Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tài liệu NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KH&CN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 92 trang )



















NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KH&CN

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


1
MỤC LỤC

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KH&CN






Hoàng Trọng Cư
50 năm Ủy ban Khoa học Nhà nước
Nguyễn Văn Học
Liên kết nghiên cứu với giảng dạy: ý tưởng và thực tiễn
Lê Thành Ý
Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Nguyễn Nghĩa
Cơ hội và thách thức đối với đổi mới quản lý khoa học và công nghệ sau khi
nước ta gia nhập WTO
Nguyễn Mạnh Quân
Giả
i pháp chính sách phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học và công
nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế
Bạch Tân Sinh
Tác động của chuyển đổi chính sách KH&CN đến chuyển đổi việc tạo ra và sử
dụng tri thức tại viện NC&TK
Hoàng Ngọc Doanh
Bàn về sửa luật khoa học và công nghệ trong việc tổ chức thực hiệ
n nhiệm vụ
khoa học và công nghệ

KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI

Hoàng Xuân Long
Xu hướng mới về liên kết giữa viện, trường và doanh nghiệp trên thế giới
Nguyễn Thanh Thịnh
Đổi mới định hướng kế hoạch hóa, chương trình khoa học và công nghệ ở nước
ngoài và gợi suy cho Việt Nam

Nguyễn Quang Tuấn

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


2
Một số kinh nghiệm về đào tạo tiến sỹ tại đại học Toronto, Canada

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


3
CONTENTS

RESEARCH OF SCIENCE AND TECHNOLOGY POLICY
1. Hoang Trong Cu
Fifty years of the State Committee for Science
2. Nguyen Van Hoc
The linkages between research and education: the idea and reality
3. Le Thanh Y
Support for technology innovation in business firms
4. Nguyen Nghia
Opportunities and challenges for the innovation of science and technology
management in Vietnam after joining WTO
5. Nguyen Manh Quan
Policy solutions for increasing the role of science and technology
intelligentsia during the period of industrialization, modernization and
integration into the world economy
6. Bach Tan Sinh
The impacts of the transmission of science and technology policies on the

transmission of creation and utilization of knowledge at R&D institutions
7. Hoang Ngoc Doanh
Discussion on the amendment of Science and Technology Law in organizing
the implementation of science and technology tasks

INTERNATIONAL EXPERIENCE
8. Hoang Xuan Long
New trends of the linkages between research institutions and universities in
the world
9. Nguyen Thanh Thinh
Innovation oriented planning, science and technology programs in foreign
countries and implications for Vietnam
10. Nguyen Quang Tuan
Experiences of Ph.D education at the University of Toronto

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


4
NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

50 NĂM ỦY BAN KHOA HỌC NHÀ NƯỚC

Hoàng Trọng Cư
1


Tóm tắt
Ủy ban Khoa học Nhà nước qua nhiều lần đổi tên, nay là Bộ Khoa học và
Công nghệ được thành lập theo Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ngày 29 tháng 4 năm 1958. Qua 50 năm xây dựng và phát triển, Bộ Khoa
học và Công nghệ đã thực hiện được nhiệm vụ tham mưu về KH&CN cho Trung
ương Đảng và Chính phủ, đồng thời từng bước đổi mới cơ chế quả
n lý KH&CN phù
hợp với nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng với nhiệm vụ được giao, Bộ Khoa học và
Công nghệ hiện cần sớm khắc phục một số vấn đề về tổ chức và sử dụng đội ngũ
cán bộ KH&CN.
MỞ ĐẦU
Sau ngày hoà bình lặp lại năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc
bắt tay hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống và bắt đầu
xây dựng lại đất nước. Nhu cầu của công cuộc kiến thiết đất nước ngày càng mở rộng,
đòi hỏi cần thiết phải có cơ quan giúp Chính phủ xây dựng nền khoa học và công nghệ
đồng thời qu
ản lý mọi hoạt động của khoa học và công nghệ. Theo đề nghị của Chính
phủ, ngày 29/4/1958 tại kỳ họp thứ 8, Khoá I, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà thông qua nghị quyết “Lập Uỷ ban Khoa học Nhà Nước (phụ trách Khoa học tự
nhiên và Khoa học xã hội) có quyền hạn và trách nhiệm ngang một bộ và trực thuộc
Hội đồng Chính phủ”. Trong năm 1958. Quốc hội bổ nhiệm Phó Thủ tướ
ng Trường
Chinh kiêm chức Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước và Hội đồng Chính phủ cử
các thành viên của Uỷ ban Khoa học Nhà nước.
Uỷ ban Khoa học Nhà nước là tiền thân của Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước
(1965-1990), của Uỷ ban Khoa học Nhà nước (1990-1992), của Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường (1992-2002), của Bộ Khoa học và Công nghệ (2002 - đến nay).
Việc thành lập Uỷ ban Khoa học Nhà nước ở thời đi
ểm lúc bấy giờ có ý nghĩa rất quan
trọng.
Uỷ ban Khoa học Nhà nước trở thành cơ quan giúp Chính phủ chủ trì xây dựng nền
Khoa học và công nghệ của đất nước, hoạch định chính sách phát triển khoa học và
công nghệ, đồng thời giúp Chính phủ điều hành mọi hoạt động khoa học và công nghệ

của Nhà nước.

1
Nguyên Nghiên cứu viên cao cấp của Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


5
Chính phủ sớm khẳng định vai trò và vị trí của phân hệ quản lý khoa học và công nghệ
trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước.
Uỷ ban Khoa học Nhà nước được thành lập vừa đáp ứng được nguyện vọng vừa động
viên và cổ vũ rất lớn đối với các tổ chức khoa học, các nhà khoa học trong mọi hoạt
động phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quố
c.
Trong giai đoạn ban đầu xây dựng một cơ quan đảm nhận chức năng quản lý nhà nước
về khoa học và công nghệ. Trung ương Đảng và Chính phủ đã dành sự quan tâm đặc
biệt cho Uỷ ban là đã lần lượt cử ba đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị giữ chức chủ nhiệm
Uỷ ban Khoa học Nhà nước: Đồng chí Trường Chinh (4/1958 - 7/1960), đồng chí Võ
Nguyên Giáp (7/1960 - 1/1963), đồng chí Nguyễn Duy Trinh (1/1963 -10/1965).
Từ đó đến nay, Chính phủ
đã ban hành nhiều văn bản quan trọng quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan này. Có thể nói từ Sắc lệnh đầu
tiên số 016-SL ngày 4/3/1959 đến Nghị định sau cùng số 28/2008/NĐ-CP ngày
14/3/2008, Chính phủ đều giao cho Uỷ ban Khoa học Nhà nước trước đây, nay là Bộ
Khoa học và Công nghệ chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực KH&CN trong phạm
vị cả n
ước. Song, trong thực tiễn nhiều năm qua, chức năng này có lúc tập trung (1958-
1965), có lúc phân chia (1966-1990), tập trung lại (1991- nay). Sự phân chia đó diễn
biến theo không gian và thời gian như sau.

Giai đoạn 1958-1965, Hội đồng Chính phủ giao cho Uỷ ban đảm nhận toàn bộ chức
năng quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ, cùng với chức năng này Uỷ ban
đồng thời được giao nhiệm vụ xây dựng và quản lý các cơ sở nghiên cứu khoa học để
tiến tới thành lập Viện Khoa học Việt nam (NĐ 43-CP năm 1962).
Giai đoạn 1966-1990, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn tách Uỷ ban Khoa học
Nhà nước thành 2 cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Từ đây, phần chức năng
quản lý và phần nghiên cứu Khoa học xã hội được Chính phủ giao cho Uỷ ban Khoa
học Xã hội Việt Nam đảm nhận.
Giai đoạn từ 1990 đến nay
, bộ máy quản lý Nhà nước được kiện toàn, chức năng quản
lý Nhà nước về KH&CN được tập trung trở lại và Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà
nước đổi tên thành Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Năm 1992 Nhà nước giao thêm nhiệm
vụ quản lý môi trường và cơ quan này đổi tên thành Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường. Năm 2002 Nhà nước chuyển nhiệm vụ quản lý môi trường cho Bộ Tài nguyên
và Môi trường. Từ đây cơ quan quả
n lý này mang tên Bộ Khoa học và Công nghệ.
Như vậy, qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN
đã từng bước triển khai thực hiện chức năng và nhiệm vụ được Chính phủ giao và đóng
góp phần quan trọng trong thành công chung của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước.
1. Về công tác tham mưu khoa học và công nghệ
Trong quá trình hoạt động của mình, Ủy ban đã kiên trì xây dựng được hệ thống
cơ quan quả
n lý KH&CN và hệ thống này càng ngày càng làm sáng tỏ vai trò và vị trí

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


6
then chốt của KH&CN trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luận cứ này đã
được ghi nhận trong Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 10

