Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Sử dụng GAĐT trong dạy và học môn ngữ văn ở trường trung học phổ thông hoằng hoá IV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.87 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA IV

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“SỬ DỤNG GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ TRONG DẠY VÀ HỌC MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG HOẰNG HỐ IV”

Người thực hiện: Đặng Thị Hà
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HÓA, NĂM 2021


MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................... 2
DANH MỤC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT.................................................................3
DANH MỤC HÌNH ẢNH............................................................................................3
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................4
Phần II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ................................................................................6

I. CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ.................................................................................6
1. Cơ sở pháp lý.....................................................................6
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng GAĐT trong
giáo dục.................................................................................8
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG DẠY, HỌC MƠN
NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HỐ IV....................................11
1. Hiện trạng dạy và học môn Ngữ văn trong trường THPT
Hoằng Hoá IV......................................................................11
2. Nguyên nhân...................................................................12
III. ỨNG DỤNG GAĐT TRONG GIẢNG DẠY MÔN NGỮ VĂN Ở


TRƯỜNG THPT...........................................................................................14
1. Phân biệt GAĐT và BGĐT................................................14
2. Xây dựng GAĐT...............................................................15
3. Sử dụng GAĐT trong dạy học, thuận lợi và khó khăn.....20
IV. KẾT QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG GAĐT TRONG GIẢNG DẠY
MÔN VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA IV....................................22
1. Kết quả trong học tập, kiểm tra, đánh giá học tập môn
Ngữ văn...............................................................................22
2. Kết quả trong phát triển các kỹ năng mềm của HS........24
Phần III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................25

1. Kết luận...........................................................................25
2. Kiến nghị.........................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................27

2


DANH MỤC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt
BCH
BGDĐT
BGĐT
BGH
CHXHCN
CNTT
GV

Viết đầy đủ

Ban Chấp hành
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bài giảng điện tử
Ban giám hiệu
Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa
Cơng nghệ thơng tin
Giáo viên

Viết tắt
HS
NQ

THCS
THPT
TT
TW

Viết đầy đủ
Học sinh
Nghị quyết
Quyết định
Trung học cơ sở
Trung học phổ thơng
Thơng tư
Trung ương

DANH MỤC HÌNH ẢNH
TT

Tên hình ảnh


Trang

1
2
3
4
5

Hình 01. Minh họa về BGĐT
Hình 02. Minh họa về GAĐT
Hình 03. Minh họa về slide trình chiếu của BGĐT
Hình 04. Minh họa về cơng cụ tìm kiếm
Hình 05. Sử dụng GAĐT trong dạy học

3

15
16
17
18
20


Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
với những tiến bộ vượt bậc trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong cơng nghệ tin học,
điện tử, viễn thơng thì việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong cuộc sống,
học tập, sản xuất, kinh doanh ngày càng trở nên phổ biến và đi vào chiều sâu,
nhất là trong bối cảnh dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường thì

việc ứng dụng cơng nghệ đa phương tiện trong mọi hoạt động của đời sống xã
hội đang dần trở thành một nhu cầu tất yếu mang tính sống cịn của mỗi cộng
đồng, mỗi nghành nghề và mỗi quốc gia.
Với vai trò “… là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” (theo Khoản 1, Điều 61, Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 2013), ngành Giáo dục và Đào tạo cần phải tiên phong
trong việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện vào công tác dạy và học ở mọi
cấp học, đặc biệt đối với cấp học Trung học phổ thông. Với vị trí là cấp học cuối
cùng trong hệ thống giáo dục phổ thông, cấp Trung học phổ thông là cấp học
mang tính chuyển tiếp từ giáo dục phổ thơng sang giáo dục chuyên nghiệp, là
cấp học đặt những “viên gạch đầu tiên” cho việc tiếp cận với nhiều phát kiến,
sáng kiến khoa học, phương pháp nghiên cứu, tìm tịi khác nhau trong tương lai
của các thế hệ HS; do đó, cấp Trung học phổ thông là một cấp học cực kỳ quan
trọng, có sự ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, ước mơ, khát vọng tìm tịi, tính
năng động và sự tích cực trong học tập, nghiên cứu, ứng dụng vào cuộc sống của
HS trong tương lai. Trong cấp học này, nếu HS được tiếp cận càng nhiều với các
phương pháp dạy và học tính cực, khoa học, sử dụng nhiều cơng nghệ, nhiều
phương tiện trong dạy và học thì trong tương lai HS sẽ trở thành những người
năng động, tích cực, lạc quan, ham học hỏi, nhiều khát vọng và ngược lại. Chính
vì vậy, việc ứng dụng cơng nghệ và đa phương tiện trong dạy và học ở cấp học
này có vai trị hết sức quan trọng mà việc sử dụng GAĐT là một trong những
ứng dụng thiết thực, hiệu quả, tạo được nhiều hiệu ứng tích cực giúp cho HS có
nhiều hứng thú trong học tập, tìm tịi, nghiên cứu và ứng dụng trong cuộc sống,
sinh hoạt hằng ngày.
Ngữ văn là mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội là một môn học rất quan
trọng giúp cho con người hình thành vốn từ, phát triển tư duy, bồi dưỡng tâm
hồn, hoàn thiện nhân cách và thúc đẩy phát triển sự nghiệp của mỗi con người.
4



