Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tài liệu Nghiên cứu tình huống trong đầu tư tự doanh (Phần 4) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.32 KB, 18 trang )

Nghiên cứu tình huống trong đầu tư tự doanh
(Phần 4)



Vào tháng 11-1995, Chris Harami-một doanh nhân mới khởi nghiệp và là
người sẽ thành lập hệ thống nhà hàng của Jack Sprat’s đang suy nghĩ về kế hoạch
kinh doanh mà anh đã tiến hành được một năm. Kế hoạch vẫn đang được thực
hiện, nhưng anh hy vọng có thể mở nhà hàng Jack Sprat đầu tiên trong mùa hè
năm 1996. Chris tự hỏi làm thế nào để đảm bảo thành công cho kế hoạch này.

NHÀ HÀNG JACK SPRAT’S
____________________________________________________________


Trong quá trình nghiên cứu, Chris đã phát hiện ra rằng có rất nhiều chủ nhà
hàng đã sử dụng chuyên gia tư vấn để xúc tiến những ý tưởng (concept) mới về
nhà hàng của họ (*). Mọi người trong ngành này đều đồng ý rằng việc sử dụng
một nhà cố vấn luôn là một ý kiến hay. Tuy nhiên, chi phí để thuê một chuyên gia
tư vấn rất cao, và tiền để đầu tư cho nhà hàng của Chris được cung cấp bởi bố anh
– một bác sĩ có thể đảm bảo chắc chắn về mặt tài chính (nhưng cũng rất bảo thủ và
không giàu có). Các nhà tư vấn đòi Chris phải trả phí trước, mức phí dao động từ
50.000 đô-la đến 150.000 đô-la và đề nghị đầu tiên mà họ đưa ra là bản kế hoạch
kinh doanh phải được viết lại. Cuối cùng, Chris chọn Arlene Spiegel. Cô ấy rất
nhiệt tình với ý tưởng về nhà hàng mà anh đưa ra và lấy phí tư vấn thấp.

Khi tốt nghiệp, Chris đã viết một bản kế hoạch kinh doanh có chất lượng
chuyên môn cao. Sau đó, anh viết đi viết lại bản kế hoạch cho chuỗi nhà hàng Jack
Sprat’s. Vì thế, anh thuê chuyên gia tư vấn chủ yếu để có thể xây dựng một đội
ngũ làm việc thành công chứ không phải để viết lại dự án lần nữa. Chris tin rằng
một ngày nào đó khi cổ phiếu của Jack Sprat’s được bán ra lần đầu tiên, nó sẽ


được mọi người săn đuổi và anh muốn có Arlene để đảm bảo niềm tin đó chắc
chắn sẽ thành hiện thực. Nhưng bố của anh lại không hiểu được điều này. Có phải
ông đang cố gắng kiểm soát chặt chẽ kế hoạch kinh doanh này, hay đây chính là
vai trò mà Chris muốn ông đảm nhận? Và liệu Chris có thực sự cần một chuyên
gia tư vấn để giúp anh rà soát lại kế hoạch, hay anh chỉ đang cố gắng để tránh sự
sai sót trong quá trình hành động? Rõ ràng họ cần tích lũy những nguồn lực khan
hiếm cho con đường phía trước, nhưng việc này cũng phải được tiến hành một
cách hết sức thận trọng.

Câu chuyện này được chuẩn bị bởi Mark Helman và Dan D’Heiley
dưới sự hướng dẫn của giáo sư Bgrave. Bản quyền được Babson College
đăng ký năm 1996. Nghiêm cấm sao chép dưới mọi hình thức.
(*) Trong ngành kinh doanh nhà hàng, những cửa hàng mới thường
được thiết kế với một mục đích nhất định (ví dụ tiệm ăn chuyên phục vụ thịt
rán hoặc nướng miền tây nước Mỹ, quán ăn gia đình, quán ăn phục vụ cho
người theo tôn giáo nào đó,…) Các nhà hàng sẽ được thiết kế phù hợp với
mục đích này (ví dụ nhà hàng “fine dining” - theo phong cách sang trọng,
nhà hàng bình dân, nhà bán đồ ăn nhanh, …). Khái niệm “ý niệm” ở đây
được hiểu theo nghĩa này.


CHRIS HARAMI

Là một người am hiểu về ẩm thực và say mê công việc nấu ăn, Chris đã suy
tính về việc sở hữu một nhà hàng ngay từ khi còn rất trẻ. Giờ đây, ở tuổi 28, anh
đã sẵn sàng để biến dự định đó thành hiện thực. Anh luôn lấy cô và chú của mình
làm tấm gương để phấn đấu. Họ đã làm trong ngành kinh doanh nhà hàng từ
những năm 1960. Anh thích phong cách sống của họ:

Họ là những con người của xã hội – gần giống như trong ngành công

nghiệp giải trí vậy – họ là những nhân vật nổi tiếng. Lúc nào họ cũng nói
chuyện với các khách hàng và được mọi người chú ý. Trong nhiều năm, bố
mẹ tôi không ngừng nói về kế hoạch mở một nhà hàng nhưng họ không bao
giờ đi vào chi tiết. Đó chỉ là một giấc mơ mờ ảo và xa vời.