Khóa III và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, điều 37 Hiến pháp năm
1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ trước đến nay, Trung ương Đảng và Chính phủ đề
u giao cho Ủy ban trước đây nay
là Bộ chủ trì chuẩn bị các văn bản về KH&CN. Có thể tìm thấy trong văn ban này ví dụ
trong phần KH&CN trong các văn Kiện Đại hội Đảng; Nghị quyết 157 của Ban Bí thư
về tăng cường công tác KH&CN trong tình hình và nhiệm vụ mới, về công tác phục vụ
cách mạng kỹ thuật thời chiến, về công tác phục vụ cách mạng kỹ thuật sau chiến
tranh; Nghị quyết 37 và 26 củ
a Bộ Chính trị về chính sách KH&CN v.v... Các văn bản
này có tác dụng chỉ đạo và định hướng mọi hoạt động KH&CN đồng thời giúp các cấp
lãnh đạo ngày càng thấy rõ vai trò của KH&CN trong nhiệm vụ lãnh đạo của mình.
Thực tiễn của quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ở nước ta càng chứng minh
các luận cứ khoa học không thể thiếu được trong các quyết định của Đảng và Chính
phủ. Vì vậ
y, để hữu thành và triển khai nhiều công trình trọng điểm quốc gia, Ủy ban
và Bộ đã tổ chức dưới nhiều hình thức để huy động trí tuệ của các nhà khoa học tham
gia xây dựng luận cứ khoa học. Trên cơ sở đó, Ủy ban và Bộ đã tham gia chuẩn bị các
quyết định của Chính phủ với đầy đủ trách nhiệm của một cơ quan tham mưu về
KH&CN.
2. Về công tác quả
n lý khoa học và công nghệ
Trong những năm đầu thành lập Ủy ban, đất nước đang trong giai đoạn đan xen giữa
hòa bình xây dựng với chiến tranh, công tác quản lý KH&CN gây nhiều khó khăn. Nhà
nước chưa có ngân sách dành riêng để đầu tư cho KH&CN; Quản lý KH&CN là một
lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, nghiệp vụ quản lý chưa có kinh nghiệm và sẵn bài bản như
lĩnh vực quản lý kinh tế; Ủy ban chưa tạo ra được cơ
chế quản lý phù hợp với đặc điểm
của hoạt động KH&CN. Vì vậy, trong thời ký đầu mọi hoạt động KH&CN chịu sự điều
chỉnh chung của guồng máy quản lý của Nhà nước.

Bước sang thập kỷ 90 của thế kỷ trước, dưới ánh sáng của Nghị quyết 37 của Bộ Chính
trị, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Ủy ban từng b
ước nghiên cứu tháo gỡ những ràng
buộc của cơ chế quản lý chung và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động KH&CN theo
đặc điểm riêng vốn có của nó. Mở đầu bằng Quyết định 175-CP "Cho phép ký kết và
thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu và triển khai". Với quyết định mở đầu này
đã tạo thuận lợi cho các tổ chức khoa học hoạt động tă
ng thêm nguồn vốn, đồng thời sử
dụng có hiệu quả mọi năng lực sẵn có để phục vụ trực tiếp sản xuất và đời sống. Khi
đất nước bước sang thời kỳ đổi mới toàn diện, Quyết định 134-HĐBT tạo thêm cơ sở
pháp lý cho các tổ chức khoa học hoạt động: Xác định quan hệ kinh tế giữa khoa học
với sản xuất, xác đị
nh quyền được thỏa thuận về giá cả và lợi nhuận trong hợp đồng,
xác định quyền được phân chia lợi nhuận giữa người tạo ra và người ứng dụng kỹ thuật
tiến bộ, xác định quyền sử dụng các hình thức khuyến khích vật chất đối với cán bộ

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


7
khoa học. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong hoạt động KH&CN, Nghị định 35-
HĐBT tạo thêm thuận lợi cho các tổ chức khoa học chủ động tạo lập các nguồn vốn và
sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn trong việc tiếp cận nhanh chóng với nhu cầu
thị trường.
Đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, mọi hoạt động KH&CN chị
u sự điều chỉnh
của các Luật: Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Sở hữu Trí tuệ, Luật Chuyển giao
Công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng và Sản phẩm
hàng hóa. Ngoài ra còn hình thành các quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ ở cấp
Quốc gia, cấp Bộ và Tỉnh, Thành phố cũng góp phần phong phú và đa dạng trong hoạt

động nhằm thúc đẩy nền KH&CN Việt Nam phát triển ph
ục vụ đắc lực cho phát triển
kinh tế và xã hội.
Cùng với thời gian hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành ở mỗi giai
đoạn lịch sử có giá trị thực tế điều chỉnh dần dần phù hợp với đặc điểm của hoạt động
KH&CN. Song, khi chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt động KH&CN, đòi hỏi tính
pháp lý hết sứ
c chặt chẽ và đồng thời đáp ứng yêu cầu phù hợp với các thông lệ của
khu vực và quốc tế. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải tiến hành nghiên cứu để xây dựng một
hệ thống pháp luật từ đạo luật cơ bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và có
tính chất chung nhất của hoạt động KH&CN, đến các chế định pháp luậ
t đảm bảo cho
các luật nói trên phát huy tác dụng trong thực tế.
3. Về cơ cấu tổ chức
Ngoài chức năng quản lý Nhà nước về KH&CN, trong những năm đầu xây dựng cơ
quan, Chính phủ còn giao cho Ủy ban nhiệm vụ "Xây dựng và quản lý các cơ sở nghiên
cứu khoa học trực thuộc Ủy ban để tiến tới thành lập Viện Khoa học Việt Nam" - Thực
hiện chủ trương c
ủa Chính phủ, Ủy ban từng bước đề nghị Chính phủ cho tách dần các
cơ sở nghiên cứu khoa học ra khỏi Ủy ban để tạo điều kiện khách quan trong quản lý
và điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng và trưởng thành cho hệ thống cơ quan
nghiên cứu khoa học và cơ quan quản lý khoa học. Đầu tiên vào năm 1965 đã thực hiện
việc tách các cơ sở nghiên cứu khoa học xã hội để
thành lập Viện Khoa học Xã hội.
Tiếp đó, vào năm 1975, tách các cơ sở nghiên cứu khoa học tự nhiên để thành lập Viện
Khoa học Việt Nam. Từ năm 1976 về sau là giai đoạn trọn vẹn xây dựng và củng cố cơ
quan quản lý Nhà nước về KH&CN. Có thể nói ở giai đoạn này, Ủy ban là thành viên
đầu tiên và sớm nhất của Chính phủ tách bạch giữa chủ thể quản lý và đối tượng quả
n
lý để xây dựng một cơ quan quản lý theo hướng quản lý của các nước phát triển. Năm

1992 trong khi triển khai thực hiện Quyết định 324-CP của Chính phủ, Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường đưa Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia và Viện Công
nghệ Quốc gia về trực thuộc Bộ. Điều này không thật phù hợp với nguyên tắc tổ chức
giữa chủ thể quản lý và đố
i tượng quản lý, vừa đi ngược lại tinh thần của quyết định
324 - CP. Sau này, với việc thành lập một số công ty kinh doanh trong Bộ đã làm tăng
thêm việc tản mạn sức lực trong công việc xây dựng cơ quan quản lý Nhà nước tầm vĩ

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


8
mô và có phần đi ngược lại xu hướng quản lý hiện đại mà Uỷ ban đã bắt đầu xây dựng
từ năm 1976.
KẾT LUẬN
Nhìn lại chặng đường 50 năm xây dựng và trưởng thành của cơ quan quản lý Nhà nước
về KH&CN, bên cạnh những thành tích đã đạt được, cơ quan quản lý khoa học này còn
tồn tại một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để
hoàn thiện nhằm thúc đẩy sự phát
triển nền KH&CN của đất nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước.
Việc hình dung đầy đủ chức năng và nhiệm vụ của Bộ được Chính phủ giao là điều
quyết định mọi hoạt động của công tác quản lý KH&CN tầm vĩ mô. Trên cơ sở phương
hướng và chiến lược phát triển nền KH&CN Vi
ệt Nam ở mỗi giai đoạn, cần xác định
chính xác các nhiệm vụ trọng điểm và quyết định vốn đầu tư thích hợp.
Khối công tác quản lý liên ngành luôn luôn giữ vị trí chủ đạo trong nhiệm vụ của Bộ.
Vì vậy, việc tăng cường và mở rộng tổ chức của các Vụ này là điều quyết định sự thành
công của công tác quản lý của Bộ. Còn những tổ
chức không thuộc nhiệm vụ quản lý

của Bộ cần sớm chuyển ra khỏi bộ máy tổ chức của Bộ để đảm bảo sự tập trung xây
dựng tổ chức quản lý theo xu hướng hiện đại.
Trong công tác quản lý KH&CN tầm vĩ mô, sự cần thiết phải tập hợp được trí tuệ của
các nhà khoa học thông qua các tổ chức hội đồng khoa học để làm tư v
ấn cho các quyết
định chuẩn xác của Bộ.
Ở giai đoạn nhập công nghệ là chính thì các nguồn thông tin giữ vị trí quan trọng cho
các quyết định. Trong phòng tư liệu thì kho ca-ta-lô được xem như nguồn cung cấp
thông tin quan trọng nhất cho việc lựa chọn các công nghệ nhập. Vì vậy, Bộ cần định
hướng rõ ràng cho việc xây dựng phòng tư liệu và đầu tư thích đáng để các quyết định
đảm bảo độ chính xác cao.

