Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Giá trị của các bản hương ước ở các làng, xã Thái Bình trong việc giáo dục ý thức, hình thành nhân cách cho học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.2 KB, 4 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

GIÁ TRỊ CỦA CÁC BẢN HƯƠNG ƯỚC Ở CÁC LÀNG, XÃ THÁI BÌNH
TRONG VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC, HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Trịnh Thị Hường, Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 20/08/2018; ngày sửa chữa: 25/08/2018; ngày duyệt đăng: 28/08/2018.
Abstrast: The village convention is a social normative document with general codes of conduct
agreed by the people which adjust the self-governing social relationships to preserving and
promoting the good traditions and customs of the community (village). Hence, the village
conventions are valuable documents to educate moral sense and good traditions for the people in
general and high school students in particular. This article discusses the values of the village
conventions in Thai Binh in awaness education and personality form for high school students in
the current context.
Keywords: convention value, personality education, student, Thai Binh Province.
1. Mở đầu
“Hương ước” - hay còn gọi là “tục lệ”, “lệ làng” là
một bản quy ước thành văn có giá trị về mặt văn hóa,
truyền thống, gắn liền với lịch sử, trải qua bao biến cố,
thăng trầm cùng thời gian, hương ước đến nay vẫn cịn
được lưu giữ và đóng vai trị rất quan trọng trong việc
bảo tồn, giữ gìn nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt
Nam. Các bản hương ước của cộng đồng làng xã ở Việt
Nam chứa đựng những phong tục, tập quán, quy tắc ứng
xử trong việc thờ cúng Thành Hồng làng, người có cơng
lao to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương đất
nước, cũng như việc thờ cúng tổ tiên, quan hệ gia đình,
quan hệ làng xóm, ma chay, cưới hỏi, quan hệ lao động,
phân xử tranh chấp trong làng, xã... và một phần quan


trọng liên quan đến phân chia, quản lí đất đai, đặc biệt là
đất đai hương hỏa. Những nội dung quy định trong
hương ước được xây dựng vào đầu thế kỉ XX nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội căn bản phát sinh trong đời sống
nông thôn Việt Nam truyền thống. Do vậy, các bản
hương ước trong cộng đồng làng, xã Việt Nam nói
chung, ở tỉnh Thái Bình nói riêng được coi như “thước
đo chuẩn mực” giúp mỗi cá nhân tự “soi” lại những hành
vi ứng xử, việc làm của mình với người thân, với cộng
đồng làng xã, với toàn xã hội. Hương ước có tác dụng to
lớn trong việc giáo dục tư cách đạo đức cho mỗi cá nhân,
giáo dục cộng đồng, sống và làm việc theo hiến pháp,
pháp luật, giáo dục lịng tự hào dân tộc, tình u q
hương đất nước. Dưới thời kì thống trị của thực dân pháp,
các bản Hương ước là một trong những nhân tố “đề
kháng” của làng, xã chống lại chính sách đồng hóa của
chủ nghĩa thực dân, mặc dù đất nước bị xâm lược, nước
mất nhưng làng xã không mất, những phong tục, tập
quán, những giá trị văn hóa truyền thống vẫn được gìn
giữ và bảo tồn.

58

Vào những năm cuối của thế kỉ XX, đặc biệt trong
gần hai thập niên đầu thế kỉ XXI, quá trình phát triển KTXH Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, diện mạo
của đất nước nói chung, các vùng nơng thơn, miền núi
nói riêng có nhiều khởi sắc, đời sống kinh tế vật chất
cũng như nhu cầu văn hóa của người dân khơng ngừng
được nâng lên. Trong q trình phát triển với xu thế “đơ
thị hóa” diễn ra hết sức nhanh chóng, sự dịch chuyển lao

