Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BÀI TIỂU LUẬN-Giá trị nhân văn của Đạo Phật trong việc xây dựng hệ tư tưởng của thế hệ trẻ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.59 KB, 11 trang )

Tiểu Luận Triết Học
ĐẶT VẤN ĐỀ
Với tư cách là con đường giải thoát mối quan tâm cuối cùng của nhân loại, Phật giáo là một hệ thống
tín ngưỡng, triết học khổng lồ và phức tạp, cũng là một hệ thống giá trị. Đã 2.500 năm nay Phật giáo
trở thành tín ngưỡng tinh thần của hàng trăm triệu dân, quãng thời gian dài đó chứng tỏ sức sống và
giá trị vĩnh hằng của Phật giáo. Song cũng cần thấy là việc tái tạo giá trị, phát huy tác dụng của Phật
giáo trong xã hội tương lai như thế nào vừa là một vấn đề lí luận khó khăn và lớn lao lại vừa là một
vấn đề thực tiễn nghiêm túc và bức thiết.
Giá trị hiện đại của Phật giáo quyết định bởi tác dụng của nó đối với xã hội loài người trong thế kỉ
XXI. Trong khi đạt được những tiến bộ chưa từng có, loài người lại có những biện pháp có thể hủy
diệt trái đất. Kẻ đe dọa sự sinh tồn và phát triển của xã hội loài người cũng chính là loài người. Các
hiện tượng tiêu cực tồn tại trong xã hội hiện nay như khủng hoảng lòng tin, đạo đức bại hoại, mất
lương tâm đang mang lại thời cơ lịch sử chưa từng có để Phật giáo điều chỉnh tâm linh con người, tiến
tới điều chỉnh mối quan hệ người-người, người-thiên nhiên, vì triết học Phật giáo vốn có tư tưởng
chỉnh thể về vũ trụ, tinh thần nhân văn tôn giáo theo đuổi sự siêu việt sinh mệnh.
Sự giao lưu giữa các quốc gia trong một khu vực đã phá vỡ cái thế giới riêng biệt của tâm lý, tư tưởng
của từng dân tộc làm cho tâm lý và tư tưởng đó hòa vào cái chung của khu vực. Việt Nam cũng ở
trong một quá trình như thế. Theo chân các nhà buôn, nhà truyền giáo Ấn Độ, Phật giáo vào nước ta
vào khoảng thế kỷ thứ I và thứ II sau công nguyên. Sau đó, nối gót người Ấn Độ các nhà Phật Giáo
Bắc tông vào. Rồi những người tìm đường sang Trung Quốc, Ấn Độ học Phật trở về cũng muốn tiếp
tục truyền bá Phật Giáo. Bằng những con đường khác nhau đó, Phật giáo đã trờ thành một tôn giáo
chung của nhiều nước Nam Á và Đông Nam Á đến tận bây giờ.
Khi luận giải những vấn đề thế giới quan và nhân sinh quan triết học, Phật giáo đã đề cập tới những
hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép biện chứng, với tư cách là học thuyết triết học về mối
liên hệ phổ biến và sự biến đổi của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học phật giáo và những tư tưởng
biện chứng của nó được thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: Vô ngã, vô thường và luật nhân quả.
Chính vì lý do đó, tôi lựa chọn chủ đề cho bài tiểu luận này là “Giá trị nhân văn của Đạo Phật trong
việc xây dựng hệ tư tưởng của thế hệ trẻ hiện nay”. Trong phạm vi của bài tiểu luận chưa đề cập
toàn bộ những giá trị mà Đạo Phật mang lại và có thể có nhiều thiếu sót, rất mong được sự tham gia
góp ý của Thầy giáo và bạn đọc.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


1. Khái quát về Đạo Phật:
1 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
1.1. Phật giáo xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ cổ đại (nay thuộc Nêpan) vào cuối thế kỷ VI trước Công
nguyên. Khi ấy trong xã hội tình trạng phân chia đẳng cấp rất khắc nghiệt. Sự ra đời của Phật giáo thể
hiện tinh thần phản kháng của những người nghèo, chống lại thuyết bốn đẳng cấp của đạo Bà la môn,
tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
- Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni (nghĩa là ông thánh hay nhà hiền triết của tộc người
Thích Ca). Đây là tên gọi khi thành đạo. Tên thật của Thích Ca Mâu Ni là Siddhartha (Tất Đạt Đa)
nghĩa là “người thực hiện được mục đích”, họ là Gautama (Cù Đàm), vốn là con đầu vua Tịnh Phạn.