TÀI LI
ỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa I của nước VNDCCH, thông qua ngày 29/4/1958,
về việc thành lập UBKHNN. Công báo số 27/1958, trang 444.
2. Sắc lệnh số 016/SL ngày 4/3/1959 về việc thành lập UBKHNN. Công báo số 9/1959, trang 137.
3. Nghị định số 43/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKHNN, Công
báo số 13 ngày 18/4/1962, trang 189-190.
4. Quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 165-NQ/TVQH ngày 11/10/1965 phê chuẩ
n
việc tách UBKHNN thành UBKHKTNN và Viện Khoa học Xã hội, Công báo số 14 ngày
1/11/1965 trang 205-206.

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


9
5. Nghị định số 67/CP ngày 27/5/1967 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
UBKHKTNN, Phụ lục Công báo số 5 năm 1967 trang 66-69

6. Nghị định số 192/CP ngày 13/10/1975 ban hành Điều lệ về tổ chức và hoạt động của
UBKHKTNN.
7. Nghị quyết của Hội đồng Nhà nước số 244/NQ-HĐNN ngày 31/3/1990 về việc đổi tên
UBKHKTNN thành UBKHNN
8. Nghị định số 22-CP ngày 22/5/1993 của Chính ph
ủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
bộ máy của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
9. Nghị định số 54/2003/NĐ-CP ngày 19/5/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ.
10. Nghị định số 28/2008/NĐ-CP ngày14/3/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu t
ổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ.
11. Báo cáo về 25 năm hoạt động của Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước.
12. 50 năm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, 1995.
13. 40 năm Xây dựng và Phát triển của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Nxb. Khoa học
và Kỹ thuật, 1999.




NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


10
LIÊN KẾT NGHIÊN CỨU VỚI GIẢNG DẠY:
Ý NGHĨA VÀ THỰC TIỄN


Nguyễn Văn Học
1



Tóm tắt
Vấn đề liên kết Giáo dục - Đại học (GD-ĐH) với KH&CN được đặt ra một cách
nghiêm túc ở nước ta vào đầu những năm 90 sau khi có Nghị định số 35-HĐBT của
Hội đồng Bộ trưởng và sau đó là Quyết định 324 - CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng vào năm 1993. Vào những năm đầu thiên niên kỷ, Luật Khoa học và công
nghệ, Luật Giáo dục, Chi
ến lược phát triển KH&CN Việt nam đến năm 2010, Chiến
lược phát triển giáo dục đến năm 2010 và các văn bản dưới luật khác đều tập trung
các công cụ chính sách để giải quyết vấn đề liên kết này. Tuy nhiên, cho đến nay,
mối quan hệ đó vẫn được xem là yếu kém cần được khắc phục. Câu hỏi đặt ra là
liệu các chính sách đưa ra đã đúng hay chưa và nguyên nhân gốc rễ của yếu kém
hiện nay là
ở đâu? Bài viết này nhằm góp phần trả lời cho vấn đề nêu trên.
1. Kết hợp giảng dạy với nghiên cứu đối với đội ngũ giáo viên
Tùy thuộc vào lĩnh vực khoa học, cách phối hợp giảng dạy với nghiên cứu sẽ khác
nhau. Đơn giản là vì mỗi lĩnh vực khoa học có đặc thù riêng. Chẳng hạn, với khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội, nhu cầu “cơ sở hạ tầ
ng” cho việc nghiên cứu là
“bút chì + máy tính” còn đối với khoa học và công nghệ thì ngược lại, đòi hỏi một
cơ sở hạ tầng theo đúng nghĩa của nó. Ngoài ra, tùy thuộc vào lĩnh vực khoa học mà
người ta tiến hành các nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu ứng dụng trong các trường
đại học. Các lĩnh vực khoa học, về phần mình được phản ánh trong cấu trúc GD-
ĐH.Ví dụ, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trườ
ng Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Trường Đại học Công nghệ v.v...
Tuy nhiên, sự phản ánh ấy chưa nói lên sự thống nhất trong liên kết giảng dạy và
nghiên cứu của chính lĩnh vực đó. Vấn đề là ở chỗ, nhiều trở ngại nảy sinh trong
việc phối hợp giảng dạy và nghiên cứu của chính đội ngũ giáo viên. Xét về bản chất,

quá trình giảng dạy - học tậ
p (giảng bài, ôn tập thảo luận, làm thí nghiệm...) và quá
trình nghiên cứu là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau nhưng có tác động tương hỗ
và bổ sung cho nhau đối với sinh viên và đội ngũ giáo viên. Điều khác biệt là ở chỗ,
đối với sinh viên quá trình này được phân bố theo thời gian, còn đối với đội ngũ
giáo viên - theo sự phân công lao động. Thông thường, theo chức trách một số
chuyên nghiên cứu, một số chuyên giảng dạy. Từ đây, xuất hiện ý ki
ến cho rằng
nghề giảng dạy và nghề nghiên cứu là hai nghiệp vụ khác nhau hoàn toàn, mỗi một

1
TS. Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


11
trong số đó phải giải quyết khối lượng công việc to lớn đến mức không thể đồng
thời giải quyết được.
Đối với giảng viên đại học, đòi hỏi phải giải quyết một tổ hợp các vấn đề. Lập kế
hoạch giảng dạy, bao gồm các trình, các giáo án, ôn tập, thảo luận, kiến tập, thực
hành, thí nghiệm v.v...Trình duyệt kế hoạch trên và sẵ
n sàng cho việc giảng bài vì
thông thường những giáo viên soạn giáo trình thường được giao nhiệm vụ giảng bài.
Trên thực tế, giảng bài không thuần túy là truyền đạt kiến thức mà còn cần phải giải
quyết các vấn đề lý luận và phương pháp luận sư phạm. Người giảng viên, trước
tiên phải là nhà sư phạm có kỹ năng tương tác với giảng đường, trình bày khúc triết
bài giảng, liên kết các phần khác nhau của các trình sao cho sinh viên tiếp thu tố
i đa
kiến thức một cách hệ thống.

Câu hỏi đặt ra là, liệu có thể giao ngần ấy công việc và kỹ năng cho một nghiên cứu
viên của viện nghiên cứu tương ứng nào đó được không, nhất là một khi anh ta chỉ
chuyên tâm cho công việc nghiên cứu của mình. Câu trả lời có lẽ đã rõ ràng cho
mọi người.
Tuy nhiên, cũng không thể không nói đến những nhà khoa học có tài năng sư phạm
bẩm sinh. Ví dụ, Richard Faiman - nhà vậ
t lý học (đã được giải thưởng Nobel) đã
soạn và giảng một giáo trình vật lý nổi tiếng. Giáo trình này được in bằng nhiều thứ
tiếng khác nhau. Mặc dù vậy, sự nổi tiếng ấy cũng chỉ nói lên một điều là: đó là
trường hợp hiếm gặp, riêng có mà thôi. Chính vì vậy, tại nhiều trường đại học,
giảng viên cho những năm đầu thường là các giảng viên chuyên giảng dạy.
Đi
ều đáng buồn là ở chỗ, các giáo trình cố định ấy thường mang tính bảo thủ cao,
năm này sang năm khác hầu như không thay đổi. Kết quả là, sinh viên những năm
đầu - vốn muốn được biết điều mới lạ lại phải tiếp thu những điều không sát với
thực tế đổi mới của khoa học hiện đại.
Rõ ràng là, muốn có một giáo trình tốt, người soạn ph
ải có tri thức khoa học tương
hợp với thực tế phát triển của lĩnh vực khoa học hiện tại. Giáo trình hiện đại phải là
giáo trình có hơi thở của thành tựu khoa học hiện đại. Liệu một giảng viên chuyên
nghiệp giảng dạy có thể làm được việc này không? Câu trả lời cũng đã rõ đối với
mọi người.
2. Vấn đề kết hợp nghiên cứu với gi
ảng dạy
Những phân tích trên đây cho thấy, để hoạt động giảng dạy có tính mới,
tương hợp với các thành tựu khoa học hiện đại không thể không có sự đóng góp của
các nhà khoa học có trình độ và nghệ thuật truyền đạt các tư liệu khoa học được
biên soạn dưới dạng các bài giảng, giáo trình. Yêu cầu này phải chăng chỉ là ý
tưởng lý tưởng và những nỗ lực của chúng ta suy cho cùng chỉ nhằm ti
ệm tiến đến

