Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc của hệ sinh thái rừng núi đất theo đai cao tại khu bảo tồn thiên nhiên pù hu thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------------------

LÊ NGỌC HẢI

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC CỦA HỆ SINH THÁI RỪNG NÚI
ĐẤT THEO ĐAI CAO TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
PÙ HU, THANH HÓA
Chuyên ngành: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
Mã số
: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN QUANG BẢO

HÀ NỘI - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------------------

LÊ NGỌC HẢI



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC CỦA HỆ SINH THÁI RỪNG NÚI
ĐẤT THEO ĐAI CAO TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
PÙ HU, THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------------------

LÊ NGỌC HẢI

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC CỦA HỆ SINH THÁI RỪNG NÚI
ĐẤT THEO ĐAI CAO TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
PÙ HU, THANH HÓA

Chuyên ngành: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
Mã số
: 60.62.68

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2011



Cơng trình được hồn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Quang Bảo

Phản biện 1: ……………………………………………………..
Phản biện 2: ………………………………………………………
Phản biện 3: ………………………………………………………

Luân văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước họp
tại: Trường Đại học Lâm Nghiệp
vào hội ……..giờ…..ngày……tháng…….năm…..

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện - Trường Đại học Lâm nghiệp


i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Giải thích nghĩa

D1.3

Đường kính ở vị trí 1,3 m

Hvn


Chiều cao vút ngọn

N

Số lượng cây

NL

Số lượng lồi

M

Trữ lượng

G

Tổng tiết diện ngang

DDSH
OTC

Đa dạng sinh học
Ơ tiêu chuẩn

UBND

Uỷ ban nhân dân

BTTN


Bảo tồn thiên nhiên

PH

Phòng hộ

SX

Sản xuất

ĐD

Đặc dụng

Nxb

Nhà xuất bản


ii

DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
2.1
4.1
4.2

Tên bảng
Hiện trạng dân sinh các xã thuộc vùng lõi, vùng đệm
Tổ thành tầng cây cao của hệ sinh thái rừng núi đất theo đai cao

Khu BTTN Pù Hu theo tỉ lệ số cây của mỗi loài (N%)
Tổ thành tầng cây cao của hệ sinh thái rừng núi đất theo đai cao
Khu BTTN Pù Hu theo mức độ quan trọng của loài IV%.

Trang
20
44
47

4.3

Chỉ số phong phú của lồi theo các đai cao

49

4.4

Kết quả tính tốn chỉ số đa dạng sinh học Shannon – Wiener.

50

4.5

Kết quả so sánh mức độ đa dạng loài theo tiêu chuẩn t-Student

51

4.6

Kết quả tính tốn mức độ đa dạng lồi theo chỉ số Simpson.


51

4.7

Mô phỏng phân bố NL/D1.3 bằng hàm Khoảng cách

52

4.8

Mô phỏng phân bố NL/D1.3 bằng hàm Weibull

53

4.9

Mô phỏng phân bố N/D1.3 bằng hàm Khoảng cách

55

4.10

Mô phỏng phân bố N/D1.3 bằng hàm Weibull

55

4.11

Tổng hợp kết quả so sánh phân bố NL/D1.3 trên các đai cao


58

4.12

Tổng hợp kết quả so sánh phân bố N/D1.3 trên các đai cao

58

4.13

Mô phỏng phân bố NL/Hvn bằng hàm Khoảng cách

59

4.14

Mô phỏng phân bố NL/Hvn bằng hàm Weibull

59

4.15

Mô phỏng phân bố N/Hvn bằng hàm Khoảng cách

62

4.16

Mô phỏng phân bố N/Hvn bằng hàm Weibull


62

4.17

Tổng hợp kết quả so sánh phân bố NL/Hvn trên các đai cao

64

4.18

Tổng hợp kết quả so sánh phân bố N/Hvn trên các đai cao

64

4.19

Bảng phân loại các trạng thái rừng núi đất theo đai cao hiện tại
ở Khu BTTN Pù Hu – Thanh Hóa

66


iii

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình

Tên hình


Trang

2.1

Bản đồ vị trí Khu BTTN Pù Hu

18

3.1

Cơng tác thu thập số liệu ngồi thực địa

30

4.1

Bản đồ phân bố hệ sinh thái rừng núi đất theo đai cao tại
Khu BTTN Pù Hu

39

4.2

Hệ sinh thái rừng núi đất ở các đai cao

42

4.3

Biểu đồ phân bố NL/D1.3 theo hàm Weibull


54

4.4

Biểu đồ phân bố N/D1.3 theo hàm Weibull

57

4.5

Biểu đồ phân bố NL/Hvn theo hàm Weibull

61

4.6

Biểu đồ phân bố N/Hvn theo hàm Weibull

63


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hệ sinh thái rừng được coi là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến
mơi trường và cuộc sống của con người, là loại tài nguyên quý giá có khả năng tái
tạo và phát triển, là bộ phận quan trọng có vai trị chủ lực trong nhiều lĩnh vực như:
phịng hộ, bảo vệ mơi trường, duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ đa dạng sinh học,
bảo vệ nguồn gen, tôn tạo cảnh quan, cung cấp nhiều loại lâm sản thiết yếu, quý

