Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Các giải pháp giáo dục học sinh chậm tiến, lấy học sinh làm trung tâm trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.88 MB, 68 trang )

MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

MỤC LỤC

3

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

5

1

Lí do chọn đề tài

5

2

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

6

3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


6

4

Phương pháp nghiên cứu

7

PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

9

Cơ sở lí luận

9

1.1

GD học sinh- Lấy HS làm trung tâm trong trường THPT

10

1.2

Thực trạng HS THPT và những VĐ GD HS

11

1.3


Tầm quan trọng của GD “học sinh chạm tiến” (HSCT)

15

1.4

Khái niệm HSCT

16

1.5

Những nguyên tắc GD HSCT

17

1

1.5.1 Khảo sát

17

1.5.2 Nguyên tắc chung

17

1.5.3 Yêu cầu đối với GVCN khi giáo dục HSCT

18


2

Cơ sở thực tiễn

18

2.1

Tình hình chung về cơng tác chủ nhiệm ở trường phổ thông

19

2.2

Công tác chủ nhiệm trường THPT Quỳ hợp 2

20

2.3

Đặc điểm tình hình lớp 12C10

21

2.3.1 Thuận lợi

21

2.3.2 Khó khăn


22

3

Nội dung GD HSCT

23

3.1

Phân loại HSCT

23

3.2

Các giải pháp cụ thể GD HSCT

24

-

Giải pháp 1: GVCN giành tình yêu thương đối với HSCT

23

-

Giải pháp 2: GVCN duy trì nề nếp kỷ cương


25

-

Giải pháp 3: GVCN phát huy vai trò của hệ thống giáo dục và

25


TT

Nội dung

Trang

phụ huynh học sinh
-

Giải pháp 4: Xây dựng các mối quan hệ thân thiện

26

-

Giải pháp 5: Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường và xã
hội

26

-


Giải pháp 6: “Lạt mềm buộc chặt”, giáo dục HS rèn luyện, giải
pháp thúc đẩy

32

-

Giải pháp 7: Ứng dụng cộng nghệ thông tin trong việc giáo dục
HS

35

-

Giải pháp 8: Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hướng nghiệp,
giáo dục kỹ năng sống cho HSCT

39

-

Giải pháp 9: Giáo dục HS thông qua các tiết chủ nhiệm ( bằng
hình thức đa dạng hóa....)

44

4

Kết quả ứng dụng


47

4.1

Trước khi sử dụng đề tài

47

4.2

Phạm vi ứng dụng

47

4.3

Sau khi ứng dụng

48

PHẦN 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

54

1

Kết luận

2


Kiến nghị

57

Tài liệu tham khảo

60

Phụ lục

61

2


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trước những vụ bạo lực học
đường liên tiếp xảy ra gần đây, đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước
thực tế: Làm thế nào để cảm hóa và giáo dục “học sinh chậm tiến” có hiệu quả là
một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang
trở thành một thách thức lớn với tồn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo
dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các nhà trường.
Giáo dục “học sinh chậm tiến” quả là một vấn đề chúng ta đặt ra câu
hỏi “Phải làm sao, dùng phương pháp nào đây?” Việc giáo dục “học sinh chậm
tiến” phải chăng là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm hay cần có sự kết hợp giữa
nhà trường, gia đình và xã hội? Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những
vấn đề nói trên, bản thân chọn đề tài: “Các giải pháp giáo dục học sinh chậm
tiến, lấy học sinh làm trung tâm trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT”

Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân mà rất nhiều đồng nghiệp khác
quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của mình trở thành những con ngoan, trị
giỏi, người có ích cho xã hội. Học sinh của chúng ta, đa phần các em đều ngoan,
tích cực trong học tập và rèn luyện. Tuy nhiên, có một thực tế chúng ta phải thừa
nhận đó là, bên cạnh những học sinh chăm ngoan hiếu học, cịn đó những học sinh
chậm tiến hơn. Nếu chúng ta bỏ rơi các em, thì các em sẽ rơi ngay vào các cám dỗ
bên ngồi cuộc sống.
Mặt khác, cơng tác giáo dục học sinh nói chung và giáo dục học sinh chậm
tiến trên thực tế cịn chưa thật đều tay. Điều đó được quyết định bởi đội ngũ giáo
viên mà trong đó giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp đóng một vai trị hết sức quan
trọng. Giáo dục học sinh chậm tiến, lấy học sinh làm trung tâm địi hỏi rất lớn ở
người GVCN khơng chỉ năng lực, sự kiên trì, mà cịn là cả sự nhiệt tâm. Bởi giáo
viên chủ nhiệm là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp có đủ các tiêu
chuẩn và được Ban giám hiệu phân công nhiệm vụ chủ nhiệm lớp trong một năm
học hoặc trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học. Giáo viên chủ nhiệm lớp thực
hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, người
tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi và xây
dựng một tập thể học sinh vững mạnh. Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trị thay mặt
hiệu trưởng quản lí một lớp học; Người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh
trong lớp; Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp; Giữ vai trò chủ
đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục. Làm tốt công tác chủ nhiệm
tức là người giáo viên đã hoàn thành tốt việc giảng dạy và tổ chức giáo dục, rèn
luyện đạo đức cho học sinh. Đặc biệt trong trường PTTH, vai trò của người giáo
viên chủ nhiệm hết sức quan trọng.
Đối tượng học sinh cấp THPT ở cùng độ tuổi cũng có nhiều dạng khác nhau:
có nhiều em rất ngoan, hiền và biết vâng lời thầy cô giáo. Nhưng cũng có một số
3


em thì ngang bướng, nghịch ngợm, hay phá phách..... Trong đối tượng học sinh

này có một dạng gọi là “học sinh chậm tiến”. Đó là loại học sinh ln tạo ra nhiều
sự phiền hà và bận rộn hơn cho giáo viên. Để đưa các em học sinh dạng chậm tiến
này vào khuôn khổ không phải giáo viên nào cũng thành công trong việc giáo dục
và giảng dạy.
Như chúng ta đã biết, việc giáo dục phát triển nhân cách học sinh là một nhu
cầu cần thiết, bản chất của quá trình giáo dục là tổ chức học tập, lao động, rèn
luyện của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi tối ưu để tiềm năng của học sinh được
phát triển dưới sự giáo dục của giáo viên chủ nhiệm. Vai trò của giáo viên chủ
nhiệm gần như trờng cây, chăm sóc vun trồng cây giống, tạo điều kiện cho hạt
giống nẩy mầm. Cho nên, bản thân người giáo viên chủ nhiệm, phải luôn tâm niệm
dạy dỗ, giáo dục cho các em trở thành những con người hữu ích cho xã hội, để
xứng đáng với những hình ảnh đẹp mà xã hội ban tặng như đờng chí Phạm Văn
Đờng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao q vì
nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Giáo dục giữ vai trò hết sức quan trọng trong cơng cuộc xây dựng và phát
triển đất nước chính vì vậy Đảng và nhà nước ta ln đặc biệt quan tâm: Coi giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Một trong những nguyên lí giáo dục cơ bản của đất
nước chúng ta là giáo dục con người toàn diện. Khi nói về vai trị của việc giáo
dục, bời dưỡng cho thế hệ sau. Chủ tịch Hờ Chí Minh đã từng khẳng định: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Mà muốn vậy thì
khơng có cách nào khác ngồi giáo dục. Đặc biệt trong Di chúc Người căn dặn
Đảng ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và
cần thiết”. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác giáo dục đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ
như Chỉ thị 20-CT/TW ngày 5/11/2012 của Bộ Chính trị “Về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với cơng tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình
hình mới”; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí Thư “Về tăng cường
giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn
2015-2030”; Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Tăng cường giáo dục lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai

đoạn 2015-2020”.
Mỗi đối tượng học sinh, địi hỏi mỗi thầy cơ giáo phải có một phương pháp
giáo dục thích hợp. Đối với những học sinh chậm tiến, mỗi trường học có các cách
giáo dục riêng. Tuy nhiên, dù áp dụng theo phương pháp nào cũng nên đảm bảo kết
hợp giữa kỷ luật và tình thương. Bằng những kinh nghiệm của bản thân, với nỗi
trăn trở và mong muốn các học trị của mình, ai cũng trở thành con ngoan, trò giỏi,
trở thành những người có ích cho xã hội, khơng ai bị “bỏ lại phía sau” dù là “học
sinh chậm tiến”. Hơn thế nữa, chúng tôi muốn chia sẻ những kinh nghiệm trong:
“Các giải pháp giáo dục học sinh chậm tiến, lấy học sinh làm trung tâm trong
công tác chủ nhiệm ở trường THPT” để các đồng nghiệp tham khảo, áp dụng và
4


bổ sung để đề tài ngày một hoàn thiện hơn. Đây là vấn đề trăn trở của bao thế hệ
giáo viên và nhà quản lý giáo dục nói riêng và của tồn xã hội nói chung; Và cũng
có thể nói đó là một trong những vấn đề cấp thiết của xã hội thời kỳ hội nhập.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trị của GVCN lớp trong
cơng tác giáo dục đạo đức HS để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện (cả “trí dục” và “đức dục”) cho học sinh chậm tiến ở
trường THPT.
Nắm được thực trạng của một số học sinh chậm tiến trong công tác chủ
nhiệm; Xác định các ngun nhân chính đã dẫn đến một số em có hành vi chưa
đúng, chưa có động cơ học tập, có phẩm chất đạo đức chưa tốt. Từ đó giúp cho
các em định vị bản thân, xác định được ý nghĩa của cuộc sống, định hướng được
hành vi và có động cơ học tập tốt hơn. Đờng thời qua đó giáo dục, uốn nắn, bồi
dưỡng, giáo dục các em từ những học sinh chậm tiến, quậy phá, lười học trở thành
con ngoan, trị giỏi, sau này là người có ích cho xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng.