điều lý tưởng đó. Nói cách khác theo các nhà quản lý là nhằm sử dụng hợp lý tiềm
lực KH&CN đất nước. Vấn đề là ở chỗ cần phân bổ hợp lý sức lực và thời gian cho

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


12
công việc nghiên cứu vốn đòi hỏi trí lực cường độ cao và trách nhiệm phức hợp của
chức phận giảng dạy. Tất nhiên, về điểm này, phẩm chất cá nhân rất quan trọng.
Chúng ta ai cũng đã từng biết một trong số những nhà vật lý nổi tiếng của đất nước
- Giáo sư, viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, người luôn biết cách phân bổ thời gian vật chấ
t
cho công tác giảng dạy tại các trường đại học cũng như trường mà hiện ông đang là
hiệu trưởng. Ông là tác giả của nhiều công trình về vật lý lý thuyết mà nhiều thế hệ
sinh viên và nghiên cứu sinh sử dụng với tư cách là sách giáo khoa.
Những ví dụ trên cho ta thấy, dù là cá biệt song về nguyên tắc vấn đề kết hợp
nghiên cứu với giảng dạy (kể cả biên soạn giáo trình) có thể giải quyết đượ
c. Chúng
ta thử xem xét chức phận của một nghiên cứu viên nhằm trả lời câu hỏi liệu có cách
nào để kết hợp hoạt động nghiên cứu với giảng dạy được không.
Thực tế cho thấy, chức phận của nghiên cứu viên thật không ít hơn chút nào so với
một giảng viên. Nếu như giảng viên phải lên kế hoạch giảng dạy thì nghiên cứu
viên cũng phải có kế hoạch nghiên cứu: thiế
t bị và mua sắm thiết bị khoa học, lắp
đặt, thử nghiệm, làm việc trên thiết bị khoa học, chuẩn bị các đơn đặt hàng, yêu cầu
phối hợp, viết báo cáo, viết báo, hội thảo khoa học, đào tạo hướng nghiệp, hướng
dẫn nghiên cứu sinh v.v.... Chưa kể đến những chuyện riêng tư điều mà trong mỗi
người chúng ta đều có. Vấn đề là ở chỗ, liệu ta có thể
“gắn” thêm một vài chức
phận giảng dạy vào tổ hợp công việc của anh ta không? Về nguyên tắc có thể được

trong trường hợp anh ta cảm thấy điều đó là cần thiết. Trách nhiệm của các nhà
hoạch định chính sách là đưa ra công cụ chính sách làm cho các nhà khoa học luôn
thấy đó là cần thiết xét theo khía cạnh quy trình nghiên cứu cũng như các lợi ích mà
anh ta nhận được nếu kết hợp công tác nghiên cứu với giảng dạ
y. Đi trước một
bước, cần nhấn mạnh rằng, các công cụ “bắt buộc” đều không dẫn đến các kết quả
mong đợi trong vấn đề này.
Bài học rút ra là: nếu một người có quá nhiều chức phận thì thời gian dành cho việc
thực hiện chúng sẽ luôn được phân bố ngay cả khi chúng ta giao thêm chức phận
thuộc ưu tiên cần thiết của anh ta. Trong trường hợp nghiên cứu viên, các chức phận
bổ sung có th
ể là: giảng một số trình trong trường đại học (chính thức hoặc tự
nguyện), thuyết trình trong các hội thảo, biên soạn sách giáo khoa, giáo trình, tham
gia xây dựng các bộ môn đào tạo tại các cơ sở nghiên cứu, tham gia các hội đồng
tham vấn v.v...
Khi xây dựng các biện pháp thúc đẩy liên kết nghiên cứu với giảng dạy, không thể
không xem xét sức ép giảng dạy của giảng viên. Đây là vấn đề quan trọng trong tổ
chức hoạt
động liên kết.
Thứ nhất, sức ép giảng dạy của giáo viên. Như đã nói mục 1 trên đây, chức phận
của giảng viên rất lớn. Ngoài ra, còn phải kể đến việc thời gian coi thi, chấm thi, tư
vấn hướng nghiệp v.v...Thông thường, khi xây dựng chỉ tiêu biên chế, nhà trường
thường muốn người giảng viên sử dụng 100% thời gian cho công tác giảng dạy.

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


13
(Điều này thực tế ở Việt nam cho thấy dường như đó cũng là mong muốn của giảng
viên vì nhờ đó mới có thu nhập). Với cách tiếp cận như vậy, liệu còn có thời gian

vật chất cho công tác nghiên cứu hay không (?). Có lẽ công tác nghiên cứu chỉ có
thể tiến hành trong thời gian rỗi chứ không thể có câu trả lời khác được.
Thứ hai, sức ép học tập của sinh viên. Kết quả khả
o sát giờ học của sinh viên một
số trường đại học (Đại học Đài Loan, Đại học Boston-Mỹ, Đại học Singapore, Đại
học Băng Cốc) cho thấy số giờ học của sinh viên Việt Nam thường gấp đôi. Điều đó
không có nghĩa là sinh viên chúng ta làm việc căng thẳng hơn sinh viên các nước so
sánh. Chỉ đơn giản là vì quá trình học tập của sinh viên được thiết kế với 50% th
ời
gian dành cho tự nghiên cứu, học tập. Với cách đó, sức ép giảng dạy của giảng viên
tự động giảm đi ít nhất 50%. Liệu cách này có thể áp dụng trong trường hợp của
chúng ta hay không, câu trả lời nằm trong năng lực quản lý giờ học tự giác của sinh
viên. Trường hợp Boston - sinh viên được giao đọc 1000 trang sách có liên quan
trong mỗi tuần và viết báo cáo thu hoạch. Cách này người ta cho là cách kiểm soát
hữu hiệu nhất, thực t
ế nhất. Ở Việt nam, phòng ở của sinh viên còn đang thiếu, các
phương tiện học tập chưa đủ, internet không phải trường nào cũng sẵn sàng, thư
viện chưa đủ không gian cần thiết..., thật khó tiến tới điều lý tưởng trên đây được.
Thứ ba, thông thường giáo trình của các trường đại học được phân bổ theo kỳ học:
giáo trình 1 học kỳ, 2 học kỳ v.v...Hiện nay, tại các n
ước có nền giáo dục tiên tiến,
người ta áp dụng các trình mô -

đun gồm 3-4 tiết giảng. Trình học kiểu này có nhiều
ưu việt so với cách tiếp cận cũ: đáp ứng nhu cầu đổi mới nhanh chương trình giảng
dạy; cho phép tổ chức quá trình giảng dạy theo đó giảng viên truyền đạt những gì
biết rõ nhất; cho phép nhanh chóng đưa vào bài giảng những gì mới nhất trong lĩnh
vực khoa học tương ứng; cuối cùng, cho phép mời các chuyên gia bên ngoài (viện
nghiên cứu) xây dựng trình và giảng bài theo trình đ
ã xây dựng.

Đề mục của trình mô - đun có thể mở và rộng hơn nhiều so với trình trong kế hoạch
giảng dạy. Điều này giúp cho việc lựa chọn các trình học tự nguyện đồng thời cũng
tạo điều kiện để các nhà khoa học tham gia vào quá trình giảng dạy theo cách đổi
mới.
3. Một số giải pháp
3.1. Phương án tối đa: xây dựng hệ thống giáo dục theo quan điể
m của chính sách
đổi mới (viết gọn giáo dục đổi mới).
Giáo dục đổi mới là vấn đề phức tạp gắn liền với chính sách đổi mới và hệ thống
đổi mới quốc gia. Trong bài viết này không thể trình bày hết các ý tưởng cụ thể, vì
vậy sẽ có một nghiên cứu riêng cho phương án này. Tuy nhiên, cũng cần trình bày
ngắn gọn về phương án này.
Giáo dục đổi mới là hệ thống giáo dục m
ới có mục tiêu hình thành và phát triển
năng lực đổi mới với nghĩa là tìm ra các giải pháp hành động trong môi trường cạnh

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


14
tranh luôn thay đổi và văn hóa đổi mới của đất nước. Đơn giản là vì đổi mới không
thuần túy là hiện tượng kỹ thuật mà là hiện tượng xã hội.
Thành phần tạo hệ của giáo dục đổi mới là phương pháp hoạt động với tư cách là
một hệ thống các quy tắc, nguyên tắc và thủ pháp trong hoạt động của con người
nhằm kết nối lý luận và thực tiễn. Khi xây dựng h
ệ thống giáo dục đổi mới, phải
tính hết các đặc điểm về tính chuyên môn hóa cao (vì không thể “ôm hết những gì
không thể ôm”), tính tương thích với cấu trúc khoa học, sự cách biệt ngày một tăng
giữa các học sinh giỏi và học sinh kém, chi phí cho đào tạo tốt vốn sẽ đắt đỏ và sự
trả giá cho đào tạo yếu kém sẽ đắt gấp nhiều.