Thích Ca Mâu Ni sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 trước công nguyên, và mất năm 483 trước công
nguyên. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả của một thái tử để đi tu, tìm đường diệt
khổ cho chúng sinh. Sau 6 năm, ông đã “ngộ đạo” và trở thành Thích Ca Mâu Ni (35 tuổi). Khi ấy ông
lấy hiệu là Buddha có nghĩa là “người giác ngộ” (Trung quốc dịch là Phật). Người ta gọi ông là Sakya-
muni (Trung quốc dịch là Thích Ca Mâu Ni - nhà hiền triết xứ Sakya).
Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo
Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của Phật giáo là
một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh tạng (ghi lời Phật dạy), Luật
tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao
tăng và học giả sau này).
Về bản thể luận:
Phật giáo đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô thường”
- Vô ngã: Tất cả sự vật, hiện tượng cũng như chính bản thân ta là không có thực. Thế giới (nhất là thế
giới hữu hình - con người) là do sự hợp lại của các yếu tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh ). Đó là 5
yếu tố (ngũ uẩn)
+ Sắc (vật chất )
+ Thụ (cảm giác)
+ Tưởng (ấn tượng )
+ Hành (Tư duy nói chung )
+ Thức (ý thức )

Nhưng Danh và Sắc chỉ tụ hội trong thời gian ngắn rồi chuyển sang trạng thái khác, do vậy “không có
cái tôi” (vô ngã - natman).
- Vô thường: Bản chất sự tồn tại của thế giới là một dòng biến chuyển không ngừng (vô thường).
Không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên, do vậy không có ai tạo ra thế giới và cũng không có gì vĩnh
hằng. Sự biến hiện của thế giới theo chu trình: sinh - trụ - dị - diệt theo luật nhân quả.
Về thế giới quan và nhân sinh quan:
- Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của Upanisa là bộ phận kinh Veda của đạo Bà la môn
phần nói về tri thức. Theo Phật giáo, sự vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác. Quá trình thác
sinh luân hồi đó do nghiệp chi phối theo nhân quả.
- Theo quan niệm của đạo Phật, để đến được sự giải thoát, mọi người phải nhận thức Bốn chân lý
thiêng liêng tuyệt diệu (Tứ diệu đế). Đó là:
+ Khổ đế:
2 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Cái khổ ấy không ngoài 8 nỗi khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly
(yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở gần), sở cầu bất đắc (muốn mà không được), thủ ngũ
uẩn (khổ vì có sự tồn tại của thân xác).
+ Tập đế (Nhân đế)
Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đưa ra “Thập nhị nhân duyên” để chỉ ra nguyên nhân của
sự khổ. Đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
+ Diệt đế: Phật giáo khẳng định có thể tiêu diệt nỗi khổ và chấm dứt luân hồi.
+ Đạo đế: Con đường giải thoát, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vô minh (sự tăm tối, không sáng suốt),
gồm 8 con đường (Bát chính đạo). Đó là:
Chính kiến : hiểu biết đúng.
Chính tư duy: suy nghĩ đúng.
Chính ngữ: giữ lời nói chân chính.
Chính nghiệp : Nghiệp có hai loại là tà nghiệp và chính nghiệp. Tà nghiệp phải sửa, chính nghiệp phải
giữ. Nghiệp có thân nghiệp (do hành động gây ra), khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Chính mệnh: tiết chế dục vọng, giữ điều răn.
Chính tinh tiến: hăng hái truyền bá chân lý của Phật.

Chính niệm: hằng nhớ Phật, niệm Phật.
Chính định: tĩnh tâm, tập trung tư tưởng nghĩ về Tứ diệu đế, vô ngã, vô thường…
Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vô minh, giải thoát, nhập vào cõi niết bàn - Nirvana.
Niết Bàn là trạng thái yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử, luân hồi. Như vậy Phật giáo có tư tưởng
biện chứng, mang tính duy tâm chủ quan.