Ngữ văn chiếm thời lượng lớn trong chương trình dạy và học của chương trình
giáo dục cấp Trung học phổ thông. Thông qua việc dạy và học môn Ngữ văn,
tâm hồn của cả thầy và trò đều được thanh lọc và ngày càng giàu có hơn, ấm áp
và nhân văn hơn. Vì vậy nó có tầm quan trọng khơng thể thay thế trong việc
giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho các thế hệ thầy và trị nói riêng và
cho cả xã hội nói chung. Tuy nhiên, hiện nay việc học môn Ngữ văn của HS
trong trường THPT chưa đạt được kết quả như mong muốn. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tồn tại này, song một trong những nguyên nhân quan trọng hàng
đầu là giáo án, bài giảng thiếu sức hấp dẫn, chưa tạo được sự chủ động cho HS
trong việc tìm tịi, nghiên cứu, cảm nhận văn học. Sự thiếu hấp dẫn của bài học
cũng có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ đạo vẫn là sự truyền đạt
mang tính một chiều, đơn điệu do giáo án được thiết kế theo kiểu truyền thống,
cứng nhắc, thiếu linh hoạt, khó sử dụng các phương tiện, cơng nghệ hiện đại,
thiếu tính kích thích sự sáng tạo, sự háo hức và sự năng động của HS.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là phải thay đổi các vấn đề liên quan đến công
tác giảng dạy môn Ngữ văn trong các trường THPT mà một trong số thay đổi
cần thiết nhất, đầu tiên nhất là thay đổi giáo án nói chung cũng như bài giảng
trong mỗi giáo án nói riêng. Việc thay đổi giáo án chỉ thành công khi thỏa mãn
được các u cầu về tính linh hoạt, có khả năng sử dụng đa phương tiện trong
giảng dạy, tạo được những bất ngờ thú vị trong quá trình dạy và học; tạo điều
kiện cho HS chủ động và tích cực trong suy nghĩ, cảm nhận văn học và tham gia
xây dựng bài; giúp HS nắm được những vấn đề cốt lõi về tư tưởng chủ đạo,
nghệ thuật và nội dung của tác phẩm ngay trên lớp. Đồng thời, phải bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho HS, giúp cho HS tự chiếm lĩnh kiến thức. Để đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu trên và giúp việc dạy và học môn Ngữ văn đạt được mục đích thì việc sử
dụng GAĐT là một trong những giải pháp có hiệu quả tích cực.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi đã nghiên cứu và ứng dụng sáng kiến
kinh nghiệm: “Sử dụng GAĐT trong dạy và học mơn Ngữ văn ở trường Trung

học phổ thơng Hoằng Hố IV”.

5


Phần II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ

1. Cơ sở pháp lý
- Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH Trung ương Đảng
Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
- Khoản 1, Điều 7, Luật Giáo dục năm 2019, quy định: “Nội dung giáo
dục phải bảo đảm tính cơ bản, tồn diện, thiết thực, hiện đại, có hệ thống và
được cập nhật thường xuyên; coi trọng giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức
và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về thể
chất, trí tuệ, tâm sinh lý lứa tuổi và khả năng của người học”;
- Khoản 1 và Khoản 2, Điều 8, Luật Giáo dục năm 2019, quy định: “1.
Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ
năng, yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của người học; phạm vi và cấu
trúc nội dung giáo dục; phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục;
cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp học, mỗi
cấp học hoặc các môn học, mơ-đun, ngành học đối với từng trình độ đào tạo.
2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế
thừa, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân
luồng, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo
dục trong hệ thống giáo dục quốc dân để địa phương và cơ sở giáo dục chủ
động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp ứng mục tiêu bình đẳng giới,

yêu cầu hội nhập quốc tế. Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất lượng
giáo dục toàn diện”;
- Khoản 1 và Khoản 4, Điều 29, Luật Giáo dục năm 2019, quy định về
mục tiêu của giáo dục phổ thơng nói chung và mục tiêu giáo dục của cấp THPT
là: “1. Giáo dục phổ thông nhằm phát triển toàn diện cho người học về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính
năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
6