Đối tượng là học sinh chậm tiến về mặt học tập và rèn luyện cũng như nhiều
mặt khác trong các khóa học làm cơng tác chủ nhiệm. Đặc biệt là:
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng, nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức HS trong trường THPT.
- Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc trải nghiệm thực tế
Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp mà bản thân tôi được giao từ lớp 11A2
cho đến 12C10.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Trải nghiệm công tác chủ nhiệm tại trường THPT Quỳ hợp: Các buổi hội thảo
chủ nhiệm, trao đổi với đồng nghiêp, thực tế các lớp chủ nhiệm được phân công
qua nhiều năm học và hiện nay là lớp 12C10 năm học 2019-2020 tại trường THPT
Quỳ Hợp 2.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu nghiên cứu lí thuyết: Áp dụng tâm lí học sư phạm,
lí thuyết giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thơng tin, vai trị của
người GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS trên các tập san giáo dục,
các phương tiện thông tin đại chúng, các tài liệu tham khảo trên Internet.
- Phương pháp thống kê, quan sát:

5


+ Ứng dụng trong học sinh khóa mình phụ trách, thống kê kết quả làm được,
chưa làm được.
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS.
- Phương pháp điều tra:
Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, hội cha mẹ học sinh(CMHS), bạn
bè và hàng xóm của HS.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong
trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
Thử áp dụng các giải pháp, vào công tác giáo dục đạo đức học sinh ở lớp
11C10 trường THPT Quỳ Hợp 2 năm học 2018-2019; 2019-2020.
* Thời gian thực hiện.
Từ năm học 2017-2018 đến năm học 2019-2020.

6


PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Trong Luật giáo dục Việt Nam năm 2005, Điều 2 chương 3 đã quy định như
sau: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bời dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Hơn thế, giáo dục là q trình bao gờm giáo dục và giáo dưỡng. Trong giáo
dục thì có giáo dưỡng, trong giáo dưỡng thì có giáo dục. Vậy người giáo viên chủ
nhiệm lớp có vai trị như thế nào trong công tác giáo dục học tập cũng như đạo đức
cho học sinh. Làm thế nào để hai quá trình này tạo thành một mục tiêu chung?
Làm thế nào để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế
nào để sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm của
tồn xã hội, của những người làm cơng tác giáo dục, của những người làm cơng tác
chủ nhiệm lớp nói chung, đặc biệt là người giáo viên chủ nhiệm THPT nói riêng.
Trong Điều 34, chương IV, Thơng tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12
năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu rõ: Giáo viên chủ

nhiệm là người có trách nhiệm thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch nhà trường giao; từ
giáo viên đến học sinh nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên lý giáo dục và mục tiêu
giáo dục cấp học. Không những thế mà giáo viên chủ nhiệm còn phải rèn luyện
cho học sinh về mặt đạo đức cũng như các mặt hoạt động khác. Như vậy vấn đề
giáo dục học sinh trở thành những con người phát triển toàn diện là nhiệm vụ hàng
đầu biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực mà người giữ vai trò quyết định
thực hiện nhiệm vụ này chính là giáo viên chủ nhiệm lớp. Tạo tiền đề cho sự phát
triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất, học vấn và năng lực của HS. Xác
định được những yêu cầu trên, để thấy rõ vai trò của người giáo viên chủ nhiệm.
Muốn vậy người GVCN phải có giải pháp, phương hướng của mình.
Bất cứ một ai khi đã chọn ngành nghề cho mình thì đều xác định cái đích
mình cần đạt đến. Cái đích đó tưởng như rất gần, rất dễ thực hiện, nhưng trong
thực tiễn không phải như vậy, mà nhiều khi để đạt được phải đổ nhiều mồ hôi,
nước mắt.
Cũng như mọi ngành nghề khác, nghề dạy học (hay thường gọi là nghề giáo)
nhất là giáo viên dạy bậc THPT cũng không tránh khỏi những vấn đề nan giải ấy.
Khi đã chọn cho mình cái nghề này, nó sẽ gắn bó với mình suốt cả cuộc đời, người
giáo viên sẽ sẵn sàng đón nhận bất cứ đối tượng học sinh nào để dạy dỗ cho các
em trở thành người có đức, có tài.
Học sinh THPT ở lứa từ 16 đến 18 tuổi các em rất nghịch, hiếu động, chưa
làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay
bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. Chính vì thế,
nếu mơi trường tác động tốt thì các em sẽ có những hành vi và đạo đức tốt, cịn
ngược lại thì sẽ rất tời tệ, có thể các em sẽ hư hỏng, dối trá, mất tư cách, đạo đức kém….
7


Tuy nhiên ở lứa tuổi này, các em cũng rất thích được tán dương, khen ngợi.
Vì vậy chúng ta cần những giải pháp thích hợp để giáo dục và định hướng đúng
đắn cho các em học sinh trong các hoạt động giáo dục, học tập và vui chơi lành

mạnh, phù hợp với lứa tuổi của các em. Chúng ta không thể áp dụng cách thức
giáo dục cho lớp bậc tiểu học, cũng không thể áp dụng cách thức giáo dục cho bậc
trung học cơ sở vào học sinh THPT. Có như vậy, chúng ta mới giáo dục học sinh ở
bậc THPT phát triển một cách đúng nhất về nhân cách cũng như nhận thức của lứa
tuổi mình, đặc biệt là các học sinh dạng chậm tiến.
Với học sinh dạng chậm tiến, cần có những biện pháp riêng, phù hợp với
hồn cảnh của từng em, mà từ đó mới hướng các em đi vào nề nếp. Muốn làm điều
đó giáo viên cần phải có những hiểu biết nhất định về từng hoàn cảnh, từng nguyên
nhân tạo nên những học sinh chậm tiến đó và từ đó xây dựng các biện pháp riêng
cụ thể áp dụng cho từng em học sinh chậm tiến.
1.1. Giáo dục học sinh- Lấy học sinh làm trung tâm trong trường THPT.
“Lấy người thầy làm trung tâm” và “lấy người học làm trung tâm” là hai
quan điểm dạy học hồn tồn khác nhau. Hai quan điểm này khơng chỉ là hai cách
trả lời cho câu hỏi: Ai là nhân vật trung tâm trong quá trình dạy học và giáo dục?
Mà quan trọng hơn là làm thế nào, bằng phương pháp nào để nâng cao chất lượng GD-ĐT.
Thật vậy, chúng ta không ai phủ nhận một điều là: Học sinh (HS) là nguyên
nhân trực tiếp của sự ra đời và tờn tại nhà trường. Khơng có HS thì khơng có nhà
trường, khơng có cả thầy giáo. Tồn bộ sự nghiệp giáo dục của chúng ta hướng tới
mục đích là bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người lao động tự chủ, năng
động và sáng tạo, đủ trí thơng minh, đủ năng lực để giải quyết mọi nhiệm vụ mà họ
gặp phải trên đường đời, để họ thành đạt và hạnh phúc trong cuộc sống cá nhân và
góp sức phục vụ xã hội. Sự nghiệp giáo dục của chúng ta trên tổng thể là nâng cao
dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân lực và nhân tài. Với cách diễn đạt chung quy lại
đều hướng tới người học sinh và vì học sinh. Học sinh là tiêu điểm mà mọi hoạt
động của nhà trường đều xoay quanh và vì nó mà người thầy phấn đấu không mệt mỏi.
- Trong dạy học, học sinh là đối tượng trí tuệ của người thầy, nó cịn là một
sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với xã hội và thời đại. Cùng lúc đó, học sinh
là chủ thể của hoạt động học tập. Các em tiếp thu tri thức nhân loại để phát triển
chính bản thân mình trở thành chủ thể tích cực và sáng tạo. Học sinh là chủ thể của
chính mình. Vì vậy nhân vật trung tâm này phải là một chủ thể có ý thức, có nhu

cầu, có hứng thú, ham thích học và tích cực trong hoạt động học tập, biết cách học
để chiếm lĩnh khoa học.
“Lấy người học làm trung tâm” là quan điểm không phải hạ thấp vai trò của
người thầy, đưa người thầy xuống trở thành người “quan sát”, “chứng kiến” hoạt
động của học sinh. Mà ngược lại vì “lấy người học làm trung tâm” nên càng yêu
cầu cao đối với năng lực của người thầy. Người thầy phải là người có khả năng tổ
chức, điều khiển mọi hoạt động của học sinh, giúp học sinh học tập, rèn luyện tốt
8


