Trong bất
kì chế độ xã hội nào, từ gia đình truyền thống đến gia
đình hiện đại, “Hiếu” ln được xác định là nết đầu trong
trăm nết, là giá trị hàng đầu của đạo làm người. Bài viết
trình bày một số nội dung về đạo Hiếu và giáo dục đạo
Hiếu cho thế hệ trẻ hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm “Hiếu”
Ở góc độ văn tự, chữ “Hiếu” được cấu thành từ bộ
“lão” (viết lược nét, nghĩa là “người cao tuổi”) ở trên và
bộ tử (nghĩa là “con”) ở dưới. Hàm ý tượng hình của chữ
“Hiếu” là chỉ hình ảnh một người con cõng cha (mẹ) già.
Từ góc độ triết học, Hiếu là một phạm trù đạo đức, thuộc
về một hình thái ý thức xã hội. Do đó, sự hình thành và


phát triển của đạo Hiếu luôn chịu sự quy định của tồn tại
xã hội và sự tác động của các hình thái ý thức xã hội khác.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Hiếu là có lịng kính u,
hết lịng chăm sóc cha mẹ” [1; 439]. Với nghĩa đó,
“Hiếu” được thể hiện ở thái độ, hành vi quan tâm, chăm
sóc chu đáo của con cái đối với cha mẹ - người đã có
cơng sinh thành và ni dưỡng mình nên người. Theo
Hoàng Thúc Lân, đạo Hiếu là một trong những giá trị đạo
đức căn bản, là tiêu chuẩn và thước đo nhân cách của con
người; là ý thức, tư tưởng, tình cảm và nguyên tắc hành
động, ứng xử của con cháu đối với ơng bà, cha mẹ.
2.2. Tìm hiểu đạo Hiếu ở Việt Nam
Mỗi người đều được sinh ra bởi cha mẹ, được cha mẹ
nuôi dưỡng lớn khôn, dạy dỗ nên người. Bởi thế, mỗi
người con, từ trong tâm khảm đều u kính, biết ơn và
mong muốn được đền đáp cơng ơn mẹ cha. Cơng cha,
nghĩa mẹ được ví như “núi Thái Sơn”, “nước trong
nguồn”. theo đạo lí đó, con cái phải “thờ mẹ”, “kính cha”
mới giữ trọn đạo làm con, mới “trịn chữ hiếu”. Như vậy,

có thể nói, cơ sở đầu tiên để hình thành đạo Hiếu ở Việt
Nam xuất phát từ trong tâm khảm mỗi người con, từ lòng
biết ơn công lao sinh thành, dưỡng dục của con cái đối
với cha mẹ.
- Đạo Hiếu ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở
nền kinh tế bản địa. Về mặt kinh tế, với phương thức
canh tác căn bản là trồng lúa nước, do trình độ cịn lạc
hậu nên q trình sản xuất phải trông đợi nhiều vào tự
nhiên “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa,
trông nắng, trông ngày, trông đêm”, mong cho “mưa

thuận, gió hịa” để có mùa màng bội thu, đảm bảo cho
cuộc sống no đủ. Trên nền tảng xã hội đó, con người Việt
Nam thường có xu hướng đồn kết, gắn bó với nhau để
chống lại thiên tai, địch họa và một tạo một sức mạnh
tinh thần vững chãi. Sự gắn bó thể hiện trước hết ở tình
cảm giữa các thành viên trong gia đình ln u thương,
gắn bó, nương tựa vào nhau “trẻ cậy cha, già cậy con”;
thế hệ trước chăm lo, nuôi dạy thế hệ con cháu, thế hệ
sau nối nghiệp tổ tiên, chăm sóc, phụng dưỡng khi ông
bà, cha mẹ già cả, đau ốm. Trước khi qua đời, ơng bà,
cha mẹ cịn trao truyền tài sản thừa tự cho thế hệ sau. Con
cái có ruộng vườn để canh tác, nhà cửa để ở là do tổ tiên,
ông bà, cha mẹ để lại. Đây là cơ sở hình thành lịng biết
ơn và triết lí “hướng về cội nguồn” trong mỗi gia đình
Việt Nam.
Gia đình, dịng họ không tồn tại biệt lập mà tồn tại
trong không gian làng, trong mối quan hệ với nước; vì
thế, đạo Hiếu ở Việt Nam khơng bó hẹp trong quy mơ
gia đình mà mở rộng ra là hiếu với làng, với nước. Trong
nhà có gia phong, gia huấn, dịng họ có gia phả,: trong
làng có hương ước, trong nước có luật pháp... đều những
quy định rất rõ về trách nhiệm thực hiện đạo Hiếu của
con cháu đối với ông bà, cha mẹ và quê hương đất nước.
Mỗi người con, ngoài nghĩa vụ thực hiện chữ Hiếu trong
gia đình, hiếu thảo đối với ơng bà, cha mẹ mà cịn phải ý
thức rõ về nguồn cội, sống sao cho xứng đáng để làm
rạng danh tổ tiên,
Trong xã hội Việt Nam xưa, nhà và làng gắn kết hữu
cơ với nhau, làm tiền đề cho sự tồn tại của nhau trong