nghĩa và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương
trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm trang bị kiến thức công dân; bảo
đảm cho HS củng cố, phát triển kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hồn
thiện học vấn phổ thơng và có hiểu biết thơng thường về kỹ thuật, hướng
nghiệp; có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển,
tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia
lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”;
Điểm c, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 30, Luật Giáo dục năm 2019 quy định
về nội dung, phương pháp phương pháp giáo dục phổ thông và cấp học THPT
nêu: “c) Giáo dục trung học phổ thông củng cố, phát triển nội dung đã học ở
trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; bảo đảm chuẩn kiến
thức phổ thông cơ bản, tồn diện và hướng nghiệp cho HS, có nội dung nâng
cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của HS.
3. Phương pháp giáo dục phổ thơng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của HS phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc
điểm đối tượng HS; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng
hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực
của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thơng vào

q trình giáo dục”;
Khoản 3 và Khoản 4, Điều 21, Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT ngày
15/9/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở,
trung học phổ thơng và trường phổ thơng có nhiều cấp học quy định hệ thống hồ
cơ quản lý hoạt động giáo dục quy định: “3. Đối với GV:
a) Kế hoạch giáo dục của GV (theo năm học).
b) Kế hoạch bài dạy (giáo án).
c) Sổ theo dõi và đánh giá HS.
d) Sổ chủ nhiệm (đối với GV làm công tác chủ nhiệm lớp).
4. Hồ sơ quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này dạng hồ sơ
điện tử được sử dụng thay cho các loại hồ sơ giấy theo lộ trình phù hợp với
điều kiện của địa phương, nhà trường, khả năng thực hiện của GV và bảo đảm
7


tính hợp pháp của các loại hồ sơ điện tử. Việc quản lý hồ sơ điện tử do Sở
Giáo dục và Đào tạo quy định theo chuẩn kết nối, chuẩn dữ liệu của Bộ Giáo
dục và Đào tạo”;
Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành qui định chuẩn nghề nghiệp GV cơ sở giáo dục phổ thơng có
05 tiêu chuẩn với 15 tiêu chí đã nêu rõ các phẩm chất và năng lực cần có của
GV cơ sở giáo dục phổ thơng. Trong đó, Tiêu chuẩn 2. Phát triển chuyên môn,
nghiệp vụ được quy định tại Điểu 5 với Tiêu chí 4 “Xây dựng kế hoạch dạy
học và giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS ” và Tiêu chuẩn
5. Sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc, ứng dụng công nghệ thông tin, khai
thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục với Tiêu chí 15
“Ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong
dạy học, giáo dục”;
Tiểu mục 2.6. của Kế hoạch thực hiện mục tiêu phát triển bền vững lĩnh
vực giáo dục và đào tạo đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 ban hành

kèm theo Quyết định 2161/QĐ-BGDĐT ngày 26/6/2017 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo nêu rõ: “Tăng cường các nội dung giáo dục có tính thực tiễn, sử dụng
phương pháp dạy học tích cực, học qua trải nghiệm/nghiên cứu, học qua các dự
án/tình huống và phương pháp tiếp cận trường học toàn diện”.
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng GAĐT trong giáo dục
2.1. Một số khái niệm GAĐT
Theo Từ điển Giáo dục học (Bùi Hiển, NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội,
2001, Tr.104), giáo án là dàn ý, kế hoạch bài giảng của GV cần phải soạn ra để
tiến hành dạy học cho 1, 2 tiết học trên lớp. Nội dung của giáo án đạt tiêu chuẩn
gồm: Đề tài của giờ lên lớp, mục đích giáo dục, nội dung, phương pháp, thiết bị,
những hoạt động cụ thể của thầy và trò, khâu kiểm tra đánh giá... Tất cả được
thiết kế gắn gọn theo trình tự, diễn biến của học, tiết học.
Theo tài liệu "Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS - môn Tin
học" do Vụ Giáo dục Trung học - Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2007
(trang 95) thì "GAĐT có thể hiểu là giáo án truyền thống của GV nhưng được
đưa vào máy vi tính - giáo án truyền thống nhưng được lưu trữ, thể hiện ở dạng
điện tử. Khi giáo án truyền thống được đưa vào máy tính thì những ưu điểm, thế
mạnh của CNTT sẽ phát huy trong việc trình bày nội dung cũng như hình thức
8


của giáo án. Như vậy, GAĐT khơng bao hàm có ứng dụng hay không việc ứng
dụng CNTT trong tiết học mà giáo án đó thể hiện".
Theo phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Công Triêm (Trường Đại học Sư phạm
Huế), GAĐT là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của GV
trên giờ lên lớp, toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được đa phương tiện hố một
cách chi tiết, có cấu trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc của bài
học. GAĐT là một sản phẩm của hoạt động thiết kế bài giảng được thể hiện
bằng vật chất trước khi bài giảng được tiến hành.
2.2. Cơ sở lí luận