nhất. Ở bất kì thời kì nào vai trị của người thầy cũng ln được đề cao, vì thế
người ta mới tìm cách nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên. Do đó, người thầy có
giỏi mới có thể giúp học sinh giỏi và ngược lại, trò giỏi lại cần phải có thầy giỏi.
Như GS. Hồng Tụy đã từng nói: “Vai trò quyết định đối với chất lượng
giáo dục vẫn thuộc về các yếu tố có liên quan trực tiếp tới người thầy”. Mối quan
hệ giữa dạy và học là mối quan hệ biện chứng, chính nó là quy luật cơ bản để tạo
nên chất lượng và hiệu quả của q trình dạy học.
Cịn kiểu dạy học “lấy người thầy làm trung tâm” vẫn tồn tại cho đến ngày
nay, trong đó vai trị của người thầy được mặc định q cao, thầy quyết định mọi
điều trên lớp. Thầy giảng, trò nghe. Ng̀n thơng tin từ phía người thầy là duy
nhất, thầy truyền tải, học sinh tiếp thu vô điều kiện. Tất nhiên ở đây người thầy
giỏi thuyết trình, giải thích dễ hiểu, có khả năng diễn cảm, thu hút học sinh; từ đó
học sinh tiếp thu nhanh, nhớ lâu. Dạy bằng thuyết trình là lối dạy “tiết kiệm” một
người giảng nhiều người nghe trong một thời gian ấn định sẽ hồn thành một
chương trình. Học sinh có thể nắm vững lí thuyết một cách rất hệ thống nhưng khả
năng “tiêu hóa” thấp và kĩ năng thực hành khó được hình thành, nhất là khơng có
thời cơ để vận dụng vào thực tế. Do vậy khơng thể nói đến sự linh hoạt trong tư
duy giải quyết các tình huống trong thực tiễn.
- Quan điểm giáo dục “lấy người học làm trung tâm” địi hỏi phải xây dựng
lại các hình thức tổ chức dạy học và các phương pháp dạy học phù hợp, bên cạnh

đó phải có phương pháp giáo dục đạo đức học sinh hợp lí. Nhất là các em học sinh
chậm tiến. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả kết hợp cả dạy văn hóa và đạo đức,
làm sao để học sinh phát triển toàn diện là một vấn đề hết sức quan trọng. Quan
điểm giáo dục “lấy người học làm trung tâm” sẽ là một phương hướng, mục tiêu
phù hợp với yêu cầu của thời đại ngày nay.
1.2.Thực trạng học sinh THPT và những vấn đề giáo dục học sinh:
Hiện nay, dư luận hết sức quan tâm và lo lắng các biểu hiện lệch lạc, thậm
chí vi phạm pháp luật của học sinh ngày càng tăng.
Học sinh hút thuốc lá, uống rượu, nghiện game, chát….trong khi không phải
các em không ý thức được sự nguy hại của vấn đề đó. Thậm chí nhiều khi các em
tham gia vì đua địi, có khi khơng đủ khả năng để từ chối.
- Bạo lực học đường gia tăng: Theo thống kê của các Bộ GD-ĐT chỉ trong
một năm học toàn quốc xảy ra gần 1600 vụ học sinh đánh nhau trong và ngoài
trường học. Cũng theo số liệu thống kê, khoảng 5.200 học sinh thì có một vụ đánh
nhau và 11.000 học sinh thì có một em bị thơi học vì đánh nhau. Nguy hiểm hơn,
các học sinh khác có thái độ thờ ơ, vô cản khi chứng kiến. Các em không hề ngăn
cản mà thậm chí cịn cổ vũ, qua khảo sát có đến 28% các em lảng tránh câu hỏi:
Em làm gì khi bạn gặp khó khăn?
Cịn theo báo cáo của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm, từ năm
2013 đến năm 2015 đã xử lý 25.000 vụ phạm pháp hình sự với 42.000 đối tượng.
9


Trong đó có hơn 75 % là thanh niên và học sinh, sinh viên. Cũng theo số liệu tổng
hợp của Cục cảnh sát hình sự, Bộ Cơng an, trong năm 2018 và 2019 có 28 tỉnh,
thành phố có từ 30 đến 110 vụ trẻ em bị xâm hại ….
Tính từ tháng 5/2007 đến tháng 5/2008 tại bệnh viện Trưng Vương
(TPHCM) đã tiếp nhận tới 310 ca tự tử dưới 16 tuổi.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực học đường là do
tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập, dẫn đến

trong xã hội xuất hiện những tư tưởng, lối sống thiếu lành mạnh, lệch chuẩn, lười
lao động, thích hưởng thụ; việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống cũng như việc xây dựng hệ giá trị đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội đã
có những biểu hiện xem nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, chạy
theo thị hiếu không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa
lối sống lành mạnh trung thực, có lý tưởng…với lối sống ích kỉ, thực dụng…đang
diễn ra hàng ngày. Bên cạnh những hệ giá trị mới được hình thành trong quá trình
hội nhập, những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ học sinh THPT. Cùng với đó một số địa
phương chưa thường xuyên chỉ đạo thực hiện các quy định về bảo đảm môi trường
giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện, phịng, chống bạo lực học đường. Cơng
tác chỉ đạo, triển khai cịn chậm, chưa theo kịp nhu cầu thực tế. Nhiều địa phương,
nhà trường chú trọng nhiều hơn đến chất lượng dạy và học văn hóa, một số trường
ln lấy thành tích và chạy đua theo thành tích học tập mà quên đi nhiệm vụ cao cả
của nghề dạy học là giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh, từng bước hoàn
thiện, từ cái chưa có thành cái có, giáo dục, cảm hóa học sinh hư hỏng, nghịch
ngợm thành học sinh ngoan. Xây dựng mơi trường giáo dục an tồn, lành mạnh,
thân thiện.
Bên cạnh đó một số GVCN chỉ thích nhận những lớp chủ nhiệm là lớp
chọn, lớp ng̀n, lớp có nhiều học sinh ngoan mà sợ phải đảm nhiệm đối với
những lớp có học sinh quậy phá hoặc có hạnh kiểm trung bình khá. Trong tất cả
các lĩnh vực, nhân tố con người sẽ quyết định cho mọi sự thành công hay thất bại.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa ngày nay mỗi con người
chúng ta cần ra sức phấn đấu học tập để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước
như nhà nước ta đã xác định con người là tài sản quý giá và quan trọng nhất, là
nguồn lực lớn và cần thiết đối với quốc gia dân tộc. Trên cơ sở đó ngành giáo dục
– đào tạo đóng vai trị then chốt trong mọi hoạt động và người thầy đóng vai trị
quyết định cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai, trong đó giáo dục học
sinh chậm tiến là một trong những đóng góp nhất định cho vai trị này. Ngày nay

trong công cuộc đổi mới đất nước, tiếp cận với những tiến bộ về khoa học – cơng
nghệ địi hỏi những người phục vụ trong công tác giáo dục phải xác định rõ vai trị,
trách nhiệm của mình là sự nghiệp trờng người. Những sản phẩm của mình tạo ra
nó sẽ quyết định cho cả một thế hệ và thế hệ này phải là một thế hệ trẻ năng động,
10


đồng nhất, hạn chế tối đa học sinh chậm tiến. Do đó vai trị của người thầy là nhân
tố quan trọng để quyết định cho những sản phẩm mà mình tạo ra. Người thầy là
những người phục vụ trực tiếp trong lĩnh vực giáo dục để đào tạo, rèn luyện cho
thế hệ trẻ, trong đó GVCN đóng vai trị quan trọng đối với các cấp học nhất là cấp
học phổ thông. Giáo viên là những người được đào tạo về kiến thức, về nghiệp vụ
chun mơn đờng thời cịn được trang bị đầy đủ kỹ năng trong việc giáo dục nhân
cách học sinh nhất là thông qua công tác chủ nhiệm nhằm giúp học sinh phát triển
một cách toàn diện. Mặt dù đã được đào tạo kỹ lưỡng, nhưng mỗi giáo viên có
năng khiếu, sở trường riêng, về chun mơn phần lớn đáp ứng nhu cầu giảng dạy,
nhưng về kỹ năng quản lý, giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm thì chắc
khơng phải ai cũng làm tốt, nhất là việc giáo dục học sinh chậm tiến. Thực tế nhà
trường trong những năm qua, nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong cơng tác chủ
nhiệm. Do đặc thù của địa phương, nên lượng học sinh vào học tại trường có một
số đối tượng khơng ngang bằng nhau về học lực lẫn hạnh kiểm. Việc xếp lớp, với
hình thức đại trà, ở mỗi lớp đều có học sinh giỏi; khá; trung bình. Đặc biệt là đối
với học sinh khối lớp 10 sau một thời gian học từ một đến hai tháng mới nỗi trội
lên những học sinh yếu, kém về học lực. Từ đó những học sinh này có những biểu
hiện sa sút về học lực lẫn hạnh kiểm do nhiều nguyên nhân tác động đã dẫn đến
tình trạng như thường xuyên không thuộc bài, không làm bài tập, bỏ học, cúp tiết,
mê chơi game, không chấp hành nội quy nề nếp trường lớp, gọi chung là học sinh
chậm tiến. Từ đó dẫn đến các tiêu cực khác…Những đối tượng nêu trên mặt dù số
lượng khơng nhiều, trung bình chỉ chiếm khoảng 5%/lớp. Nhưng đối với vai trò
của GVCN đây là vấn đề khơng ít khó khăn trong cơng tác quản lý lớp không khéo