3.2. Phương án tối thiểu: Khắc ph
ục những yếu kém cơ bản trong việc phối hợp
hoạt động giảng dạy và nghiên cứu
Ngoài những cơ chế, chính sách hiện hành (như tổ chức các phòng thí nghiệm trung
giữa khu vực nghiên cứu, giảng dạy, thành lập học viện, quy định bắt buộc có giờ
nghiên cứu đối với giáo viên, có giờ giảng dạy đối với nghiên cứu viên...), còn có
một số biện pháp nêu ra dưới đây. Có thể là các bi
ện pháp đơn giản xong đây là
kinh nghiệm của một số nước mà giáo dục đã đem lại các điều kỳ diệu cho quốc gia.
a). Giảm tải cho thày trò
Thoạt nhìn, tưởng đây là biện pháp chắp vá, nhưng xét kỹ thì quả là vấn đề nhỏ
nhưng sức ảnh hưởng lớn, liên quan đến cải cách giáo dục nước nhà. Trước hết, nó
liên quan đến giảm cung đầu vào. Về phần mình, việc này liên quan
đến giảm giờ
dạy thêm của các giáo viên công lập. Không thể chấp nhận tuyển đầu vào với tổng 3
môn thi 9 điểm thậm trí có thời 4,5. Nâng cao chất lượng đầu vào không có nghĩa là
làm mất đi quyền được học tập của lớp trẻ. Quyền đó được đáp ứng bởi hệ thống
trường dạy nghề, trường cao đẳng v.v...Điều cơ bản là thầy có thờ
i gian để dạy, để
đọc, để nghiên cứu bổ sung cho bài giảng, trò có thời gian tự luyện, tự ôn bài. Vấn
đề là giảm bao nhiêu phần trăm là vừa. Kinh nghiệm các nước có nền giáo dục hiện
đại cho thấy, giảm 50% là tốt nhất. Đây là cách tổ chức quá trình học tập và giảng
dạy tối ưu nhất mà các nước tiên tiến đã và đang áp dụng, theo đó sinh viên có 50%
thời gian để tự học, thầy giáo có 50%
để dành cho công tác nghiên cứu.
Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta, vấn đề kiểm soát học sinh trong thời gian tự
học tập là rất khó khăn xét theo khía cạnh chủ quan và khách quan như đã phân tích
trên đây. Ngoài việc giao bài cho học sinh đọc, thu hoạch, thảo luận, tự đánh giá
cho điểm, tại các nước trên, người ta còn thu hút sinh viên vào nghiên cứu khoa học
và đưa ra các giải có giá trị để khuyến khích, tuyển trọn các công trình này.

Giảm giờ dạy và học sẽ
kéo theo việc soạn lại giáo trình, tập trung hóa cao độ đến
đối tượng môn học: học những gì sau này cần, không thể “ôm hết những gì không
thể ôm được”.

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


15
b) Cơ chế khuyến khích giảng viên tham gia nghiên cứu và nghiên cứu viên tham
gia giảng dạy
Trước hết, cần dành một khoản kinh phí từ ngân sách cho các trường tổ chức
nghiên cứu. Kinh nghiệm các nước chuyển đổi cho thấy, việc này được tổ chức
dưới dạng mô chương trình mục tiêu nhằm:
• Phát triển các nghiên cứu cơ bản trong trường và các viện trực thuộc (nhất là
các viện chuyên nghiên cứu lý thuyết);
• Đả
m bảo giao lưu, tương tác giữa các trường và viện thông qua việc thỉnh giảng
hoặc kết hợp nghiên cứu, các đội điều tra, khảo sát phối hợp nghiên cứu viên
của viện, giảng viên và sinh viên v.v..
• Xây dựng các cơ sở thí nghiệm dùng chung cho thầy, trò, nghiên cứu viên của
viện, nghiên cứu sinh và những người có nhu cầu khác.
• Xây dựng cơ sở dữ liệu về nghiên cứu cơ bản phục vụ
cho việc hoàn thiện giáo
trình trong các trường đại học.
Vấn đề của chúng ta là, hiện Chính phủ đã quyết định cấp một khoản kinh phí bằng
1% ngân sách chi cho giáo dục dành cho nghiên cứu trong các trường đại học. Đã
hai năm trôi qua, khoản này không được dùng đến. Có thể có nhiều nguyên nhân
khác nhau như đã nói trên đây, song có lẽ vẫn là cách chọn đề tài/dự án chưa đúng
và cơ chế chi tiêu quá chặt và cùng với việc không đủ thời gian vậ

t chất, việc
nghiên cứu bị lãng quên.
Bên cạnh đó, cần bổ sung quy chế tuyển chọn đề tài hiện nay để khuyến khích các
đề tài, dự án có sự kết hợp trên thực tế giữa viện và trường, không quá coi trọng cơ
sở vật chất-kỹ thuật với trọng số cao.
c) Thành lập một số trường đại học (hoặc khoa) tại một số viện nghiên cứu.
Đây là bi
ện pháp nhằm hai mục tiêu. Thứ nhất, để tăng cường mối liên kết giữa
nghiên cứu và giảng dạy của đội ngũ nghiên cứu. Các giảng viên của trường đại học
có thể được mời thỉnh giảng. Các nghiên cứu viên có thể tìm được chỗ đứng trên
bục giảng. Thứ hai, để tìm đội ngũ nghiên cứu kế cận. Đội ngũ nghiên cứu hiện
đang bị hẫng h
ụt tại một số viện, số nghiên cứu viên có tuổi đời từ 55 trở lên đang
tăng lên ở nhiều viện, nhất là ở hai Viện Khoa học quốc gia. Có cơ chế để các sinh
viên đang theo học ở các trường tương ứng có thể có cơ hội chuyển sang học tại các
trường này. Kinh nghiệm này đã được áp dụng tại nước Nga khi mà dòng chảy máu
chất xám đổ ra nước ngoài cũng như
sang các lĩnh vực thông thường khác. Việc tìm
học trò theo kiểu chọn “đệ tử” của các giáo sư trong các trường đại học ở Mỹ suy
cho cùng cũng gần tương tự như kiểu thành lập trường trong khu vực nghiên cứu.
Điều khác biệt là các nhóm “đệ tử” được thành lập ngay trong khoa của trường đại
học, nơi giáo sư toàn trị, thậm trí suốt đời./.

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. L. Nhekhoroxeva. Xây dựng hệ thống đa lớp đào tạo chuyên gia cho hoạt động đổi

mới : vấn đề và phương thức giải quyết. Tuyển tập báo cáo khoa học hội thảo quốc tế
lần thứ X về “Các vấn đề và triển vọng phát triển kinh tế theo hướng đổi mới”, Kiep -
Moskva - Simpheropol, 2006.
2. I.I. Ignatov. Hỗ trợ phát triển các tập thể nghiên cứu-giảng dạy tại các trường
đạị học
Hoa kỳ, Almanax Khoa hoc - Đổi mới - Đào tạo 2007, Viện Nghiên cứu Kinh tế, Chính
trị và Pháp luật trong lĩnh vực KHKT, Liên bang Nga.
3. V.V. Borixov. Liên kết đào tạo với khoa học, triết lý và phương thức thực hiện.
Almanax Khoa hoc - Đổi mới - Đào tạo 2007, Viện Nghiên cứu Kinh tế, Chính trị và
Pháp luật trong lĩnh vực KHKT, Liên bang Nga.

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


17
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ

Lê Thành Ý
1

Tóm tắt
Đổi mới công nghệ doanh nghiệp là nội dung quan trọng trong thực hiện những
bước đi cụ thể của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Bài báo
trình bày những yêu cầu về đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp, những chủ trương
và những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm thúc đẩy xã hội hóa và đa dạng hóa
nguồn lực KH&CN, khích lệ doạnh nghiệp m
ạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ
trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nêu lên những kết quả và những vấn đề
đặt ra trong hoạt động đổi mới công nghệ doanh nghiệp ở nước ta.
1. Đổi mới công nghệ doanh nghiệp đòi hỏi bức xúc của công nghiệp hóa