Từ các khái niệm trên, có thể thấy GAĐT chính là giáo án truyền thống
của GV được soạn trên máy tính bằng cách sử dụng các phần mềm ứng dụng, có
nội dung đa dạng về ngơn ngữ, chữ viết, âm thanh, hình ảnh sống động để tạo
nên một bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của của người
dạy học trong giờ lên lớp.
GAĐT là một tập hợp các bài giảng điện tử được người dạy thiết kế để
truyền đạt kiến thức cho người học bằng cách giao tiếp trực tiếp với thiết bị
dạy học và hoạt động dựa trên một quy trình đã được người dạy lập trình trước.
Qua đó người học có thể rút ra kiến thức cho bản thân mình trên cơ sở phát huy
tính sáng tạo, khả năng tiếp thu của bản thân dưới sự trợ giúp, gợi ý, thúc đẩy,
hướng dẫn của người dạy. Một GAĐT đạt yêu cầu phải đảm bảo một số yếu
cầu như: sức hấp dẫn của từng bài giảng, lượng kiến thức truyền tải phù hợp,
kiến thức được mở rộng, phát huy được sự năng động, tích cực và tính sáng tạo
của người học.
Khi sử dụng GAĐT để giảng dạy, GV sẽ trình bày các bài giảng trên máy,
thơng thường GV sẽ sử dụng phần mềm Powerpoint để trình chiếu các slide về
nội dung bài giảng cũng như nội dung kiểm tra, đánh giá. Các slide thường được
trình bày hết sức gợi mở nhưng cô đọng, ngắn gọn và kèm theo nhiều âm thanh,
hình ảnh sinh động giúp cho giờ học trở nên sống động, tạo khơng khí thoải mái
và kích thích sự sáng tạo, sự ham muốn tìm tòi, khám phá của mỗi HS. Điều
ngày đồng nghĩa với việc người dạy phải có kiến thức nhất định về công nghệ
tin học, phải sử dụng thành thạo một số kỹ năng tin học văn phịng và sử dụng
có hiệu quả các thiết bị dạy học đa phương tiện. Bên cạnh đó, người dạy cịn
phải sử dụng thành thạo phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm
9


trung tâm và có vốn kiến thức sâu rộng về mơn học nói chung và bài giảng nói
riêng. Ngồi ra, người dạy cũng phải luôn mang một tâm thế cởi mở, sẵn sàng
tiếp thu cái mới từ phía HS, chấp nhận những ý kiến trái chiều, những suy nghĩ,

cảm nhận độc đáo, khác biệt và sẵn sàng lắng nghe, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng
của mỗi HS.
2.3. Cơ sở thực tiễn
Với ưu điểm linh hoạt trong thiết kế, sắp xếp nội dung, phương pháp, thay
đổi cách trình bày, bổ sung hoặc loại bỏ các hình ảnh, đoạn video, kiểu chữ,
cơng thức tốn học, đồ họa, hiệu ứng âm thanh, hình thức xuất hiện của các nội
dung trong cùng một slide, một bài giảng và cả giáo án; việc xây dựng và sử
dụng GAĐT trong dạy và học có thể áp dụng cho tất cả các môn học trong nhà
trường ở mọi cấp học và ứng dụng rất hiệu quả trong việc hoạch định, xây dựng
kế hoạch, đề tài, đề án, trình bày kết quả các cơng trình nghiên cứu khoa học của
HS, sinh viên, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà sáng chế...
Là một mơn học mang tính nghệ thuật cao, có khả năng ứng dụng trong
mọi lĩnh vực, mọi tình huống trong cuộc sống, Ngữ văn giúp HS hình thành vốn
từ vựng, vốn câu, vốn ngơn ngữ để giao tiếp, học tập tất cả các môn học và hoạt
động giáo dục khác trong nhà trường cũng như trong cuộc sống hàng ngày ở cả
hiện tại và tương lai; đồng thời, Ngữ văn cịn là mơn học có vai trị hàng đầu
trong việc hình thành nhân cách, khiếu thẩm mỹ, sự cảm nhận cuộc sống, cảnh
quan xung quanh, hướng con người đến các giá trị văn hóa cao đẹp, sống có đạo
đức, phát triển một tâm hồn hướng thiện, sống có đạo đức, nhân văn, biết tự hào
về truyền thống của gia đình, q hương, đất nước từ đó khơi dậy khát khao
vươn lên để làm dạng danh dòn tộc, quê hương, đất nước, …Do đó, việc dạy và
học tốt môn Ngữ văn trong nhà trường, nhất là môn Ngữ văn ở cấp THPT, cấp
học có tính định hướng nghề nghiệp, phân luồng HS cao, chuẩn bị cho các em
bước vào đời với vị thế của một người trưởng thành có vai trị hết sức quan
trọng đối với cuộc sống và sự thành công của mỗi cá nhân.
Việc sử dụng GAĐT trong dạy và học mơn Ngữ văn địi hỏi GV phải thay
đổi một cách đồng bộ, toàn diện cả về hình thức, nội dung, phương pháp trình
bày và tâm thế trong mỗi giờ lên lớp. Với việc sử dụng các hình ảnh, sơ đồ, dàn
ý, âm thanh, … mang tính gợi mở, ngắn gọn, dễ hiểu, có khả năng mở rộng sự
tưởng tượng, cảm nhận và phân tích của HS sẽ giúp người dạy, người học xử lý