sẽ làm ảnh hưởng đến những học sinh khác, nhất là đối với những giáo viên mới ra
trường chưa có nhiều kinh nghiệm, đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
chung của nhà trường. Từ đó mà đối với mỗi giáo viên ngồi kiến thức chun
mơn giỏi địi hỏi phải có kỹ năng trong cơng tác chủ nhiệm nhằm kịp thời giáo dục
những học sinh chậm tiến trở thành những học sinh ngoan. Giúp các em có được
nhận thức đúng đắn về vai trị, trách nhiệm của một người học sinh, đồng thời giúp
cho người thầy có được niềm tin đam mê nghề nghiệp, tạo một mơi trường giáo
dục thân thiện, tích cực đầy ý nghĩa. Đây là vấn đề quan trọng trong công tác chủ
nhiệm ở trường THPT hiện nay. Đối với học sinh THPT, hầu hết các em bước sang
giai đoạn phát triển toàn diện về thể chất. Nên đặc điểm tâm lý của các em rất dễ bị
kích động do những yếu tố xã hội bên ngoài, các em thường tự khẳng định mình là
người lớn chứ khơng phải là học sinh THCS nữa, cho nên các em thấy mình có
quyền giải quyết các vấn đề theo kiểu người lớn, tự quyết định cho bản thân mà
không nghe theo sự giáo dục của người khác kể cả cha mẹ. Một số em nghĩ rằng
thầy cơ sẽ khơng làm gì được mình ngồi việc nhắc nhở, hăm dọa, mời phụ huynh
… từ đó mà các biểu hiện chậm tiến dần dần xuất hiện. Dĩ nhiên, trong trường nào
vẫn có một số học sinh “chậm tiến”, bị cám dỗ, còn sa ngã vào những trị ăn chơi
vơ bổ, thậm chí hút hít, cờ bạc, trộm cắp,... Nhưng đó chỉ là con số nhỏ. Tuy nhiên
cần khẳng định rằng các em học sinh chậm tiến tuy học lực yếu nhưng bù lại, lại có
11


những năng khiếu đặc biệt như văn nghệ, thể dục, thể thao, vi tính,… Những khả
năng này, thầy cơ, nhà trường có thể phát huy để các em có thể góp sức vào phong
trào hoạt động của nhà trường và từ đó có thể định hướng cho các em theo đúng sở
trường…Giáo dục học sinh chậm tiến chỉ có thể “GIÁO DỤC’’mới hiệu quả. Đối
với thầy cô làm công tác chủ nhiệm trước hết phải hiểu biết về tâm lý lứa tuổi của
các em để có các giải pháp xử lý tình huống cho thích hợp. Trong lớp học có rất
nhiều đối tượng học sinh: Học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh yếu kém. Đối với
học sinh khá, giỏi thường các em rất có ý thức, nghe lời thầy cơ, các em sẽ thấy hối

hận khi mình lỡ vi phạm và các em sửa đổi những khuyết điểm của mình một cách
tự giác rất nhanh. Những đối với học sinh yếu, kém (học sinh chậm tiến) khi vi
phạm các em sửa đổi rất chậm, thậm chí khơng hề sửa đổi mà vi phạm ngày càng
tăng lên dẫn đến học lực ngày càng sa sút và kết quả phải lưu ban hoặc bỏ học giữa
chừng. Do đó giáo viên khi làm công tác chủ nhiệm phải nắm rõ các đối tượng của
lớp mình để có hướng giáo dục cho phù hợp. Làm thay đổi thái độ học tập của học
sinh từ “xấu” chuyển sang “tốt” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường và giảm tỷ lệ bỏ học hàng năm.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT hiện nay đang gặp rất
nhiều khó khăn. Ở lứa tuổi này, các em có những biểu hiện, suy nghĩ hành động
cịn nơng nổi. Mặc dù sự phát triển về tâm sinh lý của các em có thể xem như là ổn
định. Nhưng các em chưa thể vững vàng nếu như không được giáo dục đến nơi,
đến chốn, không được định hướng đúng lúc, đúng chỗ. Mọi sự cám dỗ ở ngồi học
đường dễ lơi kéo các em sa vào các cạm bẫy và dễ dàng bỏ bê việc học, học hành
sa sút hẳn. Hoặc học sinh bị mất căn bản kiến thức sẽ dễ xa rời học tập; bên cạnh
đó một bộ phận phụ huynh học sinh lo làm kinh tế, phó mặc con cái cho nhà
trường. Thật vậy giáo dục hạnh kiểm cho học sinh đã khó, giáo dục học sinh chậm
tiến càng khó hơn. Hầu hết ở các lớp đều có học sinh chậm tiến, sự chậm tiến của
các em đều do những nguyên nhân tương tự như nhau; từ những môi trường và tác
động khác nhau.
Một nhà văn lớn đã từng nói “Sống hay khơng sống - đó là vấn đề”. Là
một người học sinh đồng thời cũng là một người thanh niên thuộc thế hệ trẻ, chúng
ta hãy sống sao cho có mục đích, có lí tưởng, hãy sống sao để khi nhìn lại những gì
đã qua ta khơng phải xót xa ân hận những tháng năm đã sống hồi sống phí.
Đã có rất nhiều bài viết chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc xuống cấp đạo
đức của học sinh. Có ý kiến cho rằng do gia đình thiếu sự quan tâm, chưa kết hợp
chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường trong giáo dục đạo đức của các em. Nhưng
trong thực tế, không phải trường hợp học sinh vi phạm đạo đức nào cũng ở trong
hồn cảnh gia đình khơng quan tâm.
- Do sự phát triển của khoa học công nghệ? Một nguyên nhân được đặt ra

là kinh tế xã hội phát triển ngày càng cao và sự bùng nổ thông tin, dẫn đến việc
một bộ phận gia đình khá giả chiều chuộng con mình, tạo nên sự đua địi trong các
em. Điện thoại di động thông minh, Internet, phim ảnh của các Website đen đã tác
12


động không nhỏ đến nhận thức. Lối sống và cách hành xử của học sinh, làm hư
hỏng học sinh bởi bản tính tị mị, hiếu động của tuổi mới lớn. Tuy nhiên việc vi
phạm đạo đức của học sinh không chỉ diễn ra ở địa bàn thành phố, đô thị hay chỉ
rơi vào trường hợp các em gia đình có điều kiện kinh tế. Các trường vùng sâu, xa,
học sinh nghèo chưa có điều kiện tiếp cận nhiều với Internet vẫn đang phải đối mặt
với vấn nạn vi phạm đạo đức của học sinh.
- Do luật pháp chưa nghiêm? Nhân cách là một thứ giá trị được xây dựng và
hình thành trong tồn bộ thời gian con người tờn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho
mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính
xã hội sâu sắc. Hình thành nhân cách, đạo đức một con người đâu chỉ giáo dục
trong nhà trường phổ thông là đủ. Nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hộ ít nhiều
đều bị chi phối bởi cách mà xã hội đó đang hành xử với nhau. Nếu được sống
trong một môi trường nghiêm minh về pháp luật, chuẩn mực về đạo đức, mọi
người hành xử với nhau một cách có tình có lý, chắc chắc đó sẽ là một mơi trường
giáo dục lý tưởng trong việc hình thành nhân cách đạo đức của học sinh. Những
bài học mà các thầy cô giáo đang cố sức rao giảng để giáo dục đạo đức của học trị
mình trên lớp dường như ngược lại với các hoạt động đang diễn ra trong cuộc sống
xã hội. Trong khi các giáo viên dạy nhạc cố gắng giảng dạy về thẩm mỹ âm nhạc,
chắt chiu từng giờ dạy dân ca để các em biết yêu quý những giá trị tinh thần mà
ông cha ta đã dày cơng vun đắp. Thì hàng ngày, mấy chục nhà đài liên tục phát
những bài hát được gọi là nhạc trẻ với một thứ thẩm mỹ vay mượn, hổ lốn. Báo chí
thì thi nhau săm soi kỹ lưỡng đời sống của các "Sao" như một sự tôn vinh. Chúng
ta có nhói tim khơng khi nghe một học sinh lớp 6 hát nghêu ngao: "Vì em đam mê
thú vui thân xác, nên em đánh mất mối tình của tơi..."Đừng để tôi biết em dối gian"

- Lâm Hùng). Giáo dục công dân được đưa vào nhà trường để dạy cho các em,
những công dân tương lai, sống và làm việc đúng luật pháp. Thế nhưng khi ra
đường các em luôn phải chứng kiến những hành vi vi phạm an toàn giao thơng của
người lớn mà đơi khi cịn có cả cảnh sát giao thông.
- Do những tiêu cực mà các em hàng ngày phải chứng kiến. Nhà trường
thường xuyên giáo dục các em về tính trung thực, phải biết vươn lên bằng chính
đơi chân của mình. Nhưng trong thực tế các em lại chứng kiến có q nhiều người
lớn khơng trung thực nhưng vẫn "thành đạt". Tệ nạn sử dụng bằng giả hay mua
bằng, gian lận trong thi cử, sự chạy đua thành tích của một số nhà trường, sự thiếu
nghiêm minh của pháp luật …..tác động lên các em hàng ngày trách sao các em
không thiếu niềm tin với những điều học được trong nhà trường. Những thứ mà
các em đang học trong nhà trường dường như là một mớ lý thuyết không áp dụng
được cho cuộc sống.
1.3. Tầm quan trọng của giáo dục học sinh chậm tiến:
Giáo dục học sinh chậm tiến là một trong những mục tiêu quan trọng trong
công tác giáo dục ở trường trung học phổ thơng hiện nay. Trong đó, việc giáo dục
học sinh chậm tiến ngày càng được quan tâm có ý nghĩa góp phần làm hạn chế
13


những khuyết điểm của học sinh. Khắc phục những tồn tại ở học đường để môi
trường giáo dục luôn phát triển lành mạnh, tạo điều kiện cho các em môi trường
học tập và rèn luyện tốt nhất. Vì vậy việc nghiên cứu và áp dụng “Các giải pháp
giáo dục học sinh chậm tiến” trong công tác chủ nhiệm sẽ giúp cho giáo viên chủ
nhiệm thực hiện tốt vai trò quản lý, giáo dục của mình. Làm cho hiệu quả giáo dục
mang tính chất thiết thực hơn, chất lượng hơn.
1.4. Khái niệm học sinh chậm tiến:
* Khái niệm học sinh chậm tiến (HSCT):
- Theo từ điển Tiếng việt: “Chậm tiến”: Nghĩa là trình độ phát triển thấp
so với yêu cầu.