1.2. Giá trị hiện đại của triết học Phật giáo:
Trong xã hội hiện đại, ba nhóm mâu thuẫn cơ bản: con người với tự ngã, người với người, người với
thiên nhiên có cái đã thay đổi hình thức, có cái lại càng gay gắt hơn. Giá trị của triết học Phật giáo là
ở chỗ các nguyên lí của nó ngày càng được trình bày đầy đủ hơn, và qua sự giải thích có sáng tạo, tác
dụng của nó càng rõ hơn. Vận dụng tư tưởng triết học Phật giáo để làm dịu các mâu thuẫn cơ bản của
xã hội loài người tất sẽ giúp nâng cao tố chất tinh thần loài người, giảm nỗi đau khổ của họ, đáp ứng
các nhu cầu mới của họ, từ đó đẩy mạnh sự chung sống hòa bình và phát triển chung của xã hội loài
người.
1.2.1. Quan tâm tới mâu thuẫn người với tự ngã, nâng cao cõi tinh thần của con người:
Phật giáo dùng đạo giải thoát đời người để luận bàn một cách hệ thống về địa vị của con người trong
vũ trụ, bản chất, giá trị và lí tưởng của con người; trong đó quan điểm vô ngã và quan điểm giải thoát
lại càng là sự chuyển hóa, sự điều tiết tâm lí, sự hoàn mĩ tâm linh đối với quan niệm tự ngã của thế
nhân.
Dựa vào thuyết Duyên khởi muôn vật hòa hợp mà sinh, Phật giáo đề ra quan niệm vô ngã. “Ngã”
trong vô ngã là chỉ cái tự thể (bản thể) thường trú, chỉnh nhất mà có tác dụng chi phối; cái bản thể mãi
mãi không đổi ấy chính là ngã. Phật giáo phủ nhận sự tồn tại của cái ngã có thực thể, của linh hồn, loại
trừ quan niệm hữu ngã. Vô ngã là quan niệm cơ bản của Phật giáo. Nội dung chủ yếu của quan niệm
vô ngã là vô ngã chấp, vô ngã kiến, vô ngã ái, vô ngã mạn, … Ngã chấp là sự chấp trước (bám riết,
không vượt ra được) đối với tự ngã. Ngã kiến là sự chấp trước kiến giải ngông cuồng có thực ngã. Ngã
3 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
ái là sự ái chấp với tự ngã, cũng tức là ngã tham. Ngã mạn là nói tâm thái ngạo mạn lấy tự ngã làm
trung tâm. Do ngã chấp tất nhiên đem lại ngã kiến, ngã ái và ngã mạn. Phật giáo cho rằng ngã chấp là
nguồn gốc của mọi cái ác, cái gốc của phiền muộn; Phật giáo chủ trương vô ngã, vô ngã chấp. Trong
xã hội hiện nay, có người trở thành nô lệ của nhu cầu sinh lí, dục vọng vật chất, tôn thờ chủ nghĩa bái

kim, hưởng lạc, cực đoan cá nhân chủ nghĩa, thậm chí tham ô hủ hóa, trộm cắp buôn lậu, ma túy, mãi
dâm, v.v… Quan niệm vô ngã của Phật giáo giúp làm giảm sự chấp trước với hiện thực, làm phai nhạt
sự hưởng thụ, danh lợi, nâng cao cõi tinh thần.
Thực chất của quan niệm giải thoát là siêu việt ý nghĩa sinh mệnh, là nâng cao cõi tinh thần, khiến cho
con người có thể dùng nhãn quan chung cực lâu dài để khách quan và bình tĩnh suy xét lại quãng
đường đã qua, xem xét các khiếm khuyết của tự thân và không ngừng cố gắng chuẩn mực hóa tự thân.
Phật giáo coi giải thoát là nghiệp báo của cá nhân, là lạc quả mà thiện nghiệp giành được.