giá,…gắn liền với đời sống con người.
Tuy nhiên hiện nay cùng với sự phát triển của đời sống xã hội và con người,
nhu cầu sử dụng tài nguyên từ rừng ngày càng cao làm cho tài nguyên rừng ngày
càng suy thoái gây ra nguyên nhân mang tính xã hội, dẫn đến tình trạng phá vỡ cân
bằng sinh thái, giảm đa dạng sinh học, tổn hại đến mơi trường sống, de dọa tính
mạng và tài sản con người. Do vậy yêu cầu thiết yếu hiện nay cho chúng ta là phải
sử dụng tài nguyên rừng một cách bền vững, trong đó nhiệm vụ quan trọng nhất là
tiếp tục nghiên cứu và khôi phục lại các hệ sinh thái rừng để duy trì khả năng cung
cấp của rừng.
Mỗi khu vực, mỗi điều kiện sinh thái khác nhau sẽ cho những khu rừng có
tính đặc thù khác nhau cần được nghiên cứu, trong đó nghiên cứu đặc điểm cấu trúc
rừng là một trong những vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm. Nó là cơ sở để
đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động vào rừng một cách hiệu quả. Đặc biệt là đối
với công tác phục hồi rừng tự nhiên, thì nghiên cứu cấu trúc rừng là việc làm hết
sức cần thiết và ảnh hưởng đến khả năng thành công của công tác phục hồi theo
hướng “tiếp cận tự nhiên”. Bởi trên quan điểm sinh thái, đặc điểm cấu trúc rừng thể
hiện rõ nét mối quan hệ và mức độ phong phú, đa dạng của loài cây trong các hệ
sinh thái rừng khác nhau. Vì vậy việc nghiên cứu cấu trúc rừng nhằm duy trì rừng
như một hệ sinh thái ổn định để phát huy bền vững các chức năng có lợi của rừng cả
về kinh tế, xã hội và sinh thái.
Ở Việt Nam việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng cũng đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm, chú trọng. Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu vẫn chưa thể
bao qt cho mọi hệ sinh thái, chưa làm nổi bật những điển hình và đặc thù của các


2

hệ sinh thái rừng trong từng khu vực cụ thể. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng, một khi chúng ta đã thu được những kết quả phản ánh đặc điểm
cấu trúc của các loài cây trong hệ sinh thái rừng sẽ giúp chúng ta có những tác động

hợp lý gần với tự nhiên tại các khu rừng chuẩn. Từ các mơ hình chuẩn này chúng ta
có những hướng tác động, bổ sung các điều kiện cần cho các mẫu thiếu, xây dựng
mẫu cho các loại hình rừng mới.... tác động để hướng tới mẫu chuẩn. Bằng cách
này, các nhà lâm học có thể sử dụng các mơ hình cụ thể cho các mẫu rừng cụ thể để
hướng tới phục hồi rừng theo hướng chuẩn của tự nhiên.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu nằm phía tây tỉnh Thanh Hóa có tổng diện
tích tự nhiên là 27.502,89 ha bao gồm 16.246,74 ha rừng cần được bảo vệ nghiêm
ngặt; 11.238,15 ha rừng phục hồi sinh thái. Được tạo thành chủ yếu bởi 2 hệ sinh
thái là hệ sinh thái núi đất đai cao và hệ sinh thái núi đá vôi.
Phân bố đặc trưng ở độ cao 500 đến 1.500 m với diện tích 27.312,96 ha. Hệ
sinh thái núi đất đai cao chiếm 98,55 % tổng diện tích phân bố tương đối đều trên
tồn diện tích. gồm các kiểu rừng sau: Kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa ít bị tác
động trên đai cao, kiểu rừng thường xanh mưa mùa bị tác động trên đai cao, kiểu
rừng thường xanh mưa mùa trên đất thấp bị tác động mạnh.
Với thực trạng hiện nay trong khu vực quản lý của Khu bảo tồn vẫn còn
nhiều cộng đồng dân cư sống xen lẫn. Cuộc sống của họ gắn liền với rừng, sản vật
thu hái được từ rừng được phục vụ cho nhu cầu sinh sống hàng ngày. Mặc dù đơn vị
tăng cường cơng tác quản lý bảo vệ rừng và có nhiều chương trình phát triển kinh tế
nhằm giảm các tác động xấu đến rừng. Nhưng hiện nay tài nguyên rừng đang bị tác
động nghiêm trọng.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế nhằm bảo tồn, cũng như nâng cao sự hiểu biết
hệ sinh thái rừng núi đất đai cao tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm cấu
trúc của hệ sinh thái rừng núi đất theo đai cao tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Hu, Thanh Hóa”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Các nhà lâm sinh quan niệm rằng, cấu trúc rừng (forest structure) là sự sắp xếp
tổ chức nội bộ của các hệ sinh thái rừng mà qua đó các lồi có đặc tính sinh thái học
khác nhau có thể chung sống hài hịa và đạt tới sự ổn định tương đối trong một giai
đoạn nhất định của tự nhiên. Cũng theo quan điểm này, Phùng Ngọc Lan (1986) [23]
cho rằng: cấu trúc rừng là một khái niệm dùng để chỉ quy luật sắp xếp tổ hợp các thành
phần cấu tạo nên quần thể thực vật rừng theo khơng gian và thời gian. Cịn trên quan
điểm sản lượng, Husch,B. (1982) [13], cấu trúc là sự phân bố kích thước của lồi và cá
thể trên diện tích rừng.
Như vậy, có thể thấy cấu trúc lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự
nhiên, là sản phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật, giữa thực
vật và mơi trường sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc là hình thức bên ngồi phản
ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái. Trên quan điểm sản lượng thì cấu trúc rừng phản
ánh sưc sản xuất của rừng theo điều kiện lập địa.
Cấu trúc quần xã thực vật rừng bao gồm cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng thứ,
cấu trúc tuổi, cấu trúc mật độ, cấu trúc theo mặt phẳng nằm ngang…. Nhìn chung,
nghiên cứu cấu trúc đã chuyển từ mơ tả định tính sang phân tích định lượng dưới
dạng mơ hình hóa tốn học nhằm khái qt hóa các quy luật của tự nhiên. Trong đó,
các quy luật phân bố, tương quan của một số nhân tố điều tra được quan tâm nghiên
cứu.
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Về phân loại rừng
Trong kinh doanh rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên nhiệt đới thì phân loại rừng
là cơng việc hết sức cần thiết và thường được thực hiện đầu tư.
Theo Phùng Ngọc Lan (1986) [22], trên thế giới có rất nhiều trường phái
phân loại rừng khác nhau: trường phái Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu đã
được các nhà phân loại rừng nước ta áp dụng trong một thời gian dài. Bên cạnh đó
cịn có các trường phái khác như trường phái Bắc Âu, trường phái Mỹ và Canada,