động từ nơng thôn ra thành phố ngày càng nhiều đã dẫn
đến một thực trạng ở nông thôn chủ yếu là người già và
trẻ nhỏ, nên phạm vi tác động của hương ước mới đến
cộng đồng bị thu hẹp lại, mặt khác, nhiều phong tục, tập
quán bị thay đổi, mai một, hoặc thất truyền.
Trước tình hình đó, u cầu thực tế đặt ra là cần tăng
cường hơn nữa việc xây dựng và thực hiện hương ước,
quy ước, cũng như điều chỉnh, bổ sung một số nội dung
trong các bản hương ước, quy ước trong cộng đồng.
Ngày 19/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số
24/1998/CT-TTg về việc xây dựng và thực hiện hương
ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, trong
đó chỉ thị nhấn mạnh: “Trong những năm gần đây, cùng
với việc khơng ngừng đổi mới và hồn thiện hệ thống
pháp luật phục vụ cho yêu cầu quản lí nhà nước, quản lí
xã hội bằng pháp luật, các hương ước, quy ước của làng,
bản, thôn, ấp, cụm dân cư đã góp phần hỗ trợ khơng nhỏ
trong việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại cộng đồng
dân cư ở cơ sở. Hiện nay, thực hiện chủ trương mở rộng
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, nhiều địa phương trong cả
nước đã và đang xây dựng và hồn thiện hương ước, quy
ước làng văn hóa trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực
của hương ước cũ, phù hợp với quy định của pháp luật
hiện hành. Tại nhiều địa phương, hương ước, quy ước
Email:


VJE


Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

mới khơng những góp phần phát huy thuần phong mĩ tục,
đề cao các chuẩn mực đạo lí và đạo đức truyền thống của
dân tộc mà cịn là cơng cụ hỗ trợ đắc lực cho các cuộc
vận động duy trì an ninh trật tự, vệ sinh, mơi trường,
phịng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,
khuyến khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi
phạm nhỏ trong nhân dân, xóa đói, giảm nghèo...”.
Do đó, việc tìm hiểu, tun truyền, phổ biến nội dung
các bản hương ước, góp phần giáo dục những nét đẹp văn
hóa truyền thống, hình thành nhân cách Việt Nam cho
cộng đồng dân cư nói chung, cho các thế hệ HS nói riêng
là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Tuy nhiên, do hạn
chế về thời lượng, bài viết chỉ tập trung đề cập giá trị
trong một số lĩnh vực của các bản hương ước ở Thái Bình
vào đầu thế kỉ XX trong việc giáo dục ý thức, hình thành
nhân cách, bồi dưỡng lịng u quê hương, đất nước cho
HS trên địa bàn Thái Bình trong bối cảnh hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Sơ lược về hương ước ở Thái bình đầu thế kỉ XX
Theo sách “Hương ước Thái Bình” của tác giả Nguyễn
Thanh biên soạn do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc ấn hành
vào năm 2000 (tái bản năm 2016), cho biết năm 1992, Sở
Văn hóa Thơng tin - Thể thao Thái Bình đã tiến hành sưu
tầm, sao chụp lại những bản hương ước cải lương (hương
ước có điều chỉnh, bổ sung với các bản hương ước cũ) của
các làng xã ở Thái Bình đã soạn thảo từ năm 1922 đến
1944 hiện còn lưu trữ bản gốc tại kho hương ước của Viện

Thông tin Khoa học xã hội (KHXH) thuộc Trung tâm
KHXH và Nhân văn quốc gia (nay là Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam) cho thấy: trước Cách mạng tháng Tám
1945, Thái Bình có 810 làng (con số này có lúc dãn ra là
820 làng, có lúc co lại là 802 làng) với số làng xã có hương
ước là 451 làng, xã. Trong đó: hương ước của xã là 218
bản; hương ước của làng là 187 bản; hương ước của thôn
là 45 bản; hương ước của phố huyện là 01 bản. Trong các
bản hương ước này, chỉ có duy nhất bản hương ước của xã
Đại Hữu, tổng Tân Định, huyện Tiền Hải (nay là xã Tây
Ninh, huyện Tiền Hải) được in typo vào năm 1924, các
bản cịn lại đều viết tay và có đầy đủ chữ kí của các kì hào,
lí dịch, hội đồng tộc biểu và chữ kí, con dấu của lí trưởng,
tổng, huyện, phủ, tỉnh, có bản ghi bằng chữ Quốc ngữ, có
bản ghi bằng chữ Hán.
Mỗi làng, xã lại có những điều kiện, đặc điểm khác
nhau, do đó, các bản hương ước cũng có sự khác nhau,
“mỗi làng mỗi vẻ” cả về nội dung, bố cục, hình thức trình
bày. Song nội dung cơ bản mà các bản hương ước đều đề
cập đó là những quy định về trách nhiệm của người dân
đối với nhà nước bảo hộ, với làng xã (nghĩa vụ nộp thuế);
quy định việc sử dụng đất đai, khuyến nông, phát triển
sản xuất, đặc biệt là phát triển sản xuất nơng nghiệp; quy
định về việc giữ gìn trật tự an ninh xóm làng; động viên,