257

Email:


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 1 tháng 5/2018, tr 257-260

khung cảnh chung của xã hội nông nghiệp, nông thôn và
nông dân. Về mặt xã hội, trong tâm thức của người Việt
Nam, mỗi làng đều có Thành hồng, có lệ làng và hương
ước. Con người sống trong mỗi làng xã phải biết ơn và
thờ Thành hoàng làng, phải tuân theo lệ làng và hương
ước của làng xã, hình thành nên đạo lí “uống nước nhớ
nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Đặc biệt, hương
ước của làng cũng có những quy định nhắc nhở, bắt buộc
con người phải có hiếu đối với ông bà, cha mẹ.
- Đạo Hiếu Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền
văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong kho tàng văn
hóa truyền thống ấy, tư tưởng về lòng hiếu thảo của con
cháu đối với ông bà, cha mẹ được thể hiện và đề cao như
một giá trị vĩnh hằng. Hàng loạt các truyền thuyết, thần
thoại như: sự tích Bọc trăm trứng, Bánh Chưng - Bánh
Dày, Quả dưa hấu,..., truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên
Dung, Sơn tinh, Thủy tinh, Mỵ Châu - Trọng Thủy... đều
ẩn chứa những nội dung về lòng hiếu thảo, những bài học
về đạo làm người. Đặc biệt, những câu tục ngữ, ca dao,
dân ca là những lời răn dạy vừa ngắn gọn, mộc mạc
nhưng hàm chứa nội dung sâu sắc: “Công cha nặng lắm

ai ơi/ Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”; “Cơng
cha nghĩa mẹ cao dày/ Cưu mang trứng nước những
ngày còn thơ”. Bởi vậy, đạo làm con trước hết phải biết
vâng lời cha mẹ: “Mẹ cha là biển là trời/ Làm sao con
dám cãi lời mẹ cha”; phải nghe lời dạy bảo của cha mẹ
“Con ơi muốn nên thân người/ Lắng tai nghe lấy những
lời mẹ cha”. Chăm sóc phụng dưỡng mẹ cha, nếu nghèo
khó thì “Đói lịng ăn hột chà là/ Để cơm ni mẹ, mẹ già
yếu răng”, cịn giàu có thì “Tơm càng lột vỏ, bỏ đuôi/
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già”. Khi khôn lớn trưởng
thành, nếu không sống cùng cha mẹ thì phải “sáng thăm,
tối viếng”, “trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
Đến khi cha mẹ khuất núi thì “Quyết lòng lập miếu chạm
rồng/ Đền ơn phụ mẫu ẵm bồng ngày xưa”. Phận làm
con phải “Một lịng thờ mẹ, kính cha/ Cho tròn chữ hiếu
mới là đạo con”.
- Đạo Hiếu ở Việt Nam ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
đạo Hiếu của Nho giáo, Phật giáo... trong quá trình giao
lưu, tiếp biến văn hóa.
Trong hệ tư tưởng của mình, Nho giáo đặc biệt đề cao
đạo Hiếu trong luân lí đạo đức của con cái đối với cha
mẹ. Hiếu là gốc rễ của nhân luân, khi một người con thực
hiện được đạo Hiếu trong gia đình thì mới có thể làm
được các việc lớn ngồi xã hội. Chăm sóc, ni dưỡng
cha mẹ là việc làm hợp với đạo lí, là trách nhiệm của con
cái. Khổng Tử nói: “Trời sinh ra (người), đất nuôi dưỡng
(người), người to lớn vậy thay. Cha mẹ sinh ra và bảo
toàn cuộc sống cho con; con trở lại bảo tồn cuộc sống
cho cha mẹ, đó có thể gọi là hiếu” [1; tr 78]. Tuy nhiên,
ngồi việc ni dưỡng về mặt vật chất, con cái phải đối