1.2.2. Làm hòa dịu mâu thuẫn người với người, gìn giữ hòa bình thế giới:
Mối quan hệ người-người nói ở đây cũng là quan hệ giữa người này với người khác, người với xã hội,
người với dân tộc, người với quốc gia. Mối quan hệ người- người trên thế giới hiện nay có hai vấn đề
chính là: - Xung đột cục bộ diễn ra không dứt, gây ra bởi các nhân tố va chạm lợi ích dân tộc, tôn giáo,
lãnh thổ, tài nguyên, nhân dân một số nơi đang chịu khổ nạn chiến tranh; trong khi vấn đề an ninh
truyền thống chưa được giải quyết thì các vấn đề an ninh phi truyền thống như chủ nghĩa khủng bố lại
ngày một gay gắt; - Phân hóa giàu nghèo Nam - Bắc ngày càng mở rộng, khá nhiều người còn sống
nghèo khổ, đói rét. Xét về lí luận, một số quan niệm cơ bản của Phật giáo có ý nghĩa hiện thực nhất
định trong việc hóa giải các vấn đề trên.
Hòa bình và chung sống hòa bình là vấn đề lớn nhất. Hai cuộc đại chiến trong thế kỉ XX làm cho hàng
chục triệu sinh linh bị tàn sát; nếu trong thế kỉ XXI lại xảy ra đại chiến thế giới thì loài người có thể
cùng nhau bị tiêu diệt. Muốn tránh chiến tranh thì phải tiêu diệt nguồn gốc chiến tranh; một trong các
nguồn gốc đó là không hiểu lí lẽ Duyên khởi: loài người phải dựa nhau mà sinh tồn, lợi ta phải lợi
người; không coi trọng hòa giải, hiểu nhau, mà coi kẻ khác là cừu địch, không tôn trọng sinh mệnh kẻ
khác. Tư tưởng bình đẳng của Phật giáo có nghĩa là tôn trọng nhau, là hòa bình. Tư tưởng từ bi thể
hiện sự đồng tình, thương yêu quan tâm người khác, cũng xa rời chiến tranh, gìn giữ hòa bình. Từ bi tế
thế và “ngũ giới”, “thập thiện” đều lấy “không sát sinh” làm đầu. Từ ngày pháp sư Thái Hư ra sức đề
xướng Phật giáo nhân gian, Phật giáo Trung Quốc luôn quan tâm gìn giữ hòa bình thế giới. Phật giáo
phát huy tác dụng quan trọng độc đáo không thể thay thế trong việc gìn giữ hòa bình thế giới.
Sự phân hóa giàu nghèo Nam - Bắc, một số người sống nghèo khổ còn là căn nguyên gây ra loạn lạc,
trực tiếp đe dọa hòa bình khu vực và thế giới. Quan niệm bình đẳng từ bi của Phật giáo là phương
hướng hóa giải các vấn đề đó. Sự bố thí là một pháp môn tu trì quan trọng, tức dùng lòng từ bi để tạo
phúc cho người khác, cho họ của cải, sức khỏe và trí tuệ.

Quy phạm đạo đức của Phật giáo, như “Thập thiện”: không trộm cắp, không nói càn, không tà dâm,
không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói xiên xẹo (khởi ngữ), không tham dục, không sân huệ,
4 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
không tà kiến đều có ích cho sự hòa hợp mối quan hệ người-người. Bốn giới đầu trong “Ngũ giới”, tức
không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm và không nói xằng đều có thể dùng để tham khảo khi
xây dựng đạo đức chung toàn thế giới.
1.2.3. Điều chỉnh mâu thuẫn người với thiên nhiên, xúc tiến sự phát triển chung và phát triển
bền vững:
Hòa bình và phát triển là hai vấn đề lớn nhất của loài người hiện nay. Nếu gìn giữ hòa bình đòi hỏi hài
hòa mối quan hệ người-người thì phát triển chung và phát triển bền vững không những đòi hỏi hài hòa
quan hệ người-người mà còn đòi hỏi phải điều chỉnh thích hợp quan hệ người với thiên nhiên, sao cho
môi trường sinh thái được gìn giữ tốt. Việc con người khai thác thiên nhiên quá mức, thậm chí cướp
đoạt dã man thiên nhiên đang hủy hoại nghiêm trọng sự hài hòa người-thiên nhiên, đe dọa sự sinh tồn
của loài người.