59

khuyến khích con em nhân dân tích cực học tập để mở
mang văn minh cho làng xã; quy định về trách nhiệm của
người dân trong việc bảo vệ tài sản công, nhất là những

di sản văn hóa truyền thống như: đình, chùa, đền, miếu,
những danh lam thắng cảnh, việc bảo vệ môi trường; quy
định việc thực hiện thuần phong mĩ tục, phong tục, tập
quán như: các nghi thức hiếu, hỉ, tổ chức hội hè, tế lễ, thờ
cúng, thực hiện các mối quan hệ với người thân trong gia
đình, với cộng đồng làng xóm…
Như vậy về cơ bản, các bản hương ước ở Thái Bình
thời kì này vẫn bảo tồn được những mặt tích cực phù hợp
với nét đặc trưng của văn hóa truyền thống, đó là: gìn giữ
phát huy những thuần phong mĩ tục, đề cao các chuẩn mực
đạo lí và đạo đức truyền thống của dân tộc, bảo vệ các di
tích lịch sử, di sản văn hóa, duy trì an ninh, trật tự, vệ sinh,
mơi trường, phịng chống tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,
khuyến khích học hành, giải quyết mâu thuẫn nhỏ trong
cộng đồng làng xóm… Đây chính là những giá trị rất cơ
bản của hương ước cần được tuyên truyền và phổ biến
rộng rãi đến mọi tầng lớp dân cư, đặc biệt là các thế hệ HS
góp phần vào việc giáo dục ý thức tự tơn dân tộc, hình
thành nhân cách Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
2.2. Giá trị của các bản hương ước ở Thái Bình trong
việc giáo dục ý thức, hình thành nhân cách cho học
sinh trong bối cảnh hiện nay
2.2.1. Giáo dục học sinh ý thức sống, làm việc theo hiến
pháp, pháp luật
Hương ước, quy ước là một loại văn bản quy phạm,
chứa đựng những nguyên tắc bắt buộc hoặc cho phép cá
nhân, tổ chức được làm hoặc khơng được làm một việc gì
đó trong cuộc sống hằng ngày tại địa phương, đó là các
quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư thỏa thuận đặt ra và
cùng nhau thực hiện. Do đó, cùng với hệ thống pháp luật

hiện hành của nhà nước, các bản hương ước (trong đó có
hương ước xưa và hương ước mới hiện nay được tái lập)
có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục ý thức
người dân nói chung, các thế hệ HS nói riêng sống, làm
việc theo hiến pháp, pháp luật. Trên thực tế, hương ước,
quy ước được xây dựng chủ yếu để điều chỉnh các quan
hệ tự quản tại cộng đồng dân cư, những quan hệ trong lĩnh
vực xã hội - dân sự mà pháp luật không điều chỉnh hoặc
chỉ điều chỉnh ở mức độ quy định các nguyên tắc chung
như: việc tổ chức ma chay, cưới xin, bảo vệ trật tự trị an,
phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, giữ gìn và phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống, giải quyết các
tranh chấp hoặc những vi phạm nhỏ trong nhân dân.
Như vậy, hương ước là một cơng cụ quan trọng góp
phần quản lí xã hội trong phạm vi làng, xã Việt Nam từ
nhiều thế kỉ qua, trong chế độ phong kiến, hương ước tồn
tại song song với pháp luật của Nhà nước phong kiến
Việt Nam, góp phần giữ gìn bản sắc và phong tục tập


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

quán của dân tộc. Khi nói đến hương ước, quy ước là đề
cập đến một thành tố quan trọng trong thể chế quản lí
nơng thơn, đề cao tính tự quản, tự trị của làng, xã, là một
nét văn hóa quản lí truyền thống có tính phổ biến.
Trong lời nói đầu của Hương ước làng Hiệp Trung tổng Cát Đàm - phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy
- Thái Bình) được soạn thảo vào năm 1937 ghi: “có nước