10


tốt các tác phẩm văn học cũng như các hình thức nghệ thuật sử dụng trong tác
phẩm, hình tượng văn học, thậm trí cả các vấn đề liên quan đến môn học Tiếng
Việt. GAĐT, sử dụng đa phương tiện và phương pháp dạy học tích cực giúp cho
các bài văn trở nên khoa học, mạch lạc, dễ nhớ, dễ thuộc nhưng cũng rất lãng
mạn (do gắn với hình ảnh, âm thanh phù hợp với từng tác phẩm), làm cho tác
phẩm trở nên đẹp hơn, tươi mới hơn, giàu hình tượng hơn, qua đó làm cho HS
ngày càng hứng thú hơn, yêu hơn môn Ngữ văn và thôi thúc HS ngày càng
mong muốn được tự chiếm lĩnh kiến thức cho bản thân, hệ thống hóa kiến thức
mơn học, biến các kiến thức học được thành kiến thức của bản thân, từ đó vận
dụng cho việc giải quyết tốt nhiệm vụ học tập và các tình huống trong cuộc
sống... Bên cạnh đó, sử dụng phương pháp GAĐT còn giúp HS rèn luyện, phát
huy tính tự giác trong học tập và rèn luyện, tính sáng tạo trong tiếp cận vấn để,
phát triển tư duy và cách làm việc khoa học, bài bản, có trình tự, có tính logic;
thúc đẩy ham muốn tự học, tự khám phá và tự hoàn thiện những nhiệm vụ được
giao trong học tập và trong cuộc sống.
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG DẠY, HỌC MÔN NGỮ
VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HỐ IV

1. Hiện trạng dạy và học mơn Ngữ văn trong trường THPT Hoằng
Hoá IV
Những năm gần đây, là khi đất nước ngày càng phát triển theo hướng
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì ngày càng có nhiều bậc cha mẹ và bản thân HS coi
nhẹ các môn xã hội, trong đó có mơn Ngữ văn và hướng tới các môn như: Ngoại
ngữ, Tin học, Y, Dược và các môn khoa học tự nhiên nhằm bảo đảm cho một sự
an tồn về cơng việc và thu nhập tương lai. Thực trạng này tồn tại ở nhiều địa
phương, nhiều cơ sở giáo dục và trường THPT Hoằng Hoá IV cũng không phải

là một ngoại lệ.
Kết quả khảo sát tại một số trường trên địa bàn huyện Hoằng Hóa cho thấy
tình trạng ngày càng nhiều HS khơng thích học mơn Ngữ văn, tỷ lệ HS thi vào
các trường khối C, trường có thi mơn Văn càng ngày càng ít, nhiều HS chọn thi
khối C là do khơng cịn lựa chọn khác chứ khơng phải vì u thích do đó chất
lượng đầu vào và đầu ra đều không cao, dẫn đến khả năng tìm kiếm việc làm và
tạo lập vị trí trong xã hội ngày càng khó khăn, cuối cùng dẫn đến hệ lụy là việc
học mơn Ngữ văn nói riêng và các mơn xã hội nói chung ngày càng kém sự hấp
dẫn, thu hút được ít người học và chất lượng có chiều hướng ngày càng giảm sút.
11