Học sinh chậm tiến (HSCT) chỉ những học sinh khác biệt: Thường là nghịch
ngợm, gây gổ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học, khơng chấp hành nội qui nhà trường …
thêm vào đó là sự lơi kéo của bạn bè về phía mình nhằm thỏa mãn cá tính hoặc
thỏa mãn nhu cầu giải tỏa tâm lý bị ức chế về hoàn cảnh của bản thân mình. Đó là
hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nó dễ bị lơi cuốn làm cho học sinh dễ
bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng và có
nguy cơ phạm tội, đó cũng là nỗi day dứt của nhà trường, gia đình và xã hội.
* Thực trạng:
Hầu như trường nào, lớp học nào cũng có học sinh chậm tiến, mà những học
sinh này đa số gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm, đơi khi họ rất mệt
mỏi vì nói mãi mà các em khơng nghe, càng phạt thì càng lỳ hơn hoặc các em sẽ co
lại và phá phách hoặc chống đối ngầm. Điều này khơng những khó khăn cho giáo
viên chủ nhiệm, mà cịn có thể ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp, của trường.
Giáo viên chủ nhiệm lớp, thường là người đứng ra giải quyết mọi chuyện do
học sinh gây ra. Nhưng chỉ ở mức độ là khuyên bảo, dạy kèm ngồi giờ cho học
sinh q yếu kém, cịn đối với học sinh chậm tiến về đạo đức thì răn đe, xử phạt,
thậm chí cịn hù dọa, nhưng hầu hết đều chỉ có hiệu quả tức thời thơi rời đâu lại
vào đó, học sinh vẫn trở lại như cũ vì do giáo viên chủ nhiệm lớp không hiểu được
nguyên nhân sâu xa, xuất phát từ tâm lý của trẻ. Cũng có giáo viên chủ nhiệm lớp
mời phụ huynh đến để thơng báo về tình trạng của trẻ với mong muốn gia đình kết
hợp cùng nhà trường để giáo dục cho các em tốt hơn, có phụ huynh thì tiếp thu và
cũng có phụ huynh lại bực tức con mình và đánh con trước mặt giáo viên rồi dẫn
con về cho... nghỉ học ln vì cảm thấy xấu hổ. Điều này đã cho thấy chính phụ
huynh cũng bất lực trước con mình...
* Nguyên nhân:
Lâu nay, chỉ thường nghe cụm từ “học sinh chậm tiến” - ám chỉ những đứa
trẻ có vẻ khác thường, khó dạy, thậm chí hư hỏng. Trong trường, học sinh dạng
chậm tiến về đạo đức thường phá phách, đánh nhau, trộm cắp, nổi bật vai trò thủ
lĩnh, lập băng nhóm... đa số chúng ta khi thấy hành động không ngoan của học sinh
14



thì cho là chậm tiến và xử lý trên hành động do học sinh gây ra mà quên là cần
phải tìm cho ra ngun nhân. Đơi khi sự chậm tiến của những học sinh ấy lại do từ
gia đình, cha mẹ chúng như cuộc sống vợ chờng khơng hồ thuận,... từ đó có ảnh
hưởng đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
Không phải tự nhiên mà học sinh trở thành "chậm tiến", đó là hậu quả của các
vết thương tâm lý, mà vơ tình người lớn chúng ta đã gieo vào đầu óc non nớt của trẻ.
1.5. Những nguyên tắc giáo dục học sinh chậm tiến.
Công tác chủ nhiệm lớp, đặc biệt là công tác giáo dục học sinh chậm tiến và
cảm hóa học sinh quả thật là một cơng việc khó khăn và phức tạp. Người giáo viên
phải vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi,
trọng tài phân minh. GVCN phải có một tâm hờn trong sáng, một tấm lịng tận tụy,
một tình cảm nhân hậu, vị tha, một đức tính kiên nhẫn, bình tĩnh và có một trí tuệ
minh mẫn. Thành công của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục học sinh chậm
tiến và cảm hoá được học sinh là làm cho học sinh tơn trọng, kính u, tin tưởng;
là xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều đó, mọi
hành động của giáo viên chủ nhiệm phải xuất phát từ tình thương yêu học sinh,
phải giáo dục học sinh bằng tình cảm.
Học sinh chậm tiến là những học sinh thường có đặc tính thích chơi hơn
học, hay vi phạm nội quy, bướng bỉnh, thích phá, kết quả học tập kém...
1.5.1. Khảo sát: Cơng việc đầu tiên của người GVCN khi có học sinh chậm
tiến trong lớp là:
a. Xác định đúng đối tượng thông qua phản ánh của học sinh, của giáo viên
bộ môn, cần thiết tham khảo ý kiến của GVCN cũ.
b. Phân loại học sinh chậm tiến:
b.1. Học sinh chậm tiến về học tập
b.2. Học sinh chậm tiến về đạo đức, lối sống.
c. Tìm hiểu nguyên nhân:
c.1. Từ gia đình: thiếu quan tâm hay qúa tin tưởng

c.2. Từ xã hội: trong điều kiện xã hội hiện nay từng ngày, từng giờ có những
cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực của xã hội vào nhà trường và tác động đến học sinh.
c.3. Từ bản thân học sinh: Giai đoạn tâm sinh lí có nhiều biến đổi. Từ tuổi
thiếu niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình bằng sự
hiểu biết chưa hồn thiện của mình.
Giáo dục học sinh chậm tiến là vấn đề nan giải không chỉ đối với ngành giáo
dục, mà ngay cả nhiều phụ huynh cũng “bó tay”, bất lực với con mình. Tuy nhiên,
nhờ những nỗ lực trong việc cảm hóa, cơng việc khó khăn này cũng đã mang
lại cho tơi khơng ít những thành cơng.
15


1.5.2. Ngun tắc chung:
1.5.2.1. Tìm hiểu hồn cảnh và đặc điểm tâm lí của từng em học sinh, đặc
biệt là những học sinh chậm tiến. Ở lứa tuổi này tâm sinh lí các em có rất nhiều
phức tạp vì vậy biện pháp giáo dục là “mềm dẻo” và gần gũi tâm sự chia sẽ những
khó khăn trong cuộc sống của các em nhưng vẫn phải nghiêm khắc.
1.5.2.2. Khi uốn nắn giáo dục học sinh vi phạm, chúng ta nên làm từ từ, tìm
hiểu sự việc cho cặn kẽ, rõ ràng, xử lý nghiêm khắc nhưng cũng mềm dẻo, tránh
trường hợp dồn các em vào bước đường cùng.
1.5.2.3. Đối với học sinh chậm tiến mình phải có thái độ cương - nhu đúng
lúc. Nhưng có khi nhu cũng phải dứt khốt kiên định. Điều quan trọng nhất đối với
những học sinh này người GVCN phải thể hiện rõ thái độ của mình nghiêm khắc
nhưng cơng bằng, đặc biệt khơng trù úm học sinh do lỗi của các em. Có như vậy
học sinh mới “tâm phục, khẩu phục".
1.5.2.4. Giáo dục học sinh chậm tiến chỉ khoan dung thôi là chưa đủ. Giáo
dục học sinh chậm tiến người GVCN có kinh nghiệm phải biết áp dụng nhiều biện
pháp khác nhau, theo tôi việc cảm hóa học sinh chậm tiến điều quan trọng là phải
tìm “bắt trúng bệnh” và “trị đúng thuốc". Có học sinh thì dùng biện pháp khoan
dung, nhưng có học sinh khoan dung chỉ là một thứ xa xỉ, không hiệu quả. Thầy

giáo cần thiết phải có những biện pháp mạnh hơn.
1.5.3. Yêu cầu đối với GVCN khi giáo dục học sinh chậm tiến:
Để giáo dục học sinh chậm tiến và cảm hố được học sinh, theo tơi người giáo
viên chủ nhiệm phải có những phẩm chất sau:
1.5.3.1. Người GVCN phải có 'tâm", cái "tâm" sẽ dẫn đến sự bao dung, dẫn
đến trách nhiệm của người thầy đối với một con người. Và cái 'tâm" cũng nảy sinh
nhiều biện pháp giáo dục.
1.5.3.2. Người GVCN cần tránh sự xúc phạm các em trước tập thể lớp, phải
tơn trọng và có lịng tin đối với các em bởi học sinh chậm tiến là những em có cá
tính rất mạnh mẽ.
1.5.3.3. Người GVCN cần phải có những biện pháp động viên, khích lệ kịp
thời để các em có được sự tự tin trong học tập, rèn luyện. Tôi nghĩ rằng một lời
khen đối với học sinh chậm tiến sẽ có tác dụng hơn là một tờ tự kiểm điểm.
1.5.3.4. Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, yêu
thương học sinh và ln ln xác định phương châm :"Vì sự nghiệp trăm năm
trờng người" và "Tất cả vì học sinh thân u".
1.5.3.5. Biết sự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực
hiện thiên chức người kỹ sư tâm hồn. Có sự nhạy cảm sư phạm biết dùng yếu tố
tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hoá học sinh chậm tiến.