đãi cha mẹ bằng tấm lịng chân thành và kính thuận.
Khổng Tử nói: “Phụng sự tốt cha mẹ, kính thuận là gốc”,
“Ngày nay cho rằng, người có hiếu là có thể ni dưỡng
cha mẹ; đến như chó ngựa cũng đều có thể ni. Nếu
khơng kính thuận thì có khác gì khơng?” [2; tr 72].
Khơng chỉ kính thuận với cha mẹ khi cịn sống, lo lắng,
chăm sóc lúc cha mẹ ốm đau mà ngay cả khi cha mẹ qua
đời, con cái cũng phải tang ma, thờ cúng chu đáo, thành
kính, trang nghiêm: “Ni vui, ở kính, bệnh lo/Tang
thương, tế cẩn sao cho trọn nghì” [3; tr 58]; “Cha mẹ
sống phụng sự cho hợp lễ, cha mẹ chết tống táng cho hợp
lễ, tế cho hợp lễ” [4; tr 4].
Sự hình thành đạo Hiếu ở Việt Nam còn chịu sự tiếp
biến và ảnh hưởng của Phật giáo. Tư tưởng Phật giáo về
đạo Hiếu cũng được thể hiện ở rất nhiều các cuốn Kinh
khác nhau, trong đó, Đức Phật dạy rằng, con người cần
ăn ở hiền lành, tu nhân, tích đức, cứu khổ, cứu nạn;
những việc làm xuất phát từ lịng hiếu thảo mang lại lợi
ích thiết thực cho cha mẹ trong hiện tại và tương lai. Bất
hiếu là tội lớn nhất của mỗi con người. Người nào chẳng
đối xử tốt với cha mẹ của họ, thì khó có thể sống tốt, sống
thiện với người khác được; bất hiếu thì cũng bất nhân.
“Điều thiện tối cao khơng gì hơn hiếu, điều ác cùng cực
khơng gì hơn bất hiếu” (Kinh Nhẫn nhục), “Gặp thời
khơng có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật” (Kinh
Đại tập).
Chữ “Hiếu” trong đạo Phật có nội hàm rất rộng, bao
gồm sự mến u, cung kính, vâng lời, phụng dưỡng khi
cha mẹ cịn sống và thờ phụng, tưởng nhớ khi cha mẹ

đã qua đời. Ở một góc độ khác, hiếu cịn là hướng cha
mẹ đến với điều thiện, lánh xa điều xấu, điều ác; bản
thân người con phải trở thành người tốt để cha mẹ hoan
hỉ, an lạc. Khi cha mẹ qua đời, con cái phải chu toàn
tang lễ cho cha mẹ theo đúng pháp để trịn chữ hiếu với
bậc sinh thành.
Có thể nói, Hiếu là truyền thống đạo đức quý báu của
dân tộc, là tình cảm thiêng liêng của mỗi người con trong
gia đình. Ở Việt Nam, trên cơ sở nền kinh tế tiểu nơng,
kết cấu làng xã và nền văn hóa bản địa, đạo Hiếu được
hình thành và có sự thể hiện khá đậm nét. Tuy nhiên, thời
kì này, đạo Hiếu hồn tồn mang tính dân gian, nó tồn
tại “bàng bạc” trong mọi gia đình, chưa có cơ sở lí luận
hay quy chuẩn nào để phân định, đánh giá. Khi Phật giáo
vào Việt Nam, kinh điển Phật giáo chứa đựng triết lí nhân
sinh và thể hiện đạo Hiếu nhà Phật rất rõ nét đã hòa vào
đạo đức dân tộc, mở rộng, làm thăng hoa truyền thống
hiếu đạo ở Việt Nam. Cùng với Nho giáo, Phật giáo, các
tôn giáo khác cũng luôn coi “Hiếu” với cha mẹ là bổn
phận của con cái. Để làm tròn bổn phận, khi cha mẹ còn
sống, con cái phải vâng theo lời dạy bảo của người, yêu
mến, tơn kính và chăm sóc, phụng dưỡng hai thân; khi