Liên quan đến mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước giai đoạn 2006-2010,
Đại hội X Đảng Cộng sản Vi
ệt Nam đã xác định, phải tạo ra những tiền đề cần thiết
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và
nhấn mạnh việc đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức.
Khái niệm công nghiệp hóa (CNH) được hiểu là quá trình cải biến nền nông nghiệp
dựa trên nền tảng kỹ thuật củ
a thủ công mang tính hiện vật, tự cấp, tự túc thành nền
kinh tế công nghiệp - thị trường. Đây chính là một nội dung kinh tế của các quá
trình xây dựng một xã hội dựa trên nền văn minh công nghiệp. CNH không chỉ đơn
thuần là quá trình cải biến kinh tế mà còn là quá trình cải biến thể chế và cấu trúc
nền kinh tế, chuyển từ kinh tế hiện vật khép kín sang nền kinh tế hàng hóa mở dựa
trên sự phân công xã hội. Ở
mọi quốc gia, quá trình CNH đều tuân thủ theo logic
tổng quát của những nguyên tắc tuần tự, song tùy thuộc vào điều kiện cụ thể lại có
sự lựa chọn mô hình, nội dung chiến lược, giải pháp thực hiện và bước khác nhau.
Đối với những nước đi sau, họ có thể tiếp cận với nhiều nguồn lực về vốn, nhân lực,
đặc biệt là công nghệ do những nền kinh tế phát tri
ển tạo ra để CNH. Mặt khác, rút
kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước để có thể vượt lên, bứt phá và thu hẹp nhanh
khoảng cách tụt hậu.
Trên một thế kỷ trước đây, khi phân tích khái niệm kinh tế xã hội (KT-XH), Các
Mác đã từng dự báo, đến một lúc nào đó, khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Ngày nay, với sự ra đời của nền kinh tế tri thức, đi
ều tiên đoán của Mác đã
trở thành hiện thực và sự thay đổi của nền kinh tế tri thức đang tạo ra bước ngoặt
trong lịch sử nhân loại. Nền kinh tế tri thức được hiểu là nền kinh tế được dẫn dắt
bởi tri thức và công nghệ cao, gắn với hệ thống kỹ thuật hiện đại, có cấu trúc không


1
TS, nguyên nghiên cứu viên chính của Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


18
gian toàn cầu với tỷ trọng sản phẩm tri thức (cốt vật chất) chiếm trên 50% trong cơ
cấu GDP. Với nội hàm của kinh tế tri thức, công nghệ và trí tuệ con người sẽ là lực
lượng sản xuất hàng đầu, có vai trò quyết định; đó chính là lợi thế quan trọng của
thời đại.
Thành công trong nỗ lực công nghiệp hóa nhanh ở các quốc gia Đông Á là biết tận
dụng lợi thế củ
a nước đi sau để vượt qua logic "tuần tự" về bước đi để thể hiện sự
"nhảy vọt về cơ cấu". Việc rút ngắn thời gian CNH theo những bước chuyển tuần tự
là cách làm phổ biến, còn "nhảy vọt cơ cấu" chỉ diễn ra khi có sự chuyển hóa công
nghệ lớn, từ thời đại công nghệ này sang thời đại công nghệ khác. Thế giới ngày
nay đang chuy
ển từ cơ khí, điện tử sang công nghệ cao, mở ra cơ hội chưa từng có
cho những nền kinh tế đi sau để thực hiện những bước "nhảy vọt" trong thu hẹp
khoảng cách phát triển. Cơ hội này chỉ có thể thực hiện thành công khi tiềm lực của
mỗi quốc gia với chủ thể là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có đủ năng lực
nội sinh để nắ
m bắt, tiếp thu và vận dụng kịp thời công nghệ cao không ngừng biến
động vào những hoạt động hàng ngày.
2. Tầm nhìn và những chủ trương hỗ trợ đổi mới công nghệ doanh nghiệp
Từ cuối thập niên 1980, vấn đề thương mại hóa nhằm gắn hoạt động nghiên cứu với
sản xuất kinh doanh và đổi mới công nghệ doanh nghiệp đã được các tổ chức nhà
nước quan tâm nghiên cứu trên các khía c
ạnh khác nhau trong quan hệ khoa học với

sản xuất, tài chính và tổ chức KH&CN.
Trên thực tế, quan hệ giữa các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp là mối quan hệ
giữa các tác nhân trong hệ thống đổi mới quốc gia, bao gồm: doanh nghiệp, tổ chức
KH&CN và các cơ quan giáo dục-đào tạo. Quan hệ tương tác trong hệ thống thực
chất là việc đưa sản phẩm và những dịch vụ mới vào thị trường xã h
ội. Quá trình
đổi mới công nghệ doanh nghiệp được bắt đầu từ nảy sinh ý tưởng đến nghiên cứu
thiết kế sản phẩm, sản xuất thử nghiệm rồi hoàn thiện sản phẩm để thâm nhập thị
trường.Việc chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành sản phẩm và các quá trình công
nghiệp, việc chuyển hóa tri thức thành sản phẩm thương mại và quy trình công
nghiệp sẽ tác động trực tiế
p và dài hạn đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Các nhà kinh tế cho rằng, trong hoạt động nghiên cứu và phát triển, nhiều vấn đề
đòi hỏi Nhà nước không chỉ quan tâm về khung luật pháp, chính sách khuyến khích
mà còn cần hỗ trợ cả về tài chính cho các hoạt động công nghệ. Hoạt động công
nghệ một dạng tri thức được sử dụng để tăng năng xuất trong các nhà máy, cơ sở
sản xuất kinh doanh cần
được đưa vào chi phí sản xuất. Với vai trò của một loại
hàng hóa đặc biệt, công nghệ đem lại lợi ích xã hội thường lớn hơn nhiều lần lợi ích
của nhà đầu tư, nếu được trợ cấp đổi mới hoăc khuyến khích để giảm chi phí và
nâng cao lợi ích, chắc chắn người sản xuất sẽ quan tâm nhiều hơn để đổi mới công
nghệ (SAREC 1999)

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


19
Hội nghị lần thứ 2 BCHTW Đảng khóa VIII (tháng 2 năm 1996) đã ra Nghị quyết
về định hướng chiến lược phát triển KH&CN trong thời kỳ CNH, HĐH. Đối với
phát triển công nghệ, nghị quyết chỉ ra "Lấy ứng dụng chuyển giao công nghệ là

chính, tạo khả năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ công nghệ nhập, đi thẳng vào
công nghệ tiên tiến nhất, trước hết ở những ngành, những l
ĩnh vực có tác động chi
phối nến kinh tế quốc dân, những ngành có giá trị gia tăng cao, ngành công nghiệp
mới xây dựng, ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Đồng thời, đổi mới
công nghệ từng phần, hiện đại hóa từng khâu đối với những lĩnh vực còn cơ sở vật
chất - kỹ thuật và sản xuất còn hiệu quả". Trên lĩnh vự
c công nghệ cao nghị quyết
xác định "Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ cao như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh hoc, công nghệ vật liệu mới... làm nhanh chóng hiện đại
hóa công nghệ trong các ngành kinh tế quốc dân và tạo ra các ngành công nghiệp
mũi nhọn có giá trị gia tăng cao...". Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
KH&CN, Nghị quyết đã đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm tạo lập thị tr
ường
cho KH&CN; chính sách đổi mới với cán bộ KH&CN; tăng cường đầu tư cho phát
triển KH&CN từ nhiều nguồn, xã hội hóa hoạt động KH&CN; tăng cường kiểm
soát, giám định công nghệ và chất lượng sản phẩm; tăng cường hợp tác quốc tế; đổi
mới tổ chức quản lý hoạt động KH&CN và tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ
cập kiến thức KH&CN. Nét nổi bật c
ủa những giải pháp là hướng vào ưu tiên cho
đổi mới công nghệ doanh nghiệp, gắn hoạt động nghiên cứu đào tạo với sản xuất
kinh doanh, tư vấn và chuyển giao công nghệ.
Với nhu cầu đổi mới công nghệ doanh nghiệp, từ thực tiễn nước nhà, ngày 18 tháng
9 năm 1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 119/1999/NĐ-CP về
Chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt độ
ng
KH&CN. Nghị định đã tập trung vào một số vấn đề cơ bản trong chính sách ưu tiên
về thuế, ưu đãi sử dụng đất, tín dụng cho doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới
công nghệ. Trong những quy định cụ thể, Nhà nước hỗ trợ kinh phí thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu sáng tạo công nghệ mới cho doanh nghiệp (hoặc phối hợp với tổ

chức KH&CN) thự
c hiện tới 30% tổng chi phí; doanh nghiệp được trích 50% lợi
nhuận sau thuế do áp dụng công nghệ mới trong thời gian 3 năm để đầu tư cho
KH&CN và khen thưởng; khi doanh nghiệp sử dụng kết quả KH&CN do nhà nước
đầu tư nghiên cứu chỉ phải trả tiền thù lao tác giả với mức cao nhất là 30% giá trị
chuyển giao công nghệ (Bộ KH&CN 2008). Cụ thể hóa Nghị định này, tháng 11
năm 2000 Liên bộ Tài chính - KH&CN&MT trước đây, nay là Bộ KH&CN đã có
thông tư hướng dẫn quy trình, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan quản lý và doanh
nghiệp trong hỗ trợ kinh phí nghiên cứu. Tháng 10 năm 2001 Bộ trưởng bộ
KH&CN&MT đã có quy định về trình tự và thủ tục hỗ trợ doanh nghiệp, tạo sự
minh bạch và điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp được thụ hưởng chính sách
khuyến khích. Tiếp đó, tháng 8 năm 2003 Liên bộ KH&CN - Tài chính lại ra thông
tư bổ sung mộ
t số quy định về quản lý tài chính cho phù hợp với Luật Ngân sách.