16


1.5.3.6. Đặc biệt người GVCN phải giữ được chữ tín đối với trò cả về tri
thức lẫn nhân cách. Đây là điều không thể thiếu được của người thầy trong việc
giáo dục những học sinh chậm tiến.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trong q trình giảng dạy và làm cơng tác chủ nhiệm, bản thân cũng thường
xuyên gặp những đối tượng học sinh chậm tiến này. Nếu khơng có biện pháp giáo
dục hữu hiệu, các học sinh đó thường bỏ học giữa chừng hoặc có những biểu hiện

chống lại thầy cơ hoặc không nắm được kiến thức căn bản …. Để khắc phục được
vấn đề này cần chú ý 2 vấn đề sau:
* Vấn đề thứ nhất: Phải xác định được vị trí và mối quan hệ giữa giáo viên
với học sinh trong quá trình dạy và học.
Phải xem học sinh là trung tâm của vấn đề, trong hoạt động dạy và học, bao
giờ cũng nên xem việc giảng dạy và giáo dục chỉ là tác nhân, còn học sinh xuất
hiện với tư cách là chủ thể được giáo dục. Chúng hoàn tồn chủ động trong mọi
cơng việc từ nhận thức tư duy, đến thái độ và hành vi ứng xử của chúng. Giáo viên
chỉ là người cố vấn, định hướng, dẫn dắt, chỉ bảo, nhắc nhở, động viên cho các em
có được những nhận thức, tư duy và hành vi ứng xử một cách đúng đắn, lễ phép.
* Vấn đề thứ 2 : Sự tác động của gia đình và xã hội với học sinh lứa tuổi THPT
Tục ngữ có câu “ Cha nào con nấy ..”, đó là dấu ấn của tuổi thơ với hành vi
ứng xử của cha mẹ, nề nếp và gia phong của từng gia đình, đã tác động và ảnh
hưởng đến nhân cách của học sinh ở lứa tuổi này. Vì vậy tác động của người xung
quanh, nhất là những người thường xuyên gần gũi chúng rất là quan trọng.
Tuy nhiên, nhân cách của học sinh bậc THPT cũng chịu sự tác động rất lớn
của xã hội. Nếu như chúng bị lơi kéo bởi nhóm thanh niên hư hỏng khác, thì nhất
định nhân cách của chúng cũng bị ảnh hưởng. Nếu như chúng có mơi trường vui
chơi, giải trí lành mạnh, được tiếp cận với những thơng tin hữu ích thì chúng sẽ trở
thành người có nhân phẩm tốt.
2.1.Tình hình chung về cơng tác chủ nhiệm ở trường THPT:
Trong những năm gần đây công tác chủ nhiệm ở trường THPT đã được quan
tâm đúng mức. Phần lớn giáo viên chủ nhiệm đã thực sự nhiệt tình, yêu nghề mến
học sinh, bám lớp bám trường, quan tâm tìm hiểu học sinh và có những biện pháp
tích cực giúp tập thể lớp đi lên. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay sự phát triển
của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế thì khơng thể
tránh khỏi sự du nhập của các nền văn hóa khơng lành mạnh tác động đến tư
tưởng, tình cảm của thanh thiếu niên. Công tác quản lý, sự kết hợp giữa ba môi
trường giáo dục “nhà trường - gia đình và xã hội” đơi khi cịn chưa chặt chẽ, phụ
huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình. Một bộ

phận giáo viên chủ nhiệm chưa thực sự nhiệt tình, chưa có nhiều kinh nghiệm và
có biện pháp phù hợp trong việc quản lí, giáo dục học sinh nên cơng tác chủ nhiệm
17


chưa thu được hiệu quả như mong muốn… Qua thực tế làm công tác chủ nhiệm tôi
nhận thấy rằng nếu giáo viên chỉ đưa ra những quy định mang tính chủ quan, áp
đặt, chưa chủ động tìm hiểu, gần gũi học sinh. Giờ sinh hoạt lớp chỉ dừng lại ở việc
nhận xét, đánh giá chung về mọi hoạt động của tập thể lớp và phê bình, kiểm điểm,
xử phạt học sinh vi phạm nội quy, chúng ta chỉ giáo dục học sinh theo kiểu giáo
viên nói, học sinh nghe, giáo viên yêu cầu học sinh thưc hiện mà không nắm bắt
được nhu cầu, tâm tư, tình cảm của học sinh thì chắc chắn hiệu quả của cơng tác
giáo dục khơng cao. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hiện
tượng tiêu cực như: Học sinh thường đi học sớm la cà ở các quán, các tiệm chơi
Game, hiện tượng bỏ tiết trốn học ngày càng nhiều, tác phong không chuẩn mực.
Sống vô cảm với những người xung quanh, sống khơng có lí tưởng và hồi bão.
Coi cái tơi của mình là trên hết, nghiêm trọng hơn là một bộ phận không nhỏ học
sinh sa vào các tệ nạn xã hội thậm chí là vi phạm pháp luật.
- Bức tranh tồn cảnh về cơng tác chủ nhiệm ở trương phổ thơng nói chung,
trường THTP nói riêng cho thấy bên cạnh những đóng góp tích cực cho chất lượng
giáo dục cũng cịn những hạn chế. Đó là nhận thức của giáo viên về ý nghĩa, vai trị
của cơng tác chủ nhiệm cịn có nơi có lúc chưa khách quan, tồn diện. Một số giáo
viên được phân công làm chủ nhiệm cịn chưa tâm huyết với cơng việc, ngại khó
ngại khổ mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ chủ nhiệm lớp. Lại cũng có
những giáo viên mà năng lực điều hành, quản lý lớp chủ nhiệm còn hạn chế...
- Về công tác tổ chức, hướng dẫn, quản lý hoạt động phong trào ở lớp chủ
nhiệm nói riêng lại càng ít được các lực lượng giáo dục và cả bản thân giáo viên
chủ nhiệm chú trọng đầu tư công sức và thời gian xứng đáng với tầm quan trọng
của nó. Hoặc chưa có phương pháp hiệu quả, để phát huy các hoạt động này đạt kết
quả cao. Có những tập thể lớp chưa tìm được tiếng nói chung giữa giáo viên chủ

nhiệm với học sinh trong hoạt động phong trào. Ví dụ như lớp thì rất muốn hoạt
động phong trào thật sôi nổi rầm rộ nhưng giáo viên chủ nhiệm lại khơng muốn
học sinh của mình tích cực tham gia vì cho rằng chỉ tốn thời gian, lãng phí cơng
sức và tiền của mà chẳng giúp ích gì cho mục tiêu học tập để thi tốt nghiệp và vào
được các trường CĐ- ĐH, vốn là mục tiêu số một của bậc học THPT. (Thực ra
quan điểm này sai lầm vì như vậy học sinh khơng được cơ hội phát triển tồn diện
và gây ức chế tâm lí cho học sinh, tạo khoảng cách bất lợi cho mối quan hệ giữa
giáo viên chủ nhiệm và học sinh...); Lại có lớp khơng có khả năng giành thành tích
cao trong các hoạt động phong trào thi đua nhưng giáo viên chủ nhiệm lại áp đặt
học sinh phải tham gia và giành thành tích cao. (Quan điểm này cũng sai lầm và
hậu quả là làm cho học sinh bị áp lực tâm lý gây chán nản, khơng muốn tham gia
hoạt động, có tham gia thì cũng khơng xuất phát từ mong muốn của học sinh. Như
vậy sẽ khơng có kết quả giáo dục tốt).
2.2. Công tác chủ nhiệm ở trường THPT Quỳ Hợp 2: Là trường THPT
đóng trên địa bàn Xã Tam Hợp, huyện Quỳ Hợp tỉnh Nghệ An: trường có 36 lớp
chia làm 3 khối (mỗi khối 12 lớp) như vậy mỗi năm học có 36 giáo viên làm cơng
18


tác chủ nhiệm. Từ lâu công tác chủ nhiệm lớp đã được Chi bộ, BGH nhà trường,
Hội đồng trường, Hội phụ huynh và các giáo viên của trường hết sức quan tâm.
Trường không ngừng được đầu tư cơ sở vật chất cũng như tinh thần một cách tối
đa trong khả năng cho phép để nâng cao chất lượng dạy và học nói riêng, chất
lượng giáo dục tồn diện nói chung. Song về mảng công tác tổ chức, hướng dẫn,
quản lý hoạt động phong trào trong các tập thể lớp thì vẫn chưa thật sự đồng đều.
Chủ yếu mảng hoạt động này vẫn là hoạt động tự phát có tính năng khiếu sở
trường của từng lớp; hơn nữa cũng có khơng ít các thầy cô làm công tác chủ nhiệm
lớp cho rằng đi học chỉ cần ngoan ngoãn, học giỏi chứ hoạt động tập thể, hoạt động
phong trào chung không quan trọng lắm, chỉ cần có tham gia cho hồn thành
nhiệm vụ, chủ trương hướng học sinh đầu tư thời gian cơng sức cho việc học văn