Tư tưởng triết học Phật giáo có ý nghĩa tham khảo về mặt điều chỉnh nhận thức tính nghiêm trọng bức
thiết của vấn đề môi trường. Trước hết, thuyết Duyên khởi nhấn mạnh mọi sự vật đều do nhiều nguyên
nhân điều kiện hòa hợp mà thành, không sự vật nào tồn tại riêng rẽ. Như trái đất nơi loài người sinh
tồn là do đất, biển, trời và các loài động vật hợp thành; nếu đất thoái hóa, biển bị nhiễm độc, tầng ôzôn
bị mỏng dần, các loài động thực vật không ngừng biến mất thì sự tồn tại của trái đất sẽ có khó khăn,
loài người sẽ khó sinh tồn được. Thuyết Duyên khởi và thuyết chỉnh thể hữu cơ Phật giáo có thể cung
cấp căn cứ lí luận cho triết học môi trường hiện đại.
Thứ hai, thuyết Y chính quả báo của Phật giáo nhấn mạnh môi trường sống của chúng sinh đều là báo
ứng do hành vi của chúng sinh đem lại. Phật giáo còn tuyên truyền tư tưởng “Tâm tịnh (sạch) tắc quốc
thổ tịnh”, đề xướng báo ơn quốc thổ.
Thứ ba, dựa thuyết Duyên khởi, Phật giáo đề xướng tôn trọng kẻ khác, loài khác, tôn trọng sinh mệnh,
chúng sinh nhất luật bình đẳng, chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể thành Phật. Quan niệm này
khác với hành vi lạm sát dị loại, chà đạp môi trường, phá hoại cân bằng sinh thái, cũng khác với quan
điểm coi sự bảo vệ môi trường là sự thương hại, ban ơn cho kẻ yếu. Quan niệm chúng sinh bình đẳng
ấy cũng khác với “chủ nghĩa trung tâm nhân loại” và “chủ nghĩa trung tâm môi trường”, “chủ nghĩa

trung tâm sinh vật”. Phật giáo còn đề xuất ăn chay, phóng sinh, vừa có lợi cho sức khỏe con người,
vừa giúp cho việc gìn giữ môi trường cân bằng.
Sau cùng, thuyết lí tưởng của Phật giáo coi thế giới cực lạc là thế giới lí tưởng, là nơi môi trường tuyệt
hảo, không khí trong lành, cỏ cây tươi tốt, chim hót vượn kêu. Xưa nay Phật giáo thích xây chùa dựa
vào núi, bên dòng suối. Có thể nói Phật giáo gương mẫu coi trọng môi trường gìn giữ sinh thái.
2. Giá của Đạo Phật trong việc xây dựng hệ tư tưởng của thế hệ trẻ:
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống Nhà trường ở các cấp học phổ thông
không có chương trình giảng dạy lịch sử, triết lý, đạo đức Phật giáo một cách hệ thống. Số gia đình
Phật tử cũng không còn đông như trước đây. Sinh viên các trường Đại học chỉ nhận được rất ít kiến
thức sơ bộ về Phật giáo thông qua bộ môn “lịch sử triết học Phương Đông”, trừ những khoa chuyên
ngành Triết học. Vì thế phần lớn những hiểu biết của chúng ta về Phật giáo trước hết là chịu ảnh
hưởng tự nhiên của gia đình, sau đó là từ bạn bè, thầy cô và những mối quan hệ xã hội khác. Trong đó
5 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
ảnh hưởng của gia đình có tác động lớn lên mỗi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi người đều theo
đạo phật hoặc không theo một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục quan trọng đi lễ chùa vào những
ngày âm quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm Người già thường nói chuyện với con cháu về Đức Phật,
Bồ Tát, về đạo lý làm người dựa vào các giáo lý Phật giáo. Những suy nghĩ quan niệm này có thể phai
nhạt, thậm chí đi ngược lại khi ta gặp một trào lưu tư tưởng mới, đem lại một thế giới quan mới từ
trong môi trường gia đình chúng ta phần nào đó chịu ảnh hưởng của đạo phật nhưng không sâu sắc
như các triều đại trước và mục đích tìm đến Đạo phật không còn mang tính hướng đạo chân chính như
trước kia nữa. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết do sự xâm nhập của nhiều trào lưu tư tưởng, học
thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ.
Ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh
thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ thông, các tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào
nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”, “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó” , “quỹ viên gạch hồng”
Chính vì vậy ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người
khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con
người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết
thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể

bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số
phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp chúng ta, những học sinh, sinh viên
còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào
những hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá
cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh viên
hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng
giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày
nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị
đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu
giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận
Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi
cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh viên còn
khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh
niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các
quán Bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi
những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông
bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày
nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sau đoạ làm hại đến gia
đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và
một trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật
trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết cần làm ngay.