258


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 1 tháng 5/2018, tr 257-260


cha mẹ qua đời phải lo an táng chu tồn. Các dịng tư
tưởng này khi du nhập vào nước ta cũng luôn được tiếp
biến cho phù hợp với truyền thống và bản sắc của con
người Việt Nam, làm phong phú thêm nội hàm tư tưởng
về đạo Hiếu ở Việt Nam.
2.3. Giáo dục đạo Hiếu cho thế hệ trẻ trong giai đoạn
hiện nay
Chữ Hiếu là nền tảng của đạo đức, đem đến sự an vui
trong mỗi gia đình - nền tảng xây dựng nên hạnh phúc,
bình an cho tồn xã hội. Thực hiện đạo Hiếu trong gia
đình sẽ giúp con cái giữ được nền nếp gia phong, phấn
đấu tu dưỡng và phát triển bản thân, làm rạng danh gia
đình, dịng họ và góp phần vào sự ổn định và phát triển
của xã hội. Truyền thống giữ gìn đạo Hiếu được kế thừa
và nâng cao trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người,
phạm trù “Hiếu” khơng cịn bó hẹp trong phạm vi gia
đình mà “Hiếu” cịn gắn với “Trung”: trung với nước,
hiếu với dân, vì nhân dân phục vụ.
Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, trước những thay
đổi nhanh chóng của nền KT-XH và sự hòa nhập với thế
giới ngày càng sâu rộng, bên cạnh những mặt tích cực
cịn có những tiêu cực tác động không nhỏ đến những giá
trị văn hóa, đạo đức trong xã hội. Thực tế đó đòi hỏi phải
tiếp tục khẳng định vai trò của đạo Hiếu trong gia đình
và xã hội, giữ gìn và phát huy đạo Hiếu truyền thống phù
hợp với những điều kiện mới.
2.3.1. Đề cao vai trị của gia đình và giáo dục chữ Hiếu
trong gia đình
Hiếu là sự thể hiện lịng thành kính, biết ơn và lịng
mong muốn làm những việc tốt đẹp đối với ơng bà, cha

mẹ; vì vậy, giáo dục chữ Hiếu từ chính gia đình là có vai
trị rất quan trọng giúp mỗi con người có nền tảng đạo
đức để trở thành một công dân tốt. Bầu không khí của gia
đình, cách ứng xử của mỗi thành viên có ảnh hưởng trực
tiếp tới tâm lí, tình cảm và nhân cách trẻ thơ. Vì vậy, cần
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp từ mỗi thành viên trong gia
đình, các bậc lớn tuổi sống mẫu mực để con cháu noi
theo, vợ chồng hạnh phúc, thương yêu con cái. Đó là mơi
trường đầu tiên có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến sự hình
thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Từ đây, chữ
“Hiếu” được hình thành thơng qua quan hệ huyết thống
bền chặt.
Giáo dục chữ Hiếu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về
mỗi gia đình. Trong gia đình, cần giáo dục đạo Hiếu cho
con trẻ từ lúc chúng còn nhỏ: “dạy con từ thuở còn thơ”,
từ thái độ, lời ăn tiếng nói cung kính lễ phép; biết ơn sinh
thành, dưỡng dục của cha mẹ; quan tâm, chăm sóc ơng
bà, cha mẹ; anh chị em trong nhà phải hịa thuận, kính
trên nhường dưới, giữ gìn gia phong;... Giáo dục con trẻ
hướng về cội nguồn, giữ gìn đạo đức, văn hóa truyền

thống, thể hiện lịng tơn kính, biết ơn đối với tiền nhân
thơng qua thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên. “Hiếu”
không chỉ được thể hiện trong gia đình mà cịn được thể
hiện trong các quan hệ xã hội; mỗi người con hiếu thảo
sẽ là một cơng dân tốt. Vì vậy, cần giáo dục con em có
những ứng xử đúng đạo lí trong gia đình và ngồi xã hội,
tn thủ pháp luật, biết vượt khó, vươn lên trong cuộc
sống; học tập, lao động chuyên cần để đóng góp cho xã
hội, có khát vọng xây dựng, đổi mới đất nước.