hóa chun mơn. Học các môn thi tốt nghiệp và thi vào CĐ- ĐH... Nên mặc dù
trường THPT Quỳ Hợp 2 đã có nhiều thành tích đáng kể trong các hoạt động
phong trào, nhưng theo cá nhân tơi thì hồn tồn có thể nâng cao hơn nữa khả năng
và thành tích của học sinh trường THPT Quỳ Hợp 2 nếu các giáo viên chủ nhiệm
và nhà trường chú trọng hơn vào công tác tổ chức, hướng dẫn, quản lý hoạt động
phong trào trong các khối lớp.
- Thực tế công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT Quỳ Hợp 2 cũng cho thấy:
Học sinh chậm tiến không phải là phổ biến nhưng trường nào cũng chịu ảnh hưởng
bởi đối tượng học sinh này, ảnh hưởng tới phong trào chung của lớp, trường. Nhìn
chung nhiều biểu hiện, thái độ ngang ngược, thách thức, thường bỏ giờ trốn tiết
chơi game do những tác động từ:
+ Gia đình lo việc làm ăn, không dành thời gian lo cho con cái, khoán trắng sự
giáo dục cho nhà trường.
+ Ảnh hưởng phim ảnh khơng lành mạnh, vì tị mị, bị rủ rê từ những thanh
niên ham chơi, lêu lỏng trong thôn xóm.
+ Bị lơi cuốn bởi những phương tiện thơng tin đại chúng, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội.
+ Bản thân bố mẹ không làm gương cho con cái noi theo.
+ Gia đình khơng hịa thuận, bạn bè lơi kéo.
Tơi quyết định chọn ngay lớp 11C10 khóa học 2018-2019 (nay là lớp 12C10)
- lớp mà tôi được nhà trường giao làm công tác chủ nhiệm để ứng dụng một số
phương pháp mà mình tích lũy và viết thành đề tài sau khi đã trải nghiệm thành cơng.
2.3. Đặc điểm tình hình lớp 11C10:
Vào đầu năm học 2018 - 2019, tơi được phân công chủ nhiệm lớp 11C10
-trường THPT Qùy Hợp 2-Nghệ An ( thay thế cho GVCN cũ đi học hồn thiện).
Khi được giao làm GVCN lớp qua tìm hiểu, đánh giá, tơi nhận thấy có những
thuận lợi và khó khăn sau:
19



2.3.1.Thuận lợi: Trong q trình dạy học ln được sự chỉ đạo sâu sát, kịp
thời của lãnh đạo và bộ phận chuyên môn nhà trường. Những năm qua, Bộ Giáo
dục - Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh
tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, nhà trường
cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn luyện cho
học sinh một cách chung nhất cho các khối lớp học.
Trường đóng trên địa bàn dân cư đơng kinh tế văn hóa xã hội phát triển mạnh.
Nhà trường luôn được sự quan tâm của các cấp, đặc biệt là phụ huynh học sinh. Đa
số các em học sinh trong lớp có ý thức tốt trong học tập và rèn luyện. Bản thân tơi
đang được trực tiếp giảng dạy mơn văn vì vậy tơi có điều kiện áp dụng, trải nghiệm
và theo dõi thực tế hiệu quả của đề tài qua các đối tượng học sinh quen thuộc.
+ Về khách quan:
- Đa số HS trong lớp ngoan hiền, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức.
- Phần lớp HS trong lớp đều có ý thức xây dựng tập thể lớp vững mạnh.
- Giữa GVCN và chi hội phụ huynh lớp luôn phối hợp chặt chẽ, thống nhất
quan điểm trong công tác giáo dục học sinh.
- Ban Giám hiệu, các tổ chức trong nhà trường hết sức quan tâm đến công
tác chủ nhiệm lớp thông qua các việc: Tập huấn công tác chủ nhiệm hàng năm,
Cơng khai các tiêu chí, chỉ tiêu thi đua; thường xuyên theo dõi, động viên...
- Trong thời đại ngày nay có sự bùng nổ về cơng nghệ thông tin nên Sự liên
lạc giữa giáo viên CN – gia đình – nhà trường ngày càng được quan tâm, sự liên hệ
giữa GVCN và cha mẹ học sinh rất kịp thời.
+ Về phía chủ quan:
- Bản thân tơi đã có 15 năm cơng tác trong ngành và 14 năm làm cơng tác
chủ nhiệm lớp. Vì vậy tơi đã tích lũy được một số kinh nghiệm nhất định về công
tác chủ nhiệm lớp.
- Tơi ln có lịng u nghề, đam mê với cơng tác chủ nhiệm và ít nhiều được
BGH đánh giá là “giáo viên chủ nhiệm có uy, nằm trong số cơ động, khi cần là
thay thế”
2.3.2. Khó khăn:

Học sinh với nhiều đối tượng khác nhau, nhiều hoàn cảnh sống khác nhau,
chỗ ở rải rác ở các thơn xóm khơng tập trung. Một số gia đình khơng quan tâm đến
việc giáo dục con em mà hồn tồn phó mặc cho nhà trường. Bên cạnh đó nền kinh
tế thị trường và xã hội có quá nhiều biến động. Tất cả những vấn đề trên là khó
khăn cho việc giáo dục
- Vẫn cịn những học sinh chậm tiến chưa có ý thức tốt trong học tập và rèn
luyện đạo đức chủ yếu do tác động từ hồn cảnh gia đình (Phụ huynh còn chưa
quan tâm do bận làm kinh tế ….), mặt khác do xã hội phát triển, sự bùng nổ của
20


cơng nghệ thơng tin: máy tính, iPad, điện thoại thơng minh khá phổ biến. Việc truy
cập các trang mạng xã hội khá dễ dàng kèm theo đó là những ấn phẩm, văn hố
độc hại, các trị chơi điện tử trên mạng Internet…..thu hút rất đông số lượng học
sinh tham gia) do bạn bè rủ rê, đặc biệt là những học sinh đã bỏ học …
- Có nhiều học sinh sống ở địa bàn xa trường (có em đi về hàng ngày đến 20
km ) …. gặp khó khăn trong việc di chuyển, thường đi học muộn, một số học sinh
có hồn cảnh gia đình khơng thuận lợi: Bố mẹ ly dị sống với ông bà, người thân
… hoặc lo kiếm sống mà chưa quan tâm đến con cái.
- Trường đóng trên địa bàn xã đang phát triển, thu nhập một số hộ tăng đáng
kể, buôn bán phát triển làm cho một số thành phần dân cư giàu lên nhanh chóng
nên từ đó các em cũng dễ bị rơi vào lối sống thiên về vật chất, nên càng khó khăn
hơn trong việc giáo dục tư tưởng cho các em có lối sống hờn nhiên có lý tưởng.
Kinh tế giữa các gia đình cũng khơng đờng đều bên cạnh những gia đình khá giả,
cịn có rất nhiều em có hồn cảnh khó khăn (10/36 em thuộc diện hộ nghèo, cận
nghèo, Số học sinh dân tộc thiểu số 12 em); nhiều gia đình khơng có thời gian để
ý kèm cặp con em mình tốt nhất. Một số phụ huynh học sinh còn mang tư tưởng
"khoán trắng" cho nhà trường. Họ coi việc giáo dục học sinh là trách nhiệm của
nhà trường, của các thầy các cơ.
- Khi thi vào khối 10 có 12 lớp trong đó lớp 10C10 có: điểm thi đầu vào bình

qn 10,5 điểm so với tồn khối rất thấp vì thế chất lượng học tập vô cùng hạn chế,
xếp loại thi đua hàng tháng luôn ở tốp cuối.
- Là giáo viên chủ nhiệm nhận lớp “giữa chừng”, sang lớp 11 do giáo viên đi
học tôi được giao thay thế nên cũng có những điều bất lợi: Việc nắm bắt tâm sinh
lí, suy nghĩ của học sinh giai đoạn đầu cũng rất vất vả. Hơn nữa học sinh đã quen
với phương pháp và cách làm việc của GVCN cũ.
Từ những thuận lợi, khó khăn trên, bản thân xác định rằng để xây dựng lớp
trở thành một tập thể mạnh, một khối đồn kết thống nhất, phải bắt đầu từ tình
thương u đối với học sinh; “Muốn giáo dục con người thì phải hiểu con người
về mọi mặt” – đúng như nhà giáo dục K.Đ.Usinxki đã nói. Vậy người giáo viên
chủ nhiệm muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục của lớp mình thì phải
có những giải pháp để giáo dục học sinh chậm tiến.
3. Nội dung giáo dục học sinh chậm tiến.
3.1. Phân loại học sinh chậm tiến:
a. Phương pháp phân loại:
- Nghiên cứu hồn cảnh gia đình, hồn cảnh sống của học sinh chậm tiến
(60% học sinh chưa ngoan, chậm tiến là do ảnh hưởng từ gia đình).
- Nghiên cứu hồ sơ học sinh, vào đầu năm học chúng tôi tiến hành phát cho
mỗi học sinh 01 tờ hờ sơ học sinh. Trong đó, học sinh sẽ khai đầy đủ các thông tin
21