6 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
Ngày nay, cuộc sống lắm sự hiện đại xa hoa phù phiếm, những bậc trưởng bối nhiều lúc bị lớp trẻ hiện
đại xếp vào lớp người lạc hậu, cổ hủ. Thế nhưng loại tư tưởng này đã ăn sâu trong tâm khảm lớp trẻ tại
vì đâu? Phải chăng vì những người làm giáo dục, hay những bậc làm cha mẹ thiếu đi sự giáo dục răn
đe, hay vì quá say đắm vào nền văn minh vật chất hiện đại ? Dù ý thức đạo đức của lớp trẻ ngày nay
có tiến triển theo chiều hướng thiện hay chiều hướng bất thiện, trong đó không thể không nói đến trách
nhiệm của những người đi trước, những bậc cha mẹ, những người làm giáo dục… và bao gồm cả lĩnh
vực tôn giáo. Đã đến lúc cần gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh con người, sớm bước ra khỏi ngục tù sa

đọa. Những bậc làm cha mẹ phải có bổn phận giáo dưỡng, bậc làm thầy phải có trách nhiệm đem đạo
đức mà giáo hóa con trẻ, lãnh đạo quốc gia phải có trách nhiệm bảo vệ lớp trẻ khỏi những loại văn hóa
đồi trụy và tất cả cùng có ý thức trách nhiệm chung.
Một điều rõ ràng rằng, trong một gia đình những người con được nên người, thành danh phần lớn nhờ
vào sự giáo dục cũng như tình thương của cha mẹ. Trong một ngôi chùa, người đệ tử để trở thành một
con người có đủ tài đức thì sự góp sức từ người thầy không nhỏ. Trong xã hội, một con người thành
tựu nên được tài đức, hẳn có sự tương tác từ nhiều giai tầng xã hội. Nhưng trong mối quan hệ hỗ
tương, người đệ tử cũng có thể góp phần đem lại sự thành công cho thầy mình trong việc xiển dương
Phật pháp hay đem lại sự hãnh diện cho gia đình nói riêng và cho đạo pháp nói chung. Một con người
dù tài năng đến đâu, nếu không có được sự giúp sức của người khác thì vẫn gặp rất nhiều hạn chế
trong công việc của mình.
Có một lĩnh vực vô cùng quan trọng, nhưng có lẽ lớp trẻ đang thiếu, đó là đạo đức tâm linh. Tâm linh
là tiếng lòng vô cùng mầu nhiệm và huyền bí. Tâm linh có thể chuyển hóa con người hướng thiện, khi
họ thật sự hiểu được và hiểu đúng giá trị đích thực của cuộc sống. Hành trình tâm linh giúp con người
từ phàm phu tục tử trở nên thánh thiện. Hành trình tâm linh đi từ mảnh đất tâm và đích đến cũng là
mảnh đất tâm. Đây là tiến trình để hoàn thiện phẩm hạnh đạo đức. Nó không phải là sản phẩm chỉ
dành riêng cho tầng lớp xuất gia mà nó là cơ hội, là nền tảng để mọi người cùng thể nghiệm. Con
đường này dễ dàng thực tập đối với ai có chí hướng thiện, nhưng nó cũng vô cùng khó đối với ai xem
thường giá trị đạo đức.
Cuộc sống là một chuỗi móc xích các tầng lớp xã hội, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh
vực là một môn học mà ta có thể học hỏi và hoàn thiện nhân cách đạo đức. Mỗi lĩnh vực đều có những
điểm riêng nhưng tất cả đều có chung một hướng đến là đem lại nguồn tri thức cho con người. Tôn
giáo là một bộ phận quan trọng trong hệ thống xã hội, vì tôn giáo có thể giúp con người phát triển đạo
đức và hoàn thiện nhân cách.