2.3.2. Tăng cường giáo dục đạo đức trong nhà trường
Giáo dục đạo đức trong nhà trường đóng vai trị quan
trọng trong việc phát triển nhân cách con người. Vì vậy,
thơng qua nhiều con đường, nhà trường cần giúp học sinh
nhận thức được rằng, ngoài nghĩa vụ thực hiện chữ
“Hiếu” trong gia đình, mỗi học sinh cần chun tâm học
hành, giữ gìn lễ nghi, kính trọng thầy cơ giáo... phấn đấu
trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Với phương châm “dạy chữ, rèn người”, “tiên học
lễ, hậu học văn”, nhà trường có thể kết hợp giáo dục
chữ “Hiếu” thông qua dạy các môn học, nhất là những
mơn có ưu thế như Ngữ văn, Giáo dục công dân; thông
qua các tiết chào cờ đầu tuần, các tiết sinh hoạt lớp,
hoạt động ngoài giờ lên lớp... Có thể tổ chức các
chuyên đề, mời các báo cáo viên nói chuyện về đạo
Hiếu, về truyền thống “tơn sư trọng đạo”... Tăng
cường vai trị của các tổ chức Đồn, Đội trong việc
tuyên truyền, giáo dục học sinh thông qua xây dựng
và thực hiện các nội dung giáo dục theo tháng, các
hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ
nguồn”, các chương trình thiện nguyện như thăm hỏi,
động viên người cao tuổi... khen thưởng hàng năm cho
học sinh giỏi, vượt khó vươn lên trong cuộc sống;
tuyên dương những tấm gương học sinh hiếu thảo...
Giáo viên chủ nhiệm có một vị trí đặc biệt trong giáo
dục đạo đức nói chung, giáo dục chữ “Hiếu” nói riêng
thơng qua mối quan hệ chặt chẽ với gia đình học sinh.
Để giáo dục học sinh có hiệu quả, mỗi thầy cơ giáo
cần rèn luyện để trở thành những tấm gương sáng về
đạo đức.

2.3.3. Kết hợp giáo dục Gia đình - Nhà trường - Xã hội
Gia đình - Nhà trường - Xã hội, mỗi lực lượng có một
ưu thế, phương pháp riêng trong giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ. Sự hợp tác và thống nhất giữa các lực lượng
giáo dục này nhằm tạo nên hiệu quả tích cực cho sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ. Nếu gia đình là
nhân tố đầu tiên xây dựng nền móng đạo Hiếu thì nhà
trường và xã hội lại có trọng trách riêng trong giáo dục
đạo đức, nhân cách cho trẻ, giúp mỗi con người có nền
tảng đạo đức tốt để trở thành những cơng dân có ích.

259


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 1 tháng 5/2018, tr 257-260

Nhà trường và gia đình cần có sự phối hợp chủ động
trong giáo dục trẻ, định hướng các giá trị đạo đức để trẻ
biết phân biệt đúng sai, thiện ác và hình thành các chân
giá trị, giúp trẻ tu dưỡng để trở thành những người con
hiếu thảo trong gia đình, những học trị có phẩm chất tốt,
những cơng dân ưu tú tham gia xây dựng xã hội.
Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã hội ở
địa bàn, phát động các cuộc vận động để nhân rộng mơ hình
“Gia đình văn hóa - Khu phố văn hố”, “Ơng bà mẫu mực,
con cháu thảo hiền”..., xây dựng nền nếp văn hóa khu dân
cư. Cán bộ đồn thể trong địa bàn có vai trị rất quan trọng
trong việc tiếp thu các ý kiến từ nhiều phía về việc chăm sóc,