4


tùy thuộc vào kiểu rừng, mục tiêu kinh doanh mà các trường phái lựa chọn các nhân
tố chủ đạo phân loại khác nhau.
1.1.2 Nghiên cứu cấu trúc
1.1.2.1. Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Khái niệm về hệ sinh thái rừng đã được làm sáng tỏ là cơ sở cho việc nghiên
cứu các nhân tố cấu trúc đứng trên quan điểm sinh thái học.
Baur G.N (1964) [1] đã nghiên cứu các vấn đề cơ cở sinh thái học nói chung
và cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng. Trong đó, tác giả đã đi
sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng
cho rừng mưa tự nhiên. Theo tác giả, các phương thức đều có hai mục đích rõ rệt:
“Mục tiêu thứ nhất là cải thiện rừng cây ngun sinh vốn thường hỗn lồi và khơng
đồng tuổi bằng cách đào thải những cây quá thành thục và vơ dụng để tạo khơng
gian sống thích hợp cho các lồi cây cịn lại sinh trưởng: mục tiêu thứ 2 là tạo lập
tái sinh bằng cách xúc tiến tái sinh, thực hiện tái sinh nhân tạo hoặc giải phóng lớp
cây tái sinh sẵn có đang ở trạng thái ngủ để thay thế cho những cây đã lấy ra khỏi
rừng trong khai thác hoặc trong chăm sóc, ni dưỡng rừng sau đó”. Từ đó, tác giả
đã đưa ra tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý cải thiện rừng
mưa.
Catinot.R (1965) [4] đã nghiên cứu cấu trúc hình thái rừng thơng qua việc biểu
diễn các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái rừng thông qua việc
mô tả, phân loại theo các khái niệm, dạng sống, tầng phiến…
Odum E.P (1971) [28] hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật
ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tasley A.P năm 1935. Khái niệm hệ sinh thái được
làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu cấu trúc trên quan điểm sinh thái học.
1.1.2.2. Mơ tả về hình thái cấu trúc rừng
Rừng mưa nhiệt đới với sự đa dạng và phong phú của nó đã được nhiều
nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu như Richards (1952) [31], Catinot (1965) [4].
Các tác giả này đi sâu vào biểu diễn cấu trúc hình thái rừng bằng phẫu diện đồ, các
nhân tố cấu trúc được mô tả phân loại theo các khái niệm: dạng sống, tầng phiến…



5

Các kết quả nghiên cứu này đã đặt nền móng quan trọng cho các nghiên cứu ứng
dụng sau này.
Rollet (1971) (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [10], đã mô tả cấu trúc hình thái
rừng mưa bằng các phẫu đồ, biểu diễn các mối tương quan giữa chiều cao vút ngọn
và đường kính ngang ngực, tương quan giữa đường tán với đường kính ngang ngực
bằng các hàm hồi quy.
Kraft (1988) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986) [22], tiến hành phân chia những
cây rừng trong lâm phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh trưởng , kích thước và
chất lượng của cây rừng. Các tiêu chuần phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp dụng,
phản ánh được tình hình phân hóa cây rừng.
Như vậy, khi nghiên cứu về tầng thứ, hầu hết các tác giả chỉ đưa ra những
nhận xét mang tính định tính chứ chưa thực sự phản ánh về sự phức tạp về cấu trúc
của rừng tự nhiên nhiệt đới.
1.1.2.3. Nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng
Khi chuyển đổi nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng cấu trúc
rừng, nhiều tác giả đã sử dụng các công thức và hàm tốn học để mơ hình hóa cấu
trúc rừng, xác định mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc rừng.
Raunkiaer (1934) đã đưa ra công thức xác định phổ dạng sống chuẩn cho
hàng nghìn lồi cây khác nhau. Theo đó, cơng thức phổ dạng sống chuẩn được xác
định theo tỉ lệ phần trăm giữa số lượng các thể của từng dạng sống so với tổng số cá
thể trong một khu vực. Để biểu thị tính đa dạng về lồi, một số tác giả đã xây dựng
các cơng thức xác định chỉ số đa dạng loài như Simpson (1949), Margalef (1958),
Menhinik (1964) … Đây là những nghiên cứu mang tính định lượng nhưng xuất
phát từ những cơ sở sinh thái nên đề tài lựa chọn và vận dụng.
Nghiên cứu định lượng các mối quan hệ, cấu trúc ở rừng nhiệt đới phải nói
đến Rollet (1971) (dẫn theo Phùng Đình Trung (2007) [37] ) là tác giả có nhiều cơng

trình đi sâu vào lĩnh vực và đối tượng này. Ông đã biểu diễn mối quan hệ giữa các
nhân tố điều tra với nhau bằng các hàm hồi quy, khái quát hóa phân bố đường kính
tán, đường kính thân cây dưới dạng phân bố xác suất.