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


20
Có thể nói, hệ thống văn bản pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ là
một cú hích trong vận dụng chính sách khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp đầu
tư vào hoạt động KH&CN, bước đầu Nghị định 119 đã thu hút được sự quan tâm và
tham gia thực hiện đổi mới công nghệ của nhiều doanh nghiệp
3. Một số kết quả nổi bật trong hoạt động đổi mới công ngh
ệ doanh nghiệp
Phân tích xu thế đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ở Việt Nam, viện Nghiên
cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, việc hiện đại hóa dây truyền
công nghệ doanh nghiệp đã có những chuyển biến đáng kể; nếu những năm 1970, tỷ
lệ hiện đại hóa công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước ở mức 8,6% thì sau
những năm 1990 đạt được 60%, còn tại những doanh nghiệp tư nhân t

ỷ lệ đã lên
46,5%. Mức độ hiện đại của dây chuyền công nghệ doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế thể hiện ở bảng 1
Bảng 1. Mức độ hiện đại của dây chuyền công nghệ trong doanh nghiệp (%)
Thời gian

Loại doanh nghiệp
Thập niên
1970
Thập niên
1980
Thập niên
1990
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp có vốn đầu tư NN
8,6
9,3
13,6
42
48,8
12,6
60
46,5
72,7
Nguồn: Báo cáo đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam VIE/01/025
Cùng với khả năng hiện đại, tính đồng bộ trong dây chuyền công nghệ được nâng
lên đến 20% trong các doanh nghiệp nhà nước và chừng 16,3% đối với khu vực tư
nhân. Tính đồng bộ trong đổi mới dây chuyền công nghệ được thể hiện ở bảng số 2


Bảng 2. Tính đồng bộ của dây chuyến công nghệ trong doanh nghiệp (%)
Mức đồng bộ

Loại doanh nghiệp
Thấp (chắp
vá)
Trung bình Đồ
ng bộ cao
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệptư nhân
Doanh nghiệp có vốn đầu tư NN
5,7
11,6
0,9
74,3
72,1
58,2
20
16,3
40,9
Nguồn: Báo cáo đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam VIE/01/025
Trong các loại hình doanh nghiệp, việc hiện đại hóa và đồng bộ dây chuyền
công nghệ sản xuất diễn ra với mức độ cao ở những doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, tiếp đó là doanh nghiệp nhà nước khu vực doanh nghiệp tư nhân có
mức độ thấp nhất.
Những năm gần đây, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò
quan trọng trong chuyển giao công nghệ và kỹ nă
ng quản lý, đã tạo sức ép thúc đẩy

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)



21
doanh nghiệp trong nước phải ứng dụng tiến bộ công nghệ. Vào năm 2002, trong
khoảng 200 nghìn hợp đồng chuyển giao công nghệ được thực hiện, gần 90% là của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Tuần tin KT-XH số 7 ngày 10 tháng 6 năm
2008 TT Thông tin & Dự báo KT-XH Quốc gia trang 14). Những khảo sát thực hiện
tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, nhu cầu công nghệ và chuyển giao công
nghệ diễn ra chủ yếu ở khố
i doanh nghiệp liên doanh hoặc có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong khi các doanh nghiệp quốc doanh chỉ đầu tư với mức bình quân
khoảng 10 triệu USD hàng năm thì liên doanh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đầu tư bình quân từ 150 đến 200 triệu USD, thậm chí đến 1.200 triệu
USD/năm với những hình thức chuyển giao chủ yếu là công ty mẹ ở nước ngoài
giao cho các công ty con (Tài liệu đã dẫn). Với mức chuyển hóa nhanh công nghệ

từ nước ngoài, nhìn chung trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong nước đã ngày một chuyển biến, nâng cao.
Những tư liệu công bố cho thấy, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài liên tục gia tăng, đã từ 21 vạn người năm 1995 lên 37,9 vạn năm
2000, tăng gấp 2,5 lần và cuối năm 2007 đã lên chừng 1,13 triệu người (Tài liệu đã
dẫn
). Lực lượng lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp được tiếp cận với công
nghệ hiện đại đã hình thành tác phong công nghiệp, có ý thức kỷ luật, học hỏi được
kỹ năng tiên tiến cũng đã góp phần thúc đẩy doanh nghiệp trong nước không ngừng
đầu tư đổi mới công nghệ, phương pháp quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh
doanh nghiệp trong mở rộng sản xuất, tă
ng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Theo các nhà phân tích, đầu tư nước ngoài vào càng nhiều thì càng có tác
động tích cực đến chuyển giao công nghệ tiên tiến, thúc đẩy những ngành quan

trọng như dầu khí, viễn thông, điện tử - tin học, cơ khí chế tạo... Trong đó, hầu hết
những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều áp dụng phương thức quản lý
tiên tiến, có trình độ công nghệ đồng bộ cao. Thông qua thu hút đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiếp cận công nghệ, kỹ thuật hiện đại qua các hình
thức chuyển giao công nghệ. Nhờ vậy, đã rút ngắn thời gian tìm kiếm và giảm được
chi phí nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Bên cạnh tiếp nhận công nghệ,
hoạt động đổi mới còn tạo điều kiện để nhiều doanh nghiệp tiếp cận với những
thành tựu khoa học kỹ thu
ật và công nghệ thế giới để vận dụng trong thực hiện mục
tiêu CNH.
Theo đà phát triển của hoạt động đổi mới công nghệ doanh nghiệp do làn sóng
đầu tư nước ngoài mang lại, những năm đầu thiên niên kỷ mới, sự hỗ trợ doanh
nghiệp đổi mới công nghệ cũng có nhiều tín hiệu đáng mừng. Thực hiện Nghị định
119, thời gian từ năm 2002 đến 2007, đ
ã có 484 đề xuất nghiên cứu đổi mới công
nghệ doanh nghiệp được đưa ra từ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong số này, 111 đề xuất, chiếm 22,9%, được bộ KH&CN xét duyệt, hỗ trợ kinh
phí nghiên cứu 105,8 tỷ đồng bằng 13% tổng chi phí đã thực hiện. Cơ cấu và mức

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


22
độ hỗ trợ của nhà nước cho doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ được thực
hiện ở bảng số 3
Bảng 3. Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ theo Nghị định 119/1999/NĐ-CP
Năm Số đề
nghị
Số được
hỗ trợ

Tỷ lệ hỗ
trợ %
Kinh phí
hỗ trợ(tr.đ)
Kinh phí
thực
hiện(tr.đ)
Tỷ lệ hỗ
trợ%
DN nhà
nước%
DN
nước
ngoài%
2002 66 12 18,2 8.880 79.953 11,1 58,3 41,7
2003 65 26 40 25.640 311.143 8,2 61,5 38,5
2004 114 21 18,4 17.450 91.776 19,0 71,4 28,6
2005 75 21 28 21.200 117.861 18 66,7 33,3
2006 81 14 17,3 18.213 149.000 12,2 35,7 64,3
2007 83 17 20,5 14.436 65.912 29 17,7 82,3
Tổng 484 111 22,9 105.819 815.645 13 54,1 45,9
Từ trái sang cột 4 là tỷ lệ đề nghị được hỗ trợ, còn cột 7 là tỷ lệ kinh phí hỗ trợ thực
hiện)
Nguồn Bộ Khoa học và Công nghệ tháng 6/2008
Nhìn chung, các doanh nghiệp được Nhà nước hỗ trợ kinh phí nghiên cứu đều xuất
phát từ đòi hỏi bức xúc đổi mới công nghệ. Đại bộ phận thực hiện tốt quy chế, có 54
đơn vị hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, 44 doanh nghiệp đang triển khai thực hiện
và 13 cơ sở không thực hiện được do thay đổi tổ chức, không có thị trường tiêu thụ
hoặc thủ tục khó khăn. Ở nh
ững cơ sở thực hiện có kết quả, việc đổi mới công nghệ