giáo dục thanh thiếu niên đến việc thực hành đạo Hiếu trong
mỗi gia đình. Giáo dục đạo Hiếu, ngồi việc nêu gương sáng
của những người con hiếu thảo còn rất cần lên án thái độ,
hành vi sai trái, ngược đãi cha mẹ của con cái. Vấn đề này
cần sự chung tay của nhiều lực lượng, từ những đơn vị dân
cư nhỏ nhất đến các xã hội; tận dụng thế mạnh của dư luận,
truyền thông để kịp thời ngăn chặn những hành vi lệch
chuẩn và giúp họ điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn
mực xã hội. Hơn bao giờ hết, sự phối hợp giữa Gia đình Nhà trường - Xã hội trong giáo dục đạo đức là rất cần thiết
và phải được thực hiện thường xuyên, linh hoạt để đem lại
hiệu quả giáo dục cao nhất.
3. Kết luận
Như vậy, nội dung phạm trù “Hiếu” mang ý nghĩa tích
cực, bắt nguồn từ tình cảm và bổn phận của con cái đối với
cha mẹ. Văn hóa Việt Nam truyền thống cũng như các tôn
giáo đều rất đề cao đạo Hiếu, coi việc hiếu thuận với cha mẹ
là bổn phận, trách nhiệm cũng như hạnh phúc của con cái.
Tư tưởng về đạo Hiếu các tơn giáo hịa nhập cùng với nền
văn hóa bản địa, bổ sung, phát triển và làm sâu sắc hơn nội
hàm đạo Hiếu ở Việt Nam. Trước bối cảnh hiện nay, cần
bảo tồn, giữ gìn đạo Hiếu trong gia đình, tương thân, tương
ái, chia sẻ với những khó khăn trong cộng đồng; kế thừa và
phát huy chữ “Hiếu” theo đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh
gắn với việc xây dựng gia đình văn hố đáp ứng u cầu của
xã hội trong giai đoạn mới.
Tài liệu tham khảo
[1] Viện Nghiên cứu ngôn ngữ (2004). Từ điển tiếng
Việt. NXB Đà Nẵng.
[2] Cao Vọng Chi (2014). Đạo Hiếu trong Nho gia.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.

[3] Đồn Trung Cịn - Huyền Mặc Đạo Nhơn (dịch,
2006). Hiếu kinh. NXB Tổng hợp Đồng Nai.
[4] Nguyễn Hiến Lê (dịch, 1992). Luận ngữ. NXB
Văn học.
[5] Nguyễn Nghĩa Dân (2005). Đạo làm người trong tục
ngữ, ca dao Việt Nam. NXB Giáo dục.

[6] Phan Đại Doãn (1999). Một số vấn đề Nho giáo ở
Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia- Sự thật.
[7] Thích Giác Hành (2006). Chữ Hiếu và nếp sống dân
tộc. NXB TP. Hồ Chí Minh.
[8] Trần Ngọc Thêm (2001). Tìm về bản sắc văn hóa
Việt Nam. NXB TP. Hồ Chí Minh.
[9] Hồng Thúc Lân (2015). Từ đạo Hiếu trong Phật
giáo, suy ngẫm về đạo Hiếu trong gia đình Việt Nam
hiện nay. Tạp chí Triết học, số 6; tr 72-75.
[10] Nguyễn Thị Thọ (2011). Xây dựng đạo đức gia
đình ở nước ta hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
[11] Thích Nhật Từ (2013). Chữ Hiếu trong đạo Phật.
NXB Hồng Đức.
[12] Bộ GD-ĐT. Chỉ thị số 71/2008 ngày 23/12/2008 về
tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội
trong cơng tác giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC…
(Tiếp theo trang 275)
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội
đại biểu tồn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1994). Văn kiện Hội nghị

lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khố VIII.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[4] Huỳnh Như Phương (2014). Lí luận văn học (nhập
môn). NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1995). Nghị quyết về một
số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[5] Nguyễn Trọng Chuẩn - Phạm Văn Đức - Hồ Sỹ Quý
(đồng chủ biên, 2001). Tìm hiểu giá trị văn hóa
truyền thống trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[6] Trần Văn Giàu (1980). Giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc Việt Nam. NXB Khoa học xã hội.
[7] Hà Nhật Thăng (2000). Giáo dục hệ thống giá trị đạo
đức nhân văn. NXB Giáo dục.
[8] Phạm Lăng (2001). Giáo dục giá trị nhân văn ở
trường trung học cơ sở (Tài liệu tham khảo dùng cho
giáo viên dạy Giáo dục cơng dân, cán bộ Đồn, Đội,
giáo sinh các trường). NXB Giáo dục.

260



×