6

a. Quy luật phân bố số cây theo cỡ kính (N /D1.3), số cây theo cỡ chiều cao (N/HVN)
Đây là các quy luật cơ bản nhất của kết cấu lâm phần. Việc mô phỏng quy
luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N-D), số cây theo cỡ chiều cao (N/HVN)
được nhiều tác giả đặc biệt quan tâm. Hầu hết các tác giả đều sử dụng hàm tốn học
để mơ phỏng cho các quy luật này. Có thể điểm qua một số cơng trình tiêu biểu sau:
Meyer (1934) (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [10], sử dụng phương trình tốn
học có dạng đường cong giảm liên tục để mô tả phân bố số cây theo cỡ đường kính,
được gọi là phương trình Meyer hay hàm Meyer
Naslund (1936 - 1937) đã xác lập luật phân bố Chiarlier kiểu A để nắn số cây
theo cỡ kính của các lâm phần rừng thuần lồi đều tuổi (theo Phạm Ngọc Giao,
1995 [10]).
Balley (1973) đã sử dụng hàm Weibull để mơ hình hóa cấu trúc đường kính
lồi, chiều cao thơng theo mơ hình của Schumacher và Coile (theo Bùi Văn Chúc,
1995 [5]). Loestch (1973) đã dùng hàm Beta để nắn các phân bố thực nghiệm (theo
Trần Cẩm Tú, 1999 [39]).
Diatchenko, Z.N sử dụng phân bố Gamma để biểu thị phân bố số cây theo cỡ
đường kính lâm phần Thơng Ơn đới. J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992), đã
dùng hàm Weibull để mô phỏng phân bố N/D khi nghiên cứu rừng nhiệt đới tại
Marsanhoo – Brazin (theo Phạm Ngọc Giao, 1995 [10]).
Ngoài ra, một số tác giả sử dụng các hàm Hyperbol, họ đường cong Pearson,
phân bố Boisson,… để mô phỏng quy luật phân bố này.
b. Quy luật tương quan giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực (HVN/D1.3).
Giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực của các cây trong lâm phần ln

tồn tại mối quan hệ chặt và tuân theo quy luật: khi tuổi tăng thì đường kính và chiều cao tăng
theo và giữa chúng tồn tại mối quan hệ theo dạng đường cong. Và cùng với tuổi tăng lên thì
đường cong có xu hướng dịch chuyển lên trên (Tiurin D.V, 1927). Ngoài ra, độ dốc của
đường cong chiều cao giảm theo tuổi [13].
Một số tác giả đã sử dụng các hàm tốn học khác để biểu thị mối quan hệ
này. Có thể điểm qua một vài cơng trình như sau:


7

Tovstolesse, DI (1930) đã lấy cấp đất làm cơ sở để nghiên cứu quan hệ
HVN/D1.3. Mỗi cấp đất tác giả lập một đường cong chiều cao tương ứng với mỗi cỡ
đường kính để có dãy tương quan cho lồi và cấp chiều cao. Sau đó dùng phương
pháp biểu đồ để nắn dãy tương quan theo dạng đường thẳng của Gehrhardt và
Kopetexki (dẫn theo Phạm Ngọc Giao, 1995 [10]).
Các tác giả [13]; Naslund, M (1929); Assmanm, E (1936); Hohenadl, W
(1936); Prodan, M (1944); Meyer, H.A (1952) khi nghiên cứu quan hệ H/D đã đề
nghị các dạng phương trình:
h = a + blog(d)

(1.1)

h = a o + a 1 d + a 2 d2

(1.2)

h = k.db

(1.3)


h  1,3 

d2
(a  b.d )2

(1.4)

Petterson, H (1955) (dẫn theo Nguyễn Trọng Bình, 1996 [2]) đề xuất sử dụng
phương trình:
3

1
b
a
d
h  1,3

(1.5)

Curtis, R.O (1967) (dẫn theo Hồng Văn Dưỡng, 2000 [9]) mơ phỏng quan
hệ giữa chiều cao với đường kính và tuổi theo dạng phương trình:
1
1
1
Logh  d  b1.  b2 .  b3.
d
A
d.A

(1.6)


1.1.3. Nghiên cứu về đa dạng khu hệ thực vật.
Các cơng trình nghiên cứu về hệ thực vật đầu tiên trên thế giới được bắt đầu
vào thập kỷ 60 của thế kỷ 19, điển hình là: thực vật chí Hồng Kơng (1861), thực vật
chí Ấn Độ (1872) gồm 7 tập, thực vật chí Hải Nam (1972-1977). Ở Nga,
A.I.Tolmachop (1928-1932) khi nghiên cứu về hệ thực vật rừng nhiệt đới đã đưa ra
nhận định: số loài trong một hệ thực vật thường là 1500-2000 lồi[37].
Về khu hệ thực vật Đơng dương có các cơng trình nghiên cứu: Thực vật
Đơng Dương gồm 8 tập của H.Lecomte (1905), rừng Đông dương của H.Guibier
(1926)[35],...


8

1.1.4. Nghiên cứu về tái sinh
Trong phương thức rừng đều tuổi của Malaysia (MUS, 1945), nhiệm vụ đầu
tiên được ghi trong lịch trình là điều tra tái sinh theo ơ vng 1/1000 mẫu Anh
(4m2), để biết xem tái sinh có đủ hay khơng và sau đó mới tiến hành các tác động
tiếp theo.
Richards P.W (1952) [31] đã tổng kết việc nghiên cứu tái sinh trên các ô
dạng bản và phân bố tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Để giảm sai số trong khi
thống kê tự nhiên, Barnard (1950)[49] đã đề nghị một phương pháp “Điều tra chuẩn
đoán” mà theo đó kích thước ơ đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển
của cây tái sinh.
Một số tác giả nghiên cứu tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới Châu Á như: Bara
(1954)[45], Budowski (1956)[], có nhận định: dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ
lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, nên việc đề xuất các biện pháp lâm sinh để bảo vệ
lớp cây tái sinh này là cần thiết. Nhờ những nghiên cứu này, nhiều biện pháp tác động
vào lớp cây tái sinh đã được xây dựng và đem lại hiệu quả đáng kể.
Van Steenis (1956)[48] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của

rừng nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và tái sinh vệt (tái sinh lỗ trống). Hai
đặc điểm này không chỉ thấy ở rừng nguyên sinh mà còn thấy ở rừng thứ sinh - một
đối tượng rừng khá phổ biến ở rừng nhiệt đới.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái sinh tự nhiên,
nhân tố ánh sáng (thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ,
cây bụi, thảm tươi được đề cập thường xuyên. Baur G.N. (1964)[1] cho rằng, trong
rừng nhiệt đới sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con còn đối
với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này thường không rõ ràng.
Ngoài ra, các tác giả nhận định, thảm cỏ và cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng
và phát triển của cây tái sinh. Mặc dù ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi
kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng dến cây tái sinh. Đối với rừng nhiệt
đới, số lượng loài cây trên một đơn vị diện tích và mật độ tái sinh thường khá lớn.
Số lượng lồi cây có giá trị kinh tế thường khơng nhiều và được chú ý hơn, cịn các