Kết quả kiểm tra các các bài thi, kỳ thi mơn Ngữ văn của HS trường
Hoằng Hóa IV đã chỉ ra một hiện tượng đang dần trở nên phổ biến, đó là: ngày
càng có nhiều HS, bài kiểm tra mắc các lỗi sơ đẳng như không viết hoa tên
riêng, bài văn từ đầu đến cuối khơng có dấu chấm câu, hoặc có chăng cũng là
dùng dấu câu tùy tiện khơng theo quy luật nào, không phù hợp với cách diễn
đạt; không biết cách thành lập đoạn văn; câu văn què, cụt, ngô nghê, sai cấu trúc
ngữ pháp, sai logic diễn đạt, diễn đạt sai, nhiều câu văn của HS khi đọc lên
người đọc không hiểu nổi là HS muốn viết gì; cảm nhận văn học một cách méo
mó, sai với chủ đề và mong muốn của tác giả; xuyên tạc chủ đề, bóp méo hình
tượng văn học; phân tích nhảm nhí, phản nhân văn; khơng biết rung động trước
những tác phẩm văn học, ngay cả đối với những tác phẩm kinh điển. Trong giờ
lên lớp, có nhiều HS học theo kiểu đối phó; khơng chú ý lắng nghe, khơng có
tinh thần xây dựng bài. Do vậy, khi làm các bài kiểm tra, bài thi, có nhiều HS đã
suy luận chủ quan theo cách hiểu của bản thân; phân tích qua loa, cẩu thả, dung
tục hóa nghệ thuật hoặc sai kiến thức cơ bản dẫn đến tình trạng “Râu ơng nọ
cắm cằm bà kia”;….
2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các tồn tại trên nhưng chủ yếu là các

nguyên nhân sau:
2.1. Nguyên nhân từ môn học
Ngữ Văn là một môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, có tính lý thuyết khá
cao, gắn bó mật thiết với tâm trạng GV và HS trong từng buổi học, chịu tác
động của môi trường xung quanh, khơng khí và cách bài trí lớp học. Đây là một
mơn học có tính trừu tượng cao nên HS sau khi học xong vẫn cịn rất mơng lung,
mơ hồ và kết quả tiếp thu phụ thuộc rất nhiều vào cảm xúc cá nhân. Các bài tập
phân tích về nội dung, nghệ thuật, hình tượng văn học hoặc đánh giá tác phẩm,
vận dụng tác phẩm vào cuộc sống thường nhật hoặc vào hồn cảnh cụ thể
thường rất khó, dài và dựa trên các cấp độ: biết, hiểu, vận dụng với mức độ từ
thấp lên cao; do đó, để thực hiện được sẽ tốn rất nhiều thời gian, phải suy nghĩ
nhiều, đào sâu tìm hiểu và đặc biệt là phụ thuộc vào sự tự cảm nhận. Tuy nhiên,
không phải HS nào cũng có khả năng cảm thụ văn học tốt nên có nhiều HS chép
bài mà khơng hiểu bản thân đang chép gì, đọc tác phẩm mà khơng hiểu nội
dung, diễn biến và nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng trong tác phẩm như thế nào.

12


2.2. Về phía GV
- Mặc dù các GV thường xuyên được tập huấn phương pháp giảng dạy
nhưng phần lớn đều rất rời rạc, mỗi năm vài lần, thậm trí vài năm một lần. Các
nội dung phổ cập, tập huấn thiếu tính đồng bộ, hoặc là tập huấn về phương pháp
giảng dạy tích cực, hoặc là tập huấn về phân tích tác phẩm,… một các hoàn toàn
tách biệt ở các lớp khác nhau, các khóa tập huấn khác nhau, các năm học khác
nhau. Song, việc dạy học là một nghệ thuật tổng hợp, nó bao gồm cả phương
pháp truyền thụ, cách thức trình bày, trình tự giảng dạy, nội dung giảng dạy,
phương tiện hỗ trợ, tâm lý giảng dạy, tố chất của từng HS và tâm lý HS. Chính
vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn cần phải có giải pháp
tổng hợp, cần đầu tư nhiều thời gian và công sức, cần phải tâm huyết, mến nghề,

yêu trẻ. Đây là một thách thức khó vượt qua của rất nhiều GV và để an toàn, một
bộ phận không nhỏ GV đã quay về với cách chuẩn bị giáo án, bài giảng và
phương pháp giảng dạy truyền thống, truyền thụ một chiều, khiến HS luôn ở tư
thế bị động trong tiếp thu bài giảng, từ đó gây chán nản trong học tập môn Ngữ
văn trong nhà trường.
- Một số lớn GV các mơn xã hội nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng cịn
thiếu kinh nghiệm, kỹ năng trong sử dụng các phương tiện hỗ trợ giảng dạy, nhất
là máy tính, mạng internet; chưa biết khai thác thơng tin, dữ liệu trên không gian
mạng để phục vụ cho công tác chuẩn bị giáo án, bài giảng và giảng bài. Bên
cạnh đó là sự vận dụng thiếu linh hoạt và chưa phù hợp các phương pháp giảng
dạy trong các tình huống văn học dẫn đến hiệu quả thấp, gây mất thời gian và
giảm hứng thú trong học tập cho các HS.
- Đa số các trường THPT nói chung và trường THPT Hoằng Hóa 4 nói
riêng có hệ thống thiết bị, phương tiện dạy và học còn thiếu thốn, cũ kỹ, thiếu
đồng bộ nhưng lại phải ưu tiên cho các môn thuộc khoa học tự nhiên. Thực tế
này xuất phát từ quan niệm cũ của BGH nhà trường về môn Ngữ văn, coi môn
Ngữ văn và các môn khoa học xã hội khác là lý thuyết, là học thuộc lòng, là cần
được GV phân tích kỹ lưỡng và HS chỉ cần tiếp thu một chiều như vậy là đủ.
Đây là một quan niệm sai lầm, bởi cũng giống các môn khoa học khác, mơng
Ngữ văn có mối liên hệ chặt chẽ, không tách rời với cac môn học khác, với môi
trường tự nhiên và xã hội và với cuộc sống của chính GV và HS. Nó chịu tác
động rất lớn của ngoại cảnh, hình ảnh, âm thanh, ngữ điệu,… do đó nó cần được
giảng dạy một cách khoa học trên cơ sở sử dụng đa phương tiện từ máy tính, loa
13