Sở dĩ lớp trẻ ngày nay ở một số nơi, đánh mất đạo đức, sống thực dụng và buông thả, cũng vì người ta
chưa nhận thấy được giá trị của đạo đức tôn giáo. Đạo Phật sẽ làm gì đối với tình trạng đạo đức đang
suy thoái của một bộ phận xã hội hiện nay? Việc giáo dục lớp trẻ vô cùng quan trọng. Một thế hệ tốt
phải dựa trên nền tảng giáo dục đạo đức tốt. Do đó, giáo dục không chỉ là dạy và học mà trong đó
không thể thiếu đi yếu tố đạo đức và yếu tố nhân văn.
Giáo dục tuổi trẻ trong Phật giáo và thế gian có phần khác biệt, có thể xem hình ảnh La-hầu-la là biểu

tượng giáo dục tiêu biểu trong Phật giáo. Theo Phật giáo, kinh nghiệm giáo dục tuổi trẻ và nghệ thuật
giáo dục trẻ em là giúp chúng nhận diện được các hành vi xấu, và dạy cách chuyển hóa những hành vi
7 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
bất thiện ấy. Trong đời sống thiền môn, một người đệ tử nếu phạm phải sai lầm thì phải thành tâm sám
hối. Sám hối có nghĩa là tự mình bày tỏ lỗi lầm trước Phật-Pháp-Tăng, tỏ rõ sự hổ thẹn và tự nguyện
với lòng là sẽ không sai phạm. Sám hối như vậy là biểu hiệu phẩm hạnh đạo đức.
Phật giáo không thể không có trách nhiệm khi đạo đức của tuổi trẻ trong xã hội ngày một sa sút. Đạo
Phật có bổn phận chuyển mê khai ngộ, hóa giải những bất trắc còn đọng trong tư tưởng thế hệ trẻ,
bằng cách tổ chức những lớp học mà nội dung chủ yếu là giảng dạy cho các em về giá trị đạo đức,
dùng những lời Phật dạy khuyên răn và hướng các em đến một đời sống chân thiện.
J.Nehru từng viết: “Rõ ràng tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu con người, và đa số con người trên thế giới
đều có một hệ thống tín ngưỡng nào đó… Tôn giáo đã đưa ra một loại giá trị cuộc sống cho con người
mà dù một số chuẩn mực ngày nay không còn được áp dụng, nhưng những chuẩn mực ấy vẫn còn là
cơ sở cho tinh thần và đạo đức”. Như vậy có thể nói trong quá trình tồn tại xã hội, giữa hình thái ý
thức tôn giáo và ý thức đạo đức, luôn có quan hệ tương tác đan xen và thâm nhập lẫn nhau. Sự tác
động biện chứng đó lại diễn ra trong chính quy định của điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội. Vì vậy nói
bản thân tôn giáo chứa đựng những nội dung đạo đức là điều có thể hiểu được. Bất cứ tôn giáo nào
cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của
các tín đồ. Thực tế cho thấy, quan niệm đạo đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù
bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân bản,
như sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác Vì vậy,
đương nhiên, một số nội dung của đạo đức trở thành bộ phận cấu thành nội dung của tôn giáo.
Vấn đề trọng tâm của Phật giáo là “ly khổ đắc lạc”, nghĩa là phải tận diệt những mầm mống nguyên
nhân đưa đến đau khổ để thành tựu đời sống an lạc giải thoát, chứng được Niết bàn. Muốn đạt được
điều đó, con người không chỉ có niềm tin tôn giáo, mà còn cần cả sự phấn đấu nỗ lực của bản thân
bằng cách thực hành một đời sống đạo đức đúng nghĩa. Từ đó, Phật giáo đưa ra những chuẩn mực đạo
đức rất cụ thể để con người tu tập, phấn đấu hướng đến con đường tâm linh. Trong đó những chuẩn tắc
phổ biến nhất là Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống
rượu) và Thập thiện (ba điều thuộc về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; ba điều

thuộc về ý thức: không tham lam, không thù hận, không si mê; bốn điều thuộc về khẩu: không nói dối,
không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không ác khẩu). Những chuẩn mực này, nếu lược bỏ màu sắc
mang tính chất tôn giáo, sẽ là những nguyên tắc ứng xử phù hợp giữa người với người, rất có ích cho
việc duy trì đạo đức xã hội. Phải nói rằng, tôn giáo đã đề cập trực tiếp đến những vấn đề đạo đức cụ
thể của cuộc sống thế tục và ít nhiều mang giá trị nhân văn. Trên thực tế, những giá trị, chuẩn mực đạo
đức của các tôn giáo có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội.