9

lồi cây có giá trị kinh tế thấp lại ít được quan tâm mặc dù chúng có vai trị sinh thái
quan trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên cần phải đề cập một cách đầy
đủ tất cả các loài cây xuất hiện trong lớp cây tái sinh để có những đánh giá chính
xác tình hình tái sinh rừng và có những biện pháp tác động phù hợp.
Như trên đã đề cập, mục tiêu thứ hai của các tác động xử lý ở rừng mưa nhiệt
đới là tạo lập tái sinh bằng mọi cách nhằm thực hiện tái sinh thành công. Việc áp
dụng hàng loạt các biện pháp kỹ thuật nhằm xây dựng và duy trì lớp cây tái sinh
trong tình trạng lành mạnh, đưa lớp cây tái sinh này tới tuổi thành thục được coi là
nền tảng của một phương thức lâm sinh.
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu được đề cập trên đây phần nào làm sáng
tỏ việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên nói chung và rừng nhiệt đới nói
riêng. Đó là những cơ sở để lựa chọn cho việc nghiên cứu cấu trúc và tái sinh rừng
trong luận văn này. Tùy vào từng đối tượng cụ thể mà cần phải có những phương

pháp nghiên cứu phù hợp
1.2. Ở Việt Nam
Nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả đã tập trung vào các đặc điểm
cấu trúc của các kiểu rừng tự nhiên, rừng trồng nhằm phục vụ công tác quản lý,
kinh doanh lâu dài và ổn định.
1.2.1. Nghiên cứu về phân loại rừng
Dựa vào hệ thống phân loại của Loetschau (1960) [24] Viện điều tra quy
hoạch cải tiến lại cho phù hợp với đặc điểm rừng Việt Nam và cho đến nay vẫn áp
dụng hệ thống này vào việc phân loại trạng thái rừng hiện tại.
Năm 1978, Thái Văn Trừng [35] cũng đã đưa ra hệ thống phân loại sinh thái
phát sinh, tác giả chí rừng Việt Nam thành 14 kiểu thảm thực vật. Hệ thống phân
loại của Thái Văn Trừng được xây dựng trên cơ sở học thuyết về hệ sinh thái rừng
của Tansley A.P (1935) và học thuyết địa quần của Sucasev (1957) theo nguyên lý “
sinh thái phát sinh thảm thực vật”.
Vũ Đình Huề (1984) [16], dựa trên hệ thống phân loại của Loeschau, phân
chia trạng thái rừng phục vụ công tác kinh doanh rừng dựa vào trạng thái hiện tại.


10

Vũ Đình Phương (1988) [30], khi xác định cấu trúc quần thể rừng phù hợp
cho từng đối tượng và mục tiêu điều chế đã dựa vào các đặc trưng: nhóm sinh thái
tự nhiên, giao đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo rừng bằng con
đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm địa hình và đặc điểm thổ nhưỡng để phân chia
rừng thành lô khác nhau phục vụ điều chế rừng.
Bảo Huy (1993) [18], đựa trên hệ thống phân loại của Loeschau phân chia
trạng thái rưng hiện tại của lâm phần Bằng lăng ở Tây nguyên. Thông qua trị số
IV% tác giả cũng xác định các loại hình xã hợp thực vật với các ưu hợp khác nhau.
Đào Công Khanh (1996) [19], dựa vào tổ thành các lồi cây mục đích để
phân loại rừng phục vụ cho việc xác định các biện pháp kỹ thuật lâm sinh.

Lê Sáu (1996) [32], dựa trên bảng của Loeschau để phân loại các trạng thái
các lâm phần rừng kín thường xanh ở Kon Hà Nừng.
Như vậy, nhiều tác giả đã có những nghiên cứu liên quan đến việc phân chia
loại hình rừng tự nhiên ở Việt Nam. Mỗi phương pháp phân chia dựa trên cơ sở
nhất định và phù hợp cho từng đối tượng nhất định. Tuy nhiên, cơ sở lý luận theo
phân loại của Thái Văn Trừng rất chặt chẽ, đáp ứng được thực tiển và khả năng áp
dụng dễ dàng. Mặt khác hệ thống phân loại này có thể áp dụng cho tất cả các loại
thảm thực vật dù đó là rừng nghiên sinh hay rừng thứ sinh bị tác động, thậm chí là
những khu rừng nhân tạo.
1.2.2. Nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng
1.2.2.1. Quy luật phân bố số cây theo cỡ kính (N/D1.3) và số cây theo cỡ chiều cao (N/HVN)
Trương Hồ Tố (1996) [34] đã dùng họ đường cong Pearson và các hàm
Charlie để mô phỏng một số cấu trúc của rừng Thông ba lá ở Tây Nguyên. Vũ
Nhâm (1988), Phạm Ngọc Giao (1989), Trần Văn Con (1991) [6] đã áp dụng hàm
Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính ở các kiểu rừng khác nhau.
Lê Minh Trung (1991) [36] đã sử dụng hàm Poisson mô phỏng cấu trúc tán
lá cây, hàm Weibull mô phỏng cấu trúc chiều cao và đường kính. Đồng thời, khảo
nghiệm hàm Hyperbol và Meyer cho các cấu trúc này.