lý lịch về bản thân, sở thích, ước mơ, nguyện vọng … Qua hồ sơ này, chúng tôi dễ
dàng nắm bắt được những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
- Nghiên cứu qua học bạ về kết quả học tập rèn luyện của học sinh qua những
năm học trước đó.
- Nghiên cứu qua những nhận xét, đánh giá của bạn bè đặc biệt là người thân
của các em qua cha mẹ học sinh, qua chính quyền địa phương, qua các tổ chức
đoàn, đội …
- Nghiên cứu hoạt động giao tiếp giữa giáo viên với học sinh. Quá trình quan

sát, tiếp xúc của giáo viên và học sinh sẽ giúp cho giáo viên có thêm những hiểu
biết về tâm lý, tính cách, nhận thức của học sinh.
- Đối với những giáo viên dạy mơn Ngữ văn có thể phân loại được học sinh
bằng chính những đề văn kiểm tra trên lớp. Giáo viên có thể ra một số đề bài như;
Em hãy tâm sự với thầy? Em hãy viết bài văn tự sự kể về bản thân mình?... Qua
những đề văn này, học sinh chậm tiến có cơ hội để tâm sự, chia sẻ với thầy cô rất
nhiều. Giáo viên khơng chỉ hiểu được học sinh mà cịn tạo được tình cảm, sự tin
cậy của học sinh đối với mình.
b. Kết quả phân loại:
- Nhóm 1: Chậm tiến là do vi phạm nội quy của Nhà trường, của lớp, mất trật
tự trong giờ học, lười học bài, đi học muộn …
- Nhóm 2: Chậm tiến là do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học, lừa dối bố mẹ, thầy cơ.
- Nhóm 3: Chậm tiến là do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với
thầy cô giáo, cha mẹ, hay nói tục chửi bậy.
- Nhóm 4: Chậm tiến là do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp, chấn lột, cờ bạc …
- Nhóm 5: Chậm tiến là do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè,
hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ (nhóm học sinh chậm tiến này đang
có xu hướng gia tăng trong xã hội hiện nay).
c. Nguyên nhân dẫn đến hành vi của học sinh chậm tiến:
- Trong gia đình: Bố mẹ sống khơng hạnh phúc, sống ly thân, ly hơn (có rất
nhiều học sinh chậm tiến đều có hồn cảnh này). Có gia đình phương pháp dạy con
khơng đúng hoặc quá chủ quan, tin con mình đã ngoan, đã tốt …
- Học sinh bị bạn bè lôi kéo, mải chơi sớm có những mối quan hệ tình u
khơng lành mạnh thích đua địi, ăn diện.
- Tư chất của học sinh chậm trong nhận thức, hổng kiến thức từ lớp dưới nên
chán học, thường hay nghịch phá, mất trật tự.
- Sức ép trong thi cử, sức ép của gia đình nhà trường và xã hội đã khiến cho
học sinh căng thẳng rơi vào lối sống trầm cảm, tự ti về bản thân mình.

22



3.2. Các giải pháp cụ thể giáo dục học sinh chậm tiến:
GVCN có ‘quyền lực” trong tay nhưng khơng phải vì thế mà lúc nào cũng lạm
dụng nó, phải biết khi nào cứng rắn và khi nào mềm dẻo để xử lí các tình huống.
Vì thế ngồi năng lực chun mơn. GVCN cịn là một nhà tâm lí giỏi, hiểu thấu
đáo những tâm tư suy nghĩ của học sinh. Nhiều lúc chủ nhiệm phải đặt mình vào
thế của HS để hiểu được hành vi và thái độ của các em với cương vị là người trong
cuộc.
- Giáo dục một con người là q trình khơng có điểm cuối cùng. Đó là công việc
kéo dài cả đời người chứ không phải là chuyện của ngày một, ngày hai. Vì thế
người giáo viên chủ nhiệm khơng bao giờ được chủ quan, nóng vội, một câu nói vơ
tình, một trách phạt nơn nóng, một hành xử thiếu cân nhắc đôi khi gây tổn thương
và biết đâu đó các em sẽ mang theo vết thương kia thành một ám ảnh không
nguôi... Trước mọi sai lầm, vi phạm của học sinh giáo viên chủ nhiệm cần hết sức
bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét, xử lí và giải quyết vấn đề.
- Với một học sinh chậm tiến. Chúng ta không nên ảo tưởng là các em sẽ tiến bộ
ngay sau vài lần nhắc nhở hay xử phạt của giáo viên chủ nhiệm. Có khi các em vẫn
tiếp tục vi phạm với mức độ liên tục hơn, như một cách thách thức, một cách
khẳng định mình với bạn bè, với thầy cơ, với mọi người. Chính ở những khoảnh
khắc này, người giáo viên chủ nhiệm cần thể hiện rỏ bản lĩnh và năng lực sư phạm.
Trong đó có cả năng lực "chịu đựng" của mình. Chịu đựng những vi phạm cố tình,
những thách thức nông nổi và chịu đựng cả những bực bội, tức giận đang phải dồn
nén trong người. Cần tạo đựơc ở các em, trước hết là sự tôn trọng và sau đó là sự
gần gũi, cảm thơng. Chính vì vậy muốn làm tốt cơng tác chủ nhiêm, cảm hóa được
học sinh chậm tiến thì GVCN phải xây dựng cho mình các giải pháp. Giáo dục
được các đối tượng học sinh này tốt sẽ là động lực để xây dựng tập thể lớp vững
mạnh.Bản thân tôi thường được nhà trường giao cho chủ nhiệm những lớp có học
sinh chậm tiến. Sau nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm, tơi đã tìm ra các giải
pháp và vận dụng linh hoạt tùy đối tượng học sinh, cũng mang lại hiểu quá khá

tốt.Lớp tôi luôn đạt lớp xuất sắc; sau đây tôi xin được chia sẻ các giải pháp như
sau:
Giải pháp 1: GV CN dành tình u thương đối với học sinh chậm tiến:
Cơng tác chủ nhiệm lớp, đặc biệt là công tác giáo dục học sinh chậm tiến và
cảm hóa học sinh quả thật là một cơng việc khó khăn và phức tạp. Người giáo viên
phải vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi,
trọng tài phân minh. GVCN phải có một tâm hờn trong sáng, một tấm lịng tận tụy,
một tình cảm nhân hậu, vị tha, một đức tính kiên nhẫn, bình tĩnh và có một trí tuệ
minh mẫn. Thành công của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục học sinh chậm
tiến và cảm hoá được học sinh là làm cho học sinh tơn trọng, kính yêu, tin tưởng;
là xây dựng được một tập thể lớp đồn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều đó, mọi
hành động của giáo viên chủ nhiệm phải xuất phát từ tình thương yêu học sinh,
phải giáo dục học sinh bằng tình cảm và sự cảm hóa.

23


- Trước hết, về phía bản thân người giáo viên chủ nhiệm. Giáo dục học sinh
chậm tiến, người giáo viên chủ nhiệm lớp cần giành cho các em một tình yêu
thương thực sự, thậm chí là cần nhiều hơn những họ sinh bình thường khác, cần
kiên trì cố gắng động viên, giảng giải, phân tích những điều hay, lẽ phải để giúp
học sinh hiểu được phải làm gì và từ đó cố gắng vươn lên; tận tình sự giúp đỡ học
sinh đó trong học tập và rèn luyện; Sẻ chia với các em, cố gắng trở thành người
bạn để học sinh đó tâm sự; người anh, người chị, người cha, người mẹ thứ hai mẫu
mực để học sinh đó noi theo. Giáo viên chủ nhiệm lớp nên thường xuyên có những
buổi nói chuyện với các em kể cả gặp trực tiếp hay qua điện thoại, gửi Email,... để
hiểu các em hơn và cũng là để phân tích cho các em sâu hơn thế nào là một học
sinh ngoan, thế nào là một học sinh tốt,...
Cơ Cao Thị Bích Thảo-GVCN ân cần hướng dẫn, chỉ bảo và hòa đồng cùng HS


24


Giải pháp 2:. GVCN duy trì nề nếp, kỉ cương:
Một giải pháp rất quan trọng nữa đó là Giáo viên chủ nhiệm lớp cần duy trì
thật tốt nề nếp kỷ cương của lớp, của trường để mọi học sinh tự nhận thức, tự khép
mình trong những nội quy, quy chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc,
trao đổi, thỏa sức đóng góp. Nội quy, quy chế nhà trường, lớp học là cẩm nang, là
xương sống để GVCN duy trì lớp mình theo quy định. Đờng thời khi các em chấp
hành tốt, hoặc từng bước có chuyển biến thì GVCN cũng cần khéo léo động viên
các em trước tập thể lớp để các em có động lực phấn đấu vươn lên. Đặc biệt việc
duy trì nề nếp này giúp học sinh chậm tiến phải đi vào khuôn khổ, chấp hành nội
quy của trường lớp đề ra. “Rèn các em sống có kỉ cương, trách nhiệm”.

Hình ảnh: Bí thư chi đồn, lớp trưởng duy trì sinh hoạt
Giải pháp 3: GVCN lớp cần phát huy sự hỗ trợ của thệ thống giáo dục và
phụ huynh học sinh.
- GVCN thường xuyên báo cáo với BGH nhà trường: Về tình hình học
sinh chậm tiến để trường nắm được từ đó đưa ra hướng chỉ đạo và các phương
pháp giáo dục hợp lí.
25


×