đài, màn hình, pano, tranh ảnh,… để đạt được hiệu quả cao nhất trong mỗi tiết
học, giờ học.
2. 3. Về phía HS
- Nền giáo dục dựa trên phương pháp truyền thụ kiến thức một chiều

trong thời gian khá dài của chúng ta đã tạo ra một tâm lý thụ động cho HS trong
học tập. Nếu nhìn vào các tiết học Ngữ văn truyền thống chúng ta sẽ thấy nở đó
GV mới là nhân vật trung tâm, lớp học chính là “sân khấu” để người GV biểu
diễn tài nghệ của mình trước con mắt thán phục và sự trầm trồ của các HS cịn
các HS thì thụ động nghe, thụ động chép và thụ động cảm nhận, trong giờ học
chủ yếu chỉ có GV hỏi - HS trả lời, rất hiếm có trường hợp HS hỏi để GV trả lời.
Do đó mọi thắc mắc của HS gần như không được giải đáp, các HS dù hiểu hay
chưa hiểu cũng phải tự cảm nhận. Vì vậy, lượng kiến thức HS tiếp thu được rất ít
ỏi và nhanh bị xóa khỏi bộ nhớ. Điều này đã làm triệt tiêu sức sáng tạo, suy nghĩ
độc lập và tinh thần chủ động của người học, tạo sức ì trong suy nghĩ, hành động
và ngại bày tỏ quan điểm của bản thân. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến
chất lượng dạy - học mơn Ngữ văn chưa đạt với yêu cầu.
- Cùng với sự phát triển của xã hội, các ngành nghề truyền thống dần
được thay thế bằng các ngành nghề mới, hiện đại mà đa số các ngành nghề hiện
đại đều cần đến các kỹ năng sử dụng máy móc do đó khi tuyển sinh phần lớn các
trường kỹ thuật có chỉ tiêu cao hơn, sinh viên sau khi ra trường dễ kiếm được
công ăn việc làm ổn định hơn. Nhu cầu có cơng ăn việc làm sau khi ra trường đã
làm giảm đáng kể tinh thần học tập của HS đối với môn Ngữ văn. Một nguyên
nhân quan trọng nữa là HS và gia đình chưa nhận thức được tầm quan trọng của
mơn Ngữ văn đối với cuộc sống, kỹ năng trình bày vấn đề và sự thành công
trong sự nghiệp sau này của nhiều HS cũng như phụ huynh, dẫn đến việc học tập
môn Ngữ văn bị sao nhãng, xem nhẹ.
III. ỨNG DỤNG GAĐT TRONG GIẢNG DẠY MÔN NGỮ VĂN Ở
TRƯỜNG THPT

1. Phân biệt GAĐT và BGĐT
Như phần trên đã trình bày, GAĐT chính là giáo án truyền thống nhưng
được đưa vào máy vi tính - được lưu trữ, thể hiện ở dạng điện tử.
Bài giảng điện tử là một phần nội dung trong tồn bộ chương trình học của mơn
học mà GV sẽ truyền đạt cho HS. Bài giảng điện tử sẽ có những yêu cầu nhất

14


định đối với GV: nội dung mạch lạc, truyền tải nội dung rõ ràng, dễ hiểu, các sự
kiện liên kết chặt chẽ với nhau. Bài giảng sẽ được thiết kế có độ dài thời gian
học trên lớp thường là 1 – 2 tiết học.