11

Ở nước ta, vài ba thập niên trở lại đây, nghiên cứu quy luật phân bố số cây
theo cỡ kính, chiều cao mới được các nhà lâm sinh học quan tâm, cụ thể
Đồng Sĩ Hiền (1974) [11] dùng hàm Meyer và họ đường cong Pearson để
nắn phân bố số cây theo đường kính làm cơ sở cho việc lập biểu thể tích và biểu độ
thon cây đứng rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam. Phân bố số cây theo cỡ chiều cao
ở các lâm phần rừng tự nhiên hay trong từng lồi cây thường có nhiều đỉnh, phản
ánh kết cấu tầng phức tạp của rừng chặt chọn.
Nguyễn Hải Tuất (1972, 1982, 1990) [40], [41], [42] đã sử dụng hàm phấn

bố giảm, phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh và vận dụng quá
trình Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể.
Nguyễn Văn Trương (1983) [38] đã thử nghiệm dùng các hàm mũ, Logarit
và phân bố Poisson để biểu thị cấu trúc số cây theo cấp kính, chiều cao của rừng tự
nhiên hỗn loài, kết quả cho thấy chỉ có riêng phân bố Poisson khơng đem lại hiệu
quả cao.
Bảo Huy (1988, 1993) [17], [18] thử nghiệm 5 dạng phân bố lý thuyết là
Poisson, khoảng cách, hình học, Meyer và Weibull để mô phỏng cấu trúc của rừng
Bằng lăng ở Tây Nguyên. Phân bố N/HVN có dạng một đỉnh, nhiều đỉnh phụ hình
răng cưa và mơ tả thích hợp bằng hàm Weibull
Trần Văn Con (1991) [6], Lê Minh Trung (1991) [36] đã thử nghiệm một số
phân bố xác suất để phân bố N/ D1.3 đều cho nhận xét là phân bố Weibull thích hợp
nhất cho rừng tự nhiên ở Đắc Lắc.
Nguyễn Ngọc Lung (1991) [25] khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở
Hương Sơn, Kon Hà Nừng và một số địa phương khác thấy rằng: phân bố số cây
theo cỡ đường kính tuân theo phân bố giảm kiểu Meyer ở rừng nguyên sinh và thường
xuất hiện một đỉnh ngay sau cỡ đường kính nhỏ nhất và có thể có một đỉnh q thành
thục ở cỡ đường kính lớn.
Lê Sáu (1996) [32] sử dụng hàm Weibull mô phỏng phân bố đường kính và chiều
cao cho rừng tự nhiên ở Kon Hà Nừng, Tây Nguyên.


12

Trần Cẩm Tú (1999) [39] sử dụng hàm Weibull và hàm Khoảng cách để mô
phỏng quy luật phân bố N/ D1.3 cho tổng thể rừng tự nhiên phục hồi sau khai thác đã
khẳng định: cả hai hàm đều mô phỏng tốt quy luật phân bố N/D1.3, N/HVN, tuy nhiên
với việc xuất hiện phổ biến đỉnh đường cong ở cỡ kính 12cm thì hàm khoảng cách
thể hiện tính phù hợp N/D1.3, hàm Weibull mô phỏng tốt cho quy luật cấu trúc
N/HVN.

Vũ Tiến Hinh (1985, 1986, 1990) [12], [13], [14] đã thử nghiệm một số phân
bố lý thuyết để nắm phân bố N/D1.3, N/HVN một số loài cây trồng và đi đến kết
luận: Phân bố Weibull là phân bố thích hợp nhất.
Nhìn chung, khi xây dựng mơ hình cấu trúc phân bố N/D1.3, N/HVN với đối
tượng là rừng trồng thuần loài đều tuổi, các tác giả thường sử dụng hàm Weibull,
còn đối tượng là rừng tự nhiên hỗn giao khác tuổi thì sử dụng phân bố khoảng cách,
phân bố giảm là phù hợp hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng hàm này hay hàm khác cần
căn cứ vào dãy tần số phân bố thực nghiệm, cũng tức là phải dựa vào quy luật vận
động vốn có của rừng.
1.2.2.2. Quy luật tương quan giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực (HVN/D1.3).
Quy luật tương quan giữa HVN/D1.3 là môt quy luật cơ bản và quan trọng
trong hệ thống các quy luật cấu trúc lâm phần. Việc nghiên cứu mối quan hệ này có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng và được rất nhiều tác giả quan tâm. Có thể kể đến một
số cơng trình nghiên cứu sau:
Đồng Sĩ Hiền (1974) [11] khi nghiên cứu rừng tự nhiên nước ta đã thử
nghiệm 5 dạng phương trình sau:
h = a + blog(d)

(1.7)

h = ao + a1d + a2logd

(1.8)

h = ao + a1d + a2d2 + a3d3

(1.9)

h = a o + a 1 d + a 2 d2


(1.10)

Logh = a+b.logd

(1.11)

h  1,3 

d2
(a  b.d ) 2

(1.12)


13

Kết quả cho thấy, cả 5 dạng phương trình trên đều phù hợp, trong đó có hai
dạng (1.8) và (1.11) được chọn làm phương trình lập biểu chiều cao.
Phạm Ngọc Giao (1995) [10] sử dụng phương trình logarit một chiều (1.7)
để mô tả mối quan hệ giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực của lâm
phần thơng đi ngựa.
Tương tự, Vũ Văn Nhâm (1988) [27] cũng sử dụng phương trình (1.7) để xác
lập quan hệ giữa HVN/D1.3 cho lâm phần thông đuôi ngựa làm cơ sở lập biểu thương
phẩm.
Bảo Huy (1993) [18] trong các nghiên cứu cấu trúc Bằng lăng ở Tây Nguyên
đã thử nghiệm 5 dạng phân bố lý thuyết là: Poisson, khoảng cách, hình học, Meyer
và Weibull để mô phỏng cấu trúc của nhân tố điều tra. Ơng đã thử nghiệm 4 phương
trình:
h = a + b.d