phải có làng, làng nhiều mới thành nước, nước có luật lệ,
thời chính trị mới hay, làng có khốn ước thì phong tục
mới tốt, đất lề, quê thói lệnh vua phép làng nhẽ thường
bao giờ cũng vậy… Nay thừa thượng lệnh sức làm hương
ước là mong dân ta đổi tục lệ xưa, theo thời thế mới giữ
vững được con đường phong hóa, gieo ra hạt giống văn
minh… chọn những điều hay, trừ những thói dở, châm
chước cho hợp thời làm thành hương ước…” [2; tr 57].
Trong các hương ước cũng quy định rõ ràng hình thức
xử phạt đối với những người mắc lỗi, điều 41 của hương
ước xã Duyên Mĩ, tổng Thượng Hộ, huyện Duyên Hà
(nay là Hưng Hà - Thái bình) có ghi: “đàn bà, trẻ con
phạm lỗi gì xét ra người phạm lỗi ấy cịn ở với cha thì
cha phải chịu, mà cịn ở với chồng thì chồng phải chịu,
nếu khơng có cha, chồng thì chú bác phải chịu” [2; tr 61].
Như vậy, quy phạm trong hương ước là quy phạm xã
hội do nhân dân xây dựng nên và nhân dân tự nguyện
thực hiện dựa trên những phong tục, tập quán của địa
phương và hệ thống pháp luật của nhà nước. Do đó,
những nội dung trong các bản hương ước được tuyên
truyền sâu rộng tới mọi tầng lớp dân cư, các thế hệ HS là
nhân tố rất thuận lợi để đưa pháp luật vào cuộc sống
người dân ở cơ sở.
2.2.2. Giáo dục tinh thần hiếu học, ý thức vượt khó để
vươn lên trong học tập
Đây là nét đẹp truyền thống ở các làng xã cổ truyền
Thái Bình nói riêng và Bắc Kỳ nói chung và ln giữ một
vai trị đặc biệt quan trọng trong việc rèn luyện nhân
cách, duy trì bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Điều này được
thể hiện khá đậm nét trong quy ước của các bản hương

ước làng, xã ở Thái Bình, hình thức khuyến học phổ biến
ở các làng, xã là dành ruộng học điền để chăm lo sự học
hành cho con em nhân dân. Nhiều làng, xã cịn có hình
thức trợ cấp giấy bút cho con em nhà nghèo theo học, xếp
ngôi thứ cho những người đỗ đạt, khen thưởng đối với
những người có cơng ni dưỡng…, hương ước cũng
quy định việc xây dựng trường học, mời thầy về dạy, bố
mẹ là những người có trách nhiệm phải khuyên bảo cho
con em đi học, đến trường. Ở một số làng còn đặt ra lệ
khuyến học là hỗn việc đi lính cho những ai đang bận
việc học tập, những làng, xã đặt ruộng “học điền” dành
ra từ bốn, năm sào đến một mẫu lấy hoa lợi mời thầy giáo
dạy chữ hoặc tặng mỗi người đi học một sào ruộng để lấy
hoa lợi ăn học, một số ít làng xã cịn cấp tiền ăn học mỗi

60

tháng từ một đến ba quan làm phí giấy bút cho người đi
học ở xã. Những làng có truyền thống khoa bảng thường
hay tổ chức khảo hạch sĩ tử trước kì thi hương… qua đó,
họ được ơn luyện thử sức trước mùa thi.
Hương ước làng Đại Hữu (nay thuộc xã Tây Ninh
huyện Tiền Hải) có ghi: “nghĩa vụ của cha mẹ phải cho
con cái đi học, ai có con từ 8 tuổi trở lên phải cho con đi
học… người nào nghèo túng quá mà hiếu học làng sẽ cấp
giấy bút cho. Ai có con đến tuổi ấy khơng cho con đi học
phải phạt một đồng trừ ra… trong làng ai chuyên cần việc
học tập thì được miễn tạp dịch. Ai xuất dương du học
được miễn trừ tạp dịch và xuất sưu người ấy làng sẽ trích
cơng quỹ nộp cho, cịn gia quyến người ấy ở nhà có sự