Như vậy, có thể khẳng định rằng đạo Phật hay bất cứ tôn giáo nào cũng đều có một mảng đạo đức và
đạo đức ấy mang tính đặc thù, đồng thời, có sự giao thoa giữa những giá trị đạo đức của xã hội nói
chung với đạo đức tôn giáo. Đạo đức tôn giáo cũng có một số giá trị nhất định trong đời sống xã hội,
là một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền đạo đức xã hội. Do đạo Phật có sự đồng hành
lâu dài với loài người xuyên suốt lịch sử, nên có thể xem nó như một phần văn hóa của nhân loại.
Trong quá trình phát triển và phổ biến trên bình diện thế giới, đạo Phật không chỉ đơn thuần chuyển tải
8 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
niềm tin, mà còn có vai trò chuyển tải, hòa nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội
nơi trần thế.
Đạo đức Phật giáo nói riêng đều hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào
việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người,
mà còn đến cả muôn vật, cỏ cây. Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc
biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo muốn tình yêu thương ấy phải biến thành
hành động xoa dịu nỗi đau, cứu giúp những người đau khổ hoặc đoàn kết giữ gìn hòa bình. Ngày nay,
thế giới biến động, con người sống trong lo sợ bởi bạo lực hoành hành. Đạo đức của lớp trẻ lại bị biến
thoái trầm trọng, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo trên thế giới muốn giải thoát con người khỏi đau
khổ, và con người cần phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân, diệt trừ tham-sân-si, xóa bỏ vô minh, chặt
đứt phiền não để vượt qua biển khổ luân hồi. Tình yêu tha nhân trong Phật giáo hay các tôn giáo khác
không đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa, như kẻ đói được cho ăn, kẻ rách
được cho mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh hoạn, khuyên can người lầm lỗi Tóm lại, đây là những
hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp
đỡ là điều mà bản thân Phật giáo nói chung hay Tôn giáo nói riêng cần phải góp bàn tay nhân ái để
xoa dịu, làm lắng đọng nỗi đau, giúp thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ đời thường. Có như thế

chính là Phật giáo đã đóng góp giá trị văn hóa đạo đức trong việc xây dựng nhân sinh, xây dựng lớp
trẻ trong hiện tại cũng như tương lai được hoàn mỹ.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được nguồn gốc ra đời của Phật
giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và người dân ta, đồng thời hiểu thêm
về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đó là vấn đề
9 | P a g e
Tiểu Luận Triết Học
xây dựng hình thành nhân cách và tư duy của thế hệ trẻ Việt Nam trong tương lai với sự hỗ trợ của
những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo.
Đặc trưng hướng nội của Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành
động của mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu
thương nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn
chưa đủ. Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn
thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế
giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây
dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ
diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra và dưới sự hậu
thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác
của vài cá nhân và nguy cơ gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có
đạo đức, nhân cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn liền với
cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây
dựng hệ tư tưởng của con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự
kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác
tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường
tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế thừa
truyền thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã
hội ngày càng ổn định, phát triển.
Tµi liÖu tham kh¶o

10 | P a g e
Tiu Lun Trit Hc
1. Nguyễn Duy Cần - Tinh hoa Phật giáo (NXB thành phố HCM) - 1997
2. Thích Nữ Trí Hải dịch - Đức Phật đã dạy những gì (con đờng thoát khổ) (NNXB Tôn giáo -
2000 )
3. PGS Nguyễn Tài Th
- ảnh hởng của các hệ t tởng và tôn giáo đối với con ngời Việt Nam hiện nay ( Nhà xuất bản
chính trị quốc gia - 1997).
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1 ( NXB quốc gia - 1993)
4.Thích thiện Siêu dịch - Lời Phật dạy ( NXB Tôn giáo - 2000)
5. PTS. Phơng Kỳ Sơn - Lịch sử Triết học (NXB chính trị quốc gia - 1999)
6. Lý Khôi Việt - Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo.
7. Viện triết học - Lịch sử Phật giáo Việt Nam (NXB khoa học xã hội Hà Nội - 1988 )
8. Nhiều tác giả - Mời tôn giáo lớn trên thế giới (1999)
11 | P a g e

×