đã tác động mạnh đến nâng cao năng lực nội sinh, khích lệ doanh nghiệp tiếp tục
đầu tư vào hoạt động KH&CN, nhiều vấn đề kỹ thuật mới được hoàn thiện, mở ra
những triển vọng tốt đẹp trong cạnh tranh hội nhập khu vựa và quốc tế.
Với 4% kinh phí hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước, Công ty Đóng tàu Hạ Long đã xây
dựng được đà bán ụ 25.000 tấn phục vụ đóng tàu container 610TEU, tầu tải trọng
trên 3 vạn tấn, góp phần đưa năng lực sản xuất của Công ty lên gấp 2 lần. Nhờ hỗ
trợ kinh phí nghiên cứu thiết kế, nhà máy cơ khí Quang Trung tỉnh Ninh Bình đã
chế tạo thành công trục 1 dầm 450 tấn. Đây là việc làm có ý nghĩa để bảo vệ ngành
sản xuấ
t cơ khí siêu trường siêu trọng, giảm được trên 30% chi phí sản xuất, làm lợi
hàng chục triệu USD nhập khẩu. Trong nghiên cứu thiết kế thiết bị chữa cháy tự
động, công ty công nghệ An Sinh (Đà Nẵng) đã được cấp bằng sáng chế tại Việt
Nam và Hoa Kỳ, thiết bị công ty làm ra được các ngành chức năng cho phép đưa
vào sử dụng. Công ty đã thành công trong hỗ trợ nghiên cứu thiết kế; đưa dây
chuyền chế ph
ẩm Zeolit 3.000 tấn/năm vào hoạt động phục vụ nuôi trồng thủy sản;
sản xuất giống lúa lai F1-Nhị ưu với giá chỉ bằng 60% nhập ngoại; nghiên cứu
nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh ở công ty TRAPHACO... đã làm nổi bật vai
trò trung tâm của hoạt động KH&CN trong doanh nghiệp. Trên tinh thần lấy thị
trường để định hướng, lấy chất lượng sản phẩm để cam kế
t khách hàng và dùng
tăng trưởng làm động lực, nhiều sản phẩm đổi mới của các doanh nghiệp đã được
tiêu chuẩn hóa, tạo ra những khác biệt để nâng cao thương hiệu ngành hàng, uy tín

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


23
công ty ( bằng tiến bộ KH&CN) đã làm rõ vai trò mở đường của cơ chế và chính

sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Tại hội nghị sơ kết việc hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ tiến hành gần đây,
hầu hết ý kiến đều cho rằng, thực hiện Nghị định 119 đã góp phần nâng cao nhận
thức doanh nghiệp về vai trò KH&CN trong sản xuất kinh doanh,
đây là biện pháp
"kích cầu" để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư nâng cao trình độ công nghệ. Thực thi
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh
tế. Từ thành công đạt được, nhiều doanh nghiệp đã tự tin hơn để sẵn sàng tiếp tục
các chương trình dự án để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh (Bộ
KH&CN 2008)
4. Những hạn chế trong hỗ
trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Quá trình đổi mới công nghệ nước ta đã làm mức độ hiện đại, tính chất đồng bộ
trong các dây chuyền sản xuất của nhiều doanh nghiệp chuyển hóa tích cực. Đổi
mới công nghệ doanh nghiệp đã góp phần thay đổi bộ mặt nền kinh tế với mức tăng
trưởng ngày một cao và cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng CNH, HĐH. Tuy
nhiên, cùng với làn sóng đầu tư nước ngoài gia tăng, năng lực quản lý điều hành
giới hạn năng lực công nghệ bất cập đã đặt doanh nghiệp nội địa trước nhiều thách
thức, cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn của nhà nước để nâng cao năng lực trong quá
trình hội nhập.
Trong cạnh tranh phát triển, mục đích của các nhà đầu tư và hoạt động doanh
nghiệp đều hướng theo lợi nhuận. Những ngành, lĩnh vực có tỷ trọng sinh lời cao
thường thu hút được nhiều vốn đầu tư. Ở nước ta, đầu tư nước ngoài tập trung chủ
yếu vào công nghiệp xây dựng và dịch vụ; những ngành cần cho dân sinh, nhưng lợi
nhuận không cao thường ít hấp dẫn các nhà đầu tư. Đến nay, trong 8.684 dự án FDI
còn hiệu lực với số vốn đăng ký trên 85 tỷ USD, thì 88,6% d
ự án đều thuộc lĩnh vực
công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Số liệu thống kê cũng cho thấy, đầu tư nước
ngoài kéo theo là đổi mới công nghệ đã tạo sự không cân đối giữa một số lĩnh vực.
Cùng một ngành sản xuất, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với trình độ công nghệ

và tiềm lực tài chính mạnh hơn có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn doanh nghiệ
p nội
địa.
Quá trình thu hút đầu tư nước ngoài thực chất là quá trình tiếp nhận khoa học kỹ
thuật và công nghệ cao từ các nước đã phát triển. Với mục tiêu lợi nhuận, các nhà
đầu tư đều tận dụng tối đa nguồn lực của nước sở tại để tiến hành sản xuất kinh
doanh và hạn chế đến mức cao nhất chi phí. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
thường có quy mô s
ản xuất lớn làm tăng đáng kể dư lượng chất thải. Mặt khác,
thông qua đầu tư trực tiếp, không ít nhà đầu tư đã chuyển những ngành sản xuất gây
ô nhiễm môi trường từ những nước đã phát triển sang nước chưa phát triển hoặc xây
dựng những ngành sản xuất dùng nhiều tài nguyên thiên nhiên và vận hành những
công nghệ chưa thân thiện môi trường. Đây cũng là một đặc thù mà chính sách hỗ


NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Số 15 (12/2008)


24
trợ đổi mới công nghệ doanh nghiệp cũng cần quan tâm để có những tác động cần
thiết. Ở nước ta hiện nay, trong 154 khu công nghiệp và khu chế xuất, mới có chừng
50% quan tâm xây xựng hệ thống xử lý chất thải, nước thải. Thực tế này đã dẫn đến
tình trạng ô nhiễm không khí và nguồn nước ngày càng nghiêm trọng tại những khu
dân cư gần cụm công nghiệp.
Đồng hành với xu thế củ
a nhà đầu tư nước ngoài, việc thu hút đầu tư nước ngoài
diễn ra không đồng đều giữa các tỉnh, thành và trong từng lĩnh vực kinh tế. Khuynh
hướng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến thực thi chính sách đổi mới công nghệ
doanh nghiệp. Trên 20 năm qua, đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng tập
trung vào một số tỉnh, thành phố lớn. Trong khi 10 đơn vị dẫn đầu đã thâu tóm trên

80% số dự án vớ
i 82,1% tổng vốn đăng ký và 82,7% vốn thực hiện thì ở 10 tỉnh,
thành thuộc nhóm cuối bảng, số dự án chỉ có 0,44%, vốn đăng ký chiếm 0,16% và
chừng 0,27% tổng vốn thực hiện (Tuần tin KT-XH số 7 ngày 10 tháng 6 năm 2008
của Trung tâm Thông tin&Dự báo KT-XH Quốc gia). Cùng với phân hóa thu hút
đầu tư nước ngoài, mức độ biến động của doanh nghiệp dân doanh (đó là khu vực
ngươi dân kinh doanh ngoài nhà nước và đầu tư nước ngoài) cũng khá khác nhau.
Trong giai đoạn 2005-2006 tốp 10 tỉnh dẫn đầu thu hút FĐI có mức tăng doanh
nghiệp dân doanh từ 46,6% đến 60,2%, thì ở 10 tỉnh cuối bảng, số lượng doanh
nghiệp dân doanh lại giảm từ 6,8% xuống còn 4,7% so với tổng số doanh nghiệp
dân doanh cả nước. Nhiều địa phương thu hút FĐI thấp đã rơi vào vòng "luẩn quẩn"
đầu tư phát triển thấp, nguồn lực địa phương hạn chế, không phát triể
n được hạ tầng,
lại càng khó có thể hỗ trợ được doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Đây đang là bài
toán khó giải cần có sự hỗ trợ cụ thể từ tầm chính sách quốc gia.
Nhìn nhận vai trò Nhà nước trong đổi mới công nghệ doanh nghiệp, các nhà nghiên
cứu cho rằng, trong nhiều hoạt động, Nhà nước không nên chỉ quan tâm đến khuôn
khổ luật pháp, mà còn cần có những hỗ trợ cụ thể về tài chính. Công nghệ
thay thế ở
các doanh nghiệp cần đươc đánh giá cả về kinh tế, kỹ thuật và tài chính. Do thiếu
thông tin thị trường công nghệ, doanh nghiệp vấp phải nhiều khó khăn, lúng túng
trong lựa chọn phương án công nghệ tối ưu và thủ tục để chuyển giao công nghệ.
Trên thực tế, các cơ quan thông tin công nghệ nhà nước thường làm nhiệm vụ thu
thập, tổng hợp thông tin để phục vụ lãnh đạo cấp trên nhiề
u hơn trong khi nhu cầu
thông tin công nghệ gắn với nội dung kỹ thuật, giá cả thương mại phục vụ doanh
nghiệp lại đang rất thiếu (Trần Công Liêm 2008)
Đại bộ phận doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thuộc
thành phần kinh tế tư nhân, mới chỉ đủ sức duy trì việc làm, chưa đủ năng lực đầu
tư cho KH&CN và tiếp cận ưu đãi tín dụng còn nhi

ều khó khăn. Kết quả điều tra
của UNDP và CIEM cho thấy, trong khi 43% doanh nghiệp quốc doanh được hỗ trợ
từ Quỹ Đầu tư phát triển, thì chỉ có 9% số doanh nghiệp ngoài nhà nước tìm được
sự hỗ trợ từ quỹ này. Nước ta hàng năm dư thừa hàng trăm tỷ đồng từ ngân sách
dành cho KH&CN song các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới công nghệ lại đang

×