gì làng phải hết lịng bênh vực” [2; tr 70].
Hương ước làng Tơ Xuyên, huyện Phụ Dực (nay là
huyện Quỳnh Phụ) quy định: “trong thơn hương lí cần
phải khun bảo cho dân làng nhà ai có con phải cho đi
học, vì trong làng có nhiều người học thì mới có văn
minh tiến hóa được… nhà ai có con từ 8 tuổi phải cho
con ra trường công học tập… cấm không được cho trẻ
em lêu lổng” [2; tr 87]. Hương ước làng Long Mĩ, tổng
Thượng Tầm, phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy)
nhấn mạnh: “việc học là việc rất cần thiết cho con người
ta, vì có học thì trí khơn mới mở mang, kiến thức mới
rộng rãi và mới biết được luân thường đạo lí đối đãi với
xã hội và gia đình. Nước mà văn minh, thịnh vượng cũng
do ở nền giáo dục phổ thơng” [2; tr 87].
Do đó, quan niệm “nửa bụng chữ bằng một hũ vàng”
được thể hiện rõ nét trong các bản hương ước nếu được
tuyên truyền, phổ biến rộng rãi sẽ có tác dụng rất thiết
thực trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở các làng q Thái
Bình nói riêng, các làng quê Việt Nam nói chung trong
việc nỗ lực vượt khó để vươn lên trong học tập.
2.2.3. Giáo dục ý thức bảo vệ các di sản văn hóa, giữ gìn
và phát huy thuần phong, mĩ tục, thực hiện nếp sống văn
minh trong cộng đồng
Hương ước, quy ước được coi như một công cụ hỗ
trợ cho pháp luật để duy trì, phát triển thuần phong mĩ
tục, đề cao các chuẩn mực đạo lí và đạo đức truyền thống
trong sinh hoạt cộng đồng làng, xã, như: cách ứng xử,
giao tiếp, ăn, ở, đi lại, phát triển các hoạt động văn hóa
lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng, nghĩa xóm,
đồn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau

trong cộng đồng dân cư, bảo vệ môi trường sống, sơng,
hồ, danh lam thắng cảnh, đền chùa, đình, miếu, các
nguồn nước, đê điều, phát triển đường làng, ngõ xóm,
trồng cây xanh… cũng như các biện pháp bài trừ các hủ
tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan trong việc cưới hỏi,
việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương; khuyến khích
những nghi lễ lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng
phí, tốn kém; phịng chống các tệ nạn xã hội như cờ bạc,


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

rượu, chè, trộm cắp, các hành vi vi phạm pháp luật khác
nhằm xây dựng địa bàn trong sạch.
Đề cập việc bảo vệ đường làng, ngõ xóm, Hương ước
làng Nội Trang, tổng Hà Lý, huyện Duyên Hà (nay là
huyện Hưng Hà) quy định: “đường cơng cấm ai được buộc
trâu, bị và trồng cây trong vườn để thò lò cành lá ra ngoài
đường, cấm dịch dậu lấn đường, ruộng ở chân đường
không được vạc xuống làm hỏng đường”. Để bảo vệ lợi
ích của cộng đồng dân cư, tăng cường tình đồn kết tình
làng nghĩa xóm và giảm gánh nặng cho dân nghèo, Điều
36, Chương 2, hương ước làng Hiệp Trung, tổng Cát Đàm,
phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy) ghi rõ: “ngày hội
bổ sưu thuế, cấm không được bày ra ăn uống gì, tính bổ
cho dân làng phải chịu nặng thêm”; hay quy định về việc
tang lễ, Điều 133 ghi: “Việc tang hiếu là cốt ở sự buồn rầu,
thương xót, nếu chỉ chăm ở sự sửa soạn chè chén khoản

đãi tân khách để trả nợ miệng lẫn nhau thì thật là trái lễ.
Nay định những nhà có việc tang hiếu khơng được giết
trâu bị lợn bày ra ăn uống trước, nếu có người thân tình ở
xa đến phúng chỉ được dùng cơm thường khoản đãi” [2; tr
60]. Mặc dù được soạn thảo trong những năm đầu thế kỉ
XX khi nước ta còn đang trong chế độ cai trị của thực dân
Pháp, nhưng nhìn chung nội dung các bản hương ước vẫn
đảm bảo được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá
rách” thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc chia sẻ cùng
nhau trong cộng đồng làng xã.
Ngày nay, xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra một cách
mạnh mẽ và quyết liệt, với quá trình hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, sự ảnh hưởng và giao lưu văn hóa
giữa các quốc gia, dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ
với sự đan xen của nhiều luồng văn hóa khác nhau, việc
giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống càng
được đặt ra một cách cấp bách. Do đó, mỗi quốc gia, dân
tộc cần phải có những giải pháp hữu hiệu để vừa tiếp thu
những giá trị văn minh của nhân loại, đồng thời vừa bảo
vệ những đặc trưng văn hóa truyền thống. Trong bối cảnh
đó, hương ước làng xã là một công cụ quan trọng để lưu
giữ và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đa dạng
tại các vùng miền, nó như một “tấm lá chắn” thanh lọc
những yếu tố ngoại lai không phù hợp.
3. Kết luận
Những năm gần đây, trong quá trình đổi mới, cơ cấu
KT-XH cũng như cảnh quan ở khu vực nơng thơn đã có
nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất của người
dân không ngừng được nâng lên, hình thức sinh hoạt văn