(1.13)

h = a + blog(d)

(1.14)

Logh = a + blog(d)

(1.15)

Logh = a + b.d

(1.16)

Kết quả lựa chọn được hàm (1.15) là phù hợp nhất.
Đào Công Khanh (1996) [19], Trần Cẩm Tú (1993) [39] đã chọn phương trình
(1.15) để biểu diễn quan hệ giữa HVN/D1.3 cho rừng tự nhiên, hỗn loài ở Hương Sơn
– Hà Tĩnh.
Hoàng Văn Dưỡng (2000) [9] đã sử dụng các dạng hàm (1.14), (1.15), (1.16)
để nghiên cứu quan hệ giữa HVN/D1.3 cho lâm phần keo lá tràm ở một số tỉnh khu
vực miền Trung. Kết quả, tác giả đã chọn quan hệ dạng hàm (1.14) để biểu thị mối
quan hệ giữa HVN/D1.3.
1.2.3. Nghiên cứu về đa dạng loài khu hệ thực vật.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về đa dạng sinh học đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà khoa ở Việt Nam đặc biệt là nghiên cứu về đa dạng hệ thực vật. Đầu tiên
phải kể đến cơng trình nghiên cứu: “Thảm thực vật rừng Việt Nam” của Thái Văn


14


Trừng (1963,1978)[35]. Tác giả đã tổng kết và công bố cơng trình nghiên cứu của
mình với 7.004 lồi thực vật bậc cao có mạch thuộc 1.850 chi và 189 họ ở Việt Nam.
Viện điều tra quy hoạch rừng đã công bố 7 tập Cây gỗ rừng Việt Nam (19711978) và được Vũ Văn Dũng dịch ra tiếng Anh (1996).
Trần Ngọc Hải (2000) đã giới thiệu 1282 loài thuộc 660 chi và 176 họ thực vật
bậc cao có mạch phân bố ở vườn quốc gia Tam Đảo và khẳng định: Tại khu vực
nghiên cứu, phân bố của các loài thực vật theo đai cao thể hiện khá rõ.
Nguyễn Nghĩa Thìn, Phạm Bình Quyền (2000) cơng bố cuốn “Đa dạng sinh học”.
Nguyễn Nghĩa Thìn (2003) cơng bố cuốn: “Đa dạng sinh học và tài nguyên di
truyền thực vật” nhằm cung cấp những cơ sở cho công tác nghiên cứu đa dạng thực
vật ở Việt Nam.
Các tác giả trong và ngoài ngành Lâm nghiệp đã biên soạn cuốn “Danh lục
thực vật Việt Nam” tập 1, 2, 3 (xuất bản năm 2003-2005). Đây là bộ sách đầy đủ
nhất trong nghiên cứu hệ thực vật ở Việt nam.
1.2.4. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Ở nước ta, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống
về tái sinh rừng, đặc biệt là tái sinh tự nhiên. Một số kết quả về nghiên cứu tái sinh
thường được đề cập trong các công trình nghiên cứu về thảm thực vật trong các báo
cáo khoa học.
Trong thời gian từ năm 1962 đến 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch rừng đã
điều tra tình tái sinh tự nhiên theo các “Loại hình thực vật ưu thế” rừng thứ sinh ở
Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969), và Lạng Sơn (1969), đáng
chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sơng Hiếu (1962-1964), bằng
phương pháp đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái sinh, dựa vào mật độ cây tái
sinh, Vũ Đình Huề (1969, 1984) [16], đã phân chia khả năng tái sinh rừng thành 5
cấp: rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu với mật độ tái sinh tương ứng là: trên
12000 cây/ha, 8000 - 12000 cây/ha, 4000 - 8000 cây/ha, 2000 - 4000 cây/ha và dưới
2000 cây/ha. Nhìn chung, nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số lượng mà chưa
đề cập đến chất lượng cây tái sinh. Cũng từ kết quả điều tra trên, Vũ Đình Huề đã



15

tổng kết và rút ra nhận xét: Tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam mang những
đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng nguyên sinh, tổ thành loài cây
tái sinh tương tự như tầng cây gỗ dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ
kém giá trị và hiện tượng tái sinh theo đám được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố
số cây không đồng đều trên mặt đất rừng.
Khi nghiên cứu về tái sinh rừng không thể không nhắc tới hiện tượng tái sinh
lỗ trống. Theo Phạm Đình Tam (1987): số lượng cây tái sinh xuất hiện khá nhiều
dưới những lỗ trống khác nhau, lỗ trống càng lớn cây tái sinh càng nhiều và hơn hẳn
những nơi kín tán. Đây là một trong những đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng nhiệt
đới. Trần Ngũ Phương (2000), khi nghiên cứu các quy luật phát triển rừng tự nhiên
ở miền Bắc Việt Nam đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của rừng tự nhiên
như sau: “Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng trên già cỗi, tàn lụi rồi
tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế. Trường hợp chỉ có một tầng trong khi nó già
cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và sẽ thay thế nó sau khi nó tiêu vong, hoặc
cũng có thể một thảm thực vật trung gian xuất hiện thay thế, nhưng về sau dưới lớp
thảm thực vật trung gian này sẽ xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong
tương lai và sẽ thay thế thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được
phục hồi”. Tuy nhiên, sau một thời gian nghiên cứu tìm hiểu quy luật của loại hình
rừng tự nhiên, xây dựng bản cân đối giữa một bên là mặt thối hóa với một bên là
mặt phục hồi tự nhiên, tác giả này và các cộng tác viên đã kết luận: “Mặt phục hồi
tự nhiên không bao giờ cân đối được với mặt thối hóa về số lượng cũng như chất
lượng, nên muốn đảm bảo cho đất nước một độ che phủ thích hợp, chúng ta khơng
thể trơng cây vào quy luật tái sinh tự nhiên mà chỉ có thể đi theo con đường tái sinh
nhân tạo và phương thức chặt tỉa kết hợp với tái sinh tự nhiên hiện nay phải bị lên án”.
Trần Cẩm Tú (1999) [39] nghiên cứu tái sinh tự nhiên sau khai thác chọn ở
Hương Sơn - Hà Tĩnh và đã rút ra kết luận, áp dụng phương thức xúc tiến tái sinh tự
nhiên có thể đảm bảo khôi phục vốn rừng, đảm bảo sử dụng tài nguyên rừng một
cách bền vững.