Khi còn nhỏ, Chris bị thừa cân. Lớn lên, anh đã lao vào tập luyện để kiểm
soát trọng lượng của mình và có xu hướng mắc hội chứng “yo-yo”. Anh ăn kiêng
và giảm được vài cân để rồi sau đó lại bỏ chế độ ăn kiêng và lại tăng cân như cũ.
Chris quyết tâm phải giảm cân bằng được nên tập luyện rất thường xuyên với
cường độ mạnh. Nhưng đáng tiếc thay, chương trình tập luyện này chỉ giải quyết
được phần nào đó mục tiêu của anh. Anh cảm thấy khỏe hơn, trông khá hơn nhưng
vẫn không giảm được bao nhiêu cân nặng.

Trong thời gian học ở Đại học Pace, New York, Chris làm việc bán thời
gian cho một số nhà hàng (xem dẫn chứng 3.1). Thế rồi anh bị ngành kinh doanh
này “mê hoặc” và đã quyết định một ngày nào đó sẽ mở nhà hàng riêng. Chris tốt
nghiệp với tấm bằng cứ nhân kinh tế năm 1990 và sau đó ở nhà.

Mọi thứ đột nhiên thay đổi với gia đình Harami khi bố của Chris phát hiện
ra mình bị tắc động mạch vành cấp sau một cuộc xét nghiệm. Bố anh, một bác sỹ
trị liệu, cần phải được mổ tim hở . Sau cuộc phẫu thuật, bác sĩ Harami phải ăn
kiêng theo chế độ dinh dưỡng ít chất béo, natri, cholesterol và nhiều chất xơ. Để
động viên ông, cả nhà cũng thay đổi cách ăn uống của mình. Những bài tập của
Chris được kết hợp với chế độ ăn kiêng mới đã giúp vòng bụng của anh giảm từ 38
xuống còn 32. Anh thực sự bị thuyết phục bởi những lợi ích của việc ăn kiêng một
cách khoa học và có lợi cho sức khỏe.

MBA: CREPE DU JOUR, S’IL VOUS PLAIS

Năm 1992, Chris đăng ký vào Trường đào tạo kinh doanh sau đại học

Babson để “học hỏi thêm những kiến thức cần thiết để trở thành một nhà kinh
doanh thành đạt.” Một trong những lớp mà anh theo học là lớp New Venture
Creation(Tạo nên Công ty mới), nơi các sinh viên lập thành các nhóm để viết
những kế hoạch kinh doanh. Tại đây, nhóm của Chris với 5 thành viên đã tạo ra
một kế hoạch kinh doanh dành cho một chuỗi nhà hàng phục vụ nhanh của Pháp
(quick service restaurants – QSR) mà họ đặt tên là “Crepe, du Jour”. Trong khóa
học thiết lập kế hoạch kinh doanh này, Chris đã học được rất nhiều về sự thành
công và thất bại trong kinh doanh nhà hàng. Anh tốt nghiệp vào tháng 5-1994 với
dự định mở một chuỗi nhà hàng Crepe du Jour QSR với Michael Tapiro, một
thành viên người Pháp trong đội.

Khi họ tiếp tục phát triển kế hoạch thì một có một vấn đề phát sinh: Ý
tưởng của họ không được các chuyên gia phân tích trong ngành đón nhận nhiệt
tình cho lắm. Phản ứng thường gặp của các chuyên gia đối với ý tưởng kinh doanh
này là “Những nhà hàng Crepe á?!”. Chris và người bạn đã nghiên cứu thêm về
lịch sử của các nhà hàng Pháp trên đất Mỹ và hầu như mất hết cả ý chí khi tìm
thấy một loạt các nhà hàng Pháp đã thất bại trong khi chỉ có một vài trường hợp
hiếm hoi thành công. Ví dụ, hệ thống nhà hàng crepe Magic Pan tương tự như ý
tưởng của họ đã thất bại vào giữa những năm 1980. Đến cuối mùa hè, Chris và
Michael quyết định nghe theo sự sáng suốt của các chuyên gia. Micheal quay về
Pháp còn Chris lấy lại tinh thần để tiếp tục nghiên cứu.


DẪN CHỨNG 3.1 Bản lý lịch
CHRISTOPHER C.HARAMI

Kinh nghiệm
Mùa thu 1994 NEW ENGLAND BOOK
COMPONENTS HINGHAM, M.A
Cố vấn marketing

• Tiến hành nghiên cứu thị trường để xác định quy mô
và giá trị thị trường.
• Dự báo tác động về mặt tài chính và marketing của
11 khu vực công nghiệp chủ chốt.
• Giúp ban quản trị xác định những yếu tố thành công
chủ yếu và định hướng chiến lược.
1993 FLIGHT LTD.
KRASNODAR,
Cố vấn thương mại
• Xây dựng kế hoạch khung cho Flight Ltd nhằm đưa
công ty trở thành doanh nghiệp toàn cầu và cung cấp hàng hóa
cho các khách hàng trong chính phủ.
• Phát triển kế hoạch kinh doanh mang tính chiến lược
để xuất khẩu sản phẩm của Nga sang phương Tây.
• Đặt quan hệ ban đầu và góp phần đem lại những hợp
đồng nhập khẩu thành công đầu tiên giữa Flight Ltd. và công ty
thương mại quốc tế Hy Lạp
1991-1992 CSM TRADING
WAYNE, NJ
Chủ sở hữu/Quản lý
• Sáng lập và quản lý một công ty xuất nhập khẩu
chuyên về các sản phẩm tiêu dùng cao cấp.
• Nhập khẩu hàng len chất lượng cao từ và New Zeland.
1990-1991 LIBBYS CORPORATION
PATERSON, NJ
Quản lý nhà hàng

×