hóa cũng có những thay đổi để phù hợp với cuộc sống,
cơ chế xã hội mới. Đặc biệt, khi Đảng và nhà nước ta có
chủ trương đẩy mạnh cơng cuộc chấn hưng nền văn hóa
dân tộc, mỗi làng xã, mỗi dòng tộc càng ý thức rõ hơn
tâm lí “tìm về cội nguồn”, các giá trị văn hóa truyền

61

thống trước đây bị mai một có điều kiện để khôi phục và
phát triển, các hoạt động lễ hội, tu sửa đình, chùa, đền,
miếu, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, chăm sóc
nghĩa trang liệt sĩ, giúp đỡ người già khơng nơi nương
tựa, gia đình nghèo neo đơn, trẻ em vùng sâu vùng xa, đã
trở thành một nét đẹp của văn hóa truyền thống, được
đơng đảo mọi tầng lớp dân cư, nhất là thế hệ trẻ học sinh,
sinh viên tham gia tích cực.
Để làm tốt những việc làm có ý nghĩa nêu trên, việc
tăng cường tìm hiểu, tun truyền, phổ biến nội dung các
bản hương ước giúp thế hệ trẻ có thêm những hiểu biết về
dịng tộc, về cội nguồn, bồi dưỡng cho các em lòng tự hào
về truyền thống q hương đất nước, qua đó hình thành
nhân cách Việt Nam cho thế hệ trẻ trong bối cảnh hiện nay
là một việc làm cần thiết. Tuy nhiên trong q trình thực
hiện, các nhà trường, các thầy cơ giáo (đặc biệt là giáo viên
bộ môn Lịch sử), các tổ chức chính trị, đồn thể xã hội địa
phương cần nghiên cứu kĩ nội dung, đối tượng, để có các
giải pháp phổ biến, tuyên truyền giá trị của các bản hương
ước đến mọi tầng lớp dân cư, nhất là với thế hệ trẻ một
cách phù hợp để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất.
Tài liệu tham khảo

[1] Thủ tướng Chính phủ (1998). Chỉ thị số
24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 về việc xây dựng
và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản,
thôn, ấp, cụm dân cư.
[2] Nguyễn Thanh (2000). Hương ước Thái Bình. NXB
Văn hóa dân tộc.
[3] Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số
22/2018/QĐ-TTg ngày 8/5/2018 về việc xây dựng,
thực hiện hương ước, quy ước.
[4] Bộ Tư pháp - Bộ Văn hóa Thông tin - Ban thường
trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(2000). Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTPBTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000.
[5] Vũ Duy Mền (2010). Hương ước cổ làng xã Đồng
bằng Bắc Bộ. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[6] Đinh Khắc Thuân (chủ biên, 2006). Tục lệ cổ truyền
làng xã Việt Nam. NXB Khoa học xã hội.
[7] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007). Đại Nam thực
lục (tập 8), bản dịch. NXB Giáo dục.
[8] Hương ước xã Hưng Quan, tổng Cát Đàm, phủ Thái
Ninh, tỉnh Thái Bình. Thư viện Viện Thơng tin Khoa
học xã hội, Kí hiệu HU 3091.
[9] Hương ước thôn Đàm, xã Tô Xuyên, tổng Tơ
Xun, huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình. Thư viện
Viện Thơng tin Khoa học xã hội, Kí hiệu HU 3054.
[10] Hương ước xã Đại Hữu, tổng Tân Định, huyện Tiền
Hải, tỉnh Thái Bình. Kí hiệu: HU 3204, Thư viện
Viện Thơng tin Khoa học xã hội.




×