Những kết luận trên đây có thể sử dụng để tham khảo cho những đề xuất
biện pháp kĩ thuật tác động vào rừng khi nghiên cứu phân bố cây tái sinh theo chiều


16

cao và phân bố cây tái sinh trên mặt đất. Thực tế cho thấy, với điều kiện nước ta
hiện nay, nhiều khu vực vẫn phải trông cậy vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh nhân
tạo mới chỉ được triển khai trên quy mơ hạn chế. Vì vậy, những nghiên cứu đầy đủ
về tái sinh tự nhiên cho từng đối tượng rừng cụ thể là hết sức cần thiết nếu muốn đề
xuất biện pháp kĩ thuật hợp lí.
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu về cấu trúc rừng nhằm xác định được đặc
điểm cấu trúc tầng cây cao và cây tái sinh từ đó làm căn cứ để đề xuất các biện pháp
tác động để quản lý, sử dụng rừng một cách hiệu quả và bền vững.
1.2.5. Các cơng trình nghiên cứu ở Pù Hu
Trong “Đề án xây dựng khu BTTN Pù Hu”, Viện điều tra Quy hoạch rừng
(1998) (dẫn theo Nguyễn Hữu Cường (2010) [7])cũng đã thống kê được khu BTTN
Pù Hu có 495 lồi, 305 chi, 101 họ thực vật nằm trên hai hệ sinh thái: hệ sinh thái
núi đất, hệ sinh thái núi đá vôi. Năm 2010, khóa luận của Nguyễn Văn Phú [29]:
“Nghiên cứu sự đa dạng thực vật thân gỗ tại Khu BTTN Pù Hu”. Trong cùng thời
gian đó Nguyễn Hữu Cường[7], luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiêp: “Nghiên cứu
đa dạng thực vật tại khu BTTN Pù Hu” đã thống kê được 894 loài thuộc 575 chi,
143 họ của 6 ngành thực vật bậc cao có mạch. Tuy nhiên để đi sâu vào nghiên cứu
về đặc điểm cấu trúc của từng hệ sinh thái rừng trong khu vực thì chưa có cơng
trình nghiên cứu nào.


17

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
- Ranh giới: Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu thuộc phía tây của tỉnh Thanh
Hố, cách trung tâm thành phố Thanh Hoá 134 km về phía Tây Bắc theo đường
quốc lộ 47 và 15A thuộc địa giới hành chính của hai huyện gồm 11 xã. Trong đó
huyện Quan Hố 10 xã: gồm: Xã Nam Tiến; Thiên Phủ, Hiền Chung, Hiền Kiệt,
Thanh Xuân, Phú Sơn, Phú Xuân, Phú Thanh, Trung Thành và Trung Sơn); huyện
Mường Lát 01 xã: Xã Trung Lý), thuộc tỉnh Thanh Hoá.
Các vị trí tiếp giáp:
+ Phía Bắc giáp tỉnh Hồ Bình và tỉnh Sơn La;
+ Phía Nam giáp huyện Quan Sơn;
+ Phía Đơng giáp huyện Bá Thước;
+ Phía Tây giáp huyện Mường Lát và nước bạn Lào.
- Tọa độ địa lý:
Từ 20022’30’’ đến 20040’00’’ vĩ độ Bắc
Từ 104040’00’’ đến 105005’00’’ kinh độ Đông.


18

Hình2.1: Bản đồ vị trí Khu BTTN Pù Hu
2.1.2. Địa hình
Khu BTTN Pù Hu là một khối núi nằm ở phía Tây của vành đai núi đá vơi
chạy theo hướng Tây - Nam, từ Khu BTTN Pù Luông tới Vườn Quốc gia Cúc
Phương. Tuy nhiên về mặt địa chất thì Pù Hu chủ yếu là vùng núi đất với thành
phần đá mẹ phức tạp, bao gồm đá granite, riolite, sa thạch, phiến thạch, cuội kết, đá
czát và đá vôi. Đỉnh cao nhất là đỉnh Pù Hu ( 1.470 m) nằm phía Bắc khu bảo tồn.
Phía Nam có một số đỉnh cao 1.390 m và 1.420 m. Về phía Bắc, phía Đơng và phía
Nam của các đỉnh núi này độ cao giảm mạnh cho tới các thung lũng sông Mã và

sông Luồng. Điểm thấp nhất trong khu bảo tồn dưới 50 m.
2.1.3. Khí hậu, thủy văn
Khu BTTN Pù Hu nằm trên vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang đặc điểm
khí hậu của vùng Tây Bắc Việt nam và khí hậu á nhiệt đới. Nhiệt độ bình quân biến
động từ 200C - 250C, nhiệt độ tối cao là 390C, nhiệt độ tối thấp là 50C. Lượng mưa
bình quân năm tương đối thấp, biến động từ 1400 mm - 1500 mm. Trong khu vực
có hai loại gió mùa chính đó là gió mùa Đơng Nam và gió mùa Đơng Bắc. Do vùng


×