(Nguồn: />
Hình 01. Minh họa về BGĐT
Như vậy, GAĐT bao gồm các bài giảng điện tử (BGĐT) của môn học,
BGĐT chỉ là một phần rất nhỏ của toàn bộ giáo án. Đồng thời, giáo án là kịch
bản tĩnh, cịn bài giảng là hiện thực hóa của giáo án. Do đó, trong q trình
giảng dạy, khơng phải tất cả những gì trong giáo án đều được trình chiếu cho
HS. Bài giảng chỉ trình chiếu một nội dung hay một khía cạnh nào đó, cịn
những phần như mục tiêu, u cầu, tài liệu tham khảo,… sẽ khơng được trình
chiếu trong giờ lên lớp.
2. Xây dựng GAĐT
Để thiết kế một GAĐT có chất lượng từ đạt yêu cầu trở lên, cần phải có
một quy trình cụ thể. Với kinh nghiệm của bản thân thì 05 bước sau đâu là
những bước quan trọng để cho ra đời một GAĐT hoàn chỉnh.

15


Bước 1: Xác định mục đích, yêu cầu của bài giảng
Đọc kỹ tác phẩm, nội dung bài học trong sách giáo khoa, kết hợp với
tham khảo các tài liệu liên quan để tìm hiểu hồn cảnh ra đời của tác phẩm, nội
dung, phương pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm, hình tượng nhân
vật, chủ đề cốt lõi của tác phẩm,… và mục đích của việc nghiên cứu, tìm hiểu
tác phẩm, bài học, tức là người GV phải trả lời được 4 câu hỏi: (1)Dạy để làm

gì? (2) Dạy cho ai? (3) Dạy cái gì? và (4) Dạy như thế nào? Trên cơ sở đó, GV
xác định rõ mục tiêu cần truyền tải đến HS trên cả 3 mặt: Kiến thức, kỹ năng và
tình cảm - thái độ. Từ những mục đích trên, GV sẽ xác định được khung, sườn
của giáo án, phương tiện hỗ trợ, phương pháp thực hiện và các hoạt động cụ thể
nhằm đạt được các mục đích đã đặt ra cho HS và cho cả bản thân người GV.

(Nguồn: />
Hình 02. Minh họa về GAĐT
Bước 2: Lựa chọn những kiến thức cơ bản, trọng tâm, có tính khái
qt và chắt lọc cao để sắp xếp chúng vào các bản trình chiếu (slide)
GV phải hình dung được toàn bộ tác phẩm, bài học để đưa ra một khung
sườn đầy đủ và tổng quát về nội dung của từng bài giảng trong GAĐT. Đây là
một bước cực kỳ quan trọng của cơng tác thiết kế GAĐT nói chung và BGĐT
16


nói riêng. Các nội dung đưa vào slide phải được chắt lọc kỹ càng từ những kiến
thức cơ bản của từng bài học, tiết học, mục, điểm, đoạn. Dung lượng thơng tin
trong mỗi slide thường chỉ là những dịng từ khóa, có tính tóm tắt nhưng phải
bao qt và gợi mở. Vì vậy, địi hỏi GV phải có tư duy tổng hợp, khái quát, tinh
tế để có thể chọn lựa, chắt lọc kiến thức cơ bản nhất đưa vào các slide. Đây là
bước có tính quyết định đến dung lượng kiến thức được truyền tải trong mỗi tiết
học, giờ học của HS.

Hình 03. Minh họa về slide trình chiếu của BGĐT
Bước 3: Thu thập nguồn tài liệu liên quan đến nội dung, xây dựng kho
tư liệu
Ngồi việc tìm tịi, nghiên cứu các tài liệu trong quá trình thiết kế GAĐT
để nâng cao hiểu biết về tác giả, tác phẩm, bổ sung, mở rộng kiến thức của GV
thì việc quan trọng và cần thiết là phải xây dựng được kho tư liệu liên quan đến

GAĐT, BGĐT. Kho dữa liệu có thể là một trong các loại hoặc có thể bao gồm
tất cả các loại tài liệu như: Hình ảnh, đoạn phim, giọng nói, bài văn, đoạn thơ,
âm nhạc, hình vẽ,… Đây là những điều kiện phù trợ hết sức cần thiết giúp cho
việc khai thác chương trình phần mềm PowerPoint một cách hiệu quả, tạo sự
hấp dẫn, hứng thú để lôi cuốn HS tham gia một cách tích cực các bài học, qua
đó nâng cao hiệu quả của cơng tác giảng dạy. Để có kho tư liệu phong phú, đa
dạng, chúng ta có thể khai thác trên nhiều phương tiện như”
17


- Các thông tin trên không gian mạng: Đây thực sự là kho thông tin khổng
lồ, đa dạng và hết sức sinh động. Chúng ta có thể tìm kiếm thơng tin theo chủ đề
bằng các cơng cụ tìm kiếm như: google, yahoo, Bing,… Sau khi tìm kiếm được
thơng tin trên không gian mạng chúng ta cần tải về và lưu vào kho tư liệu để làm
tài liệu tham khảo, minh họa trong các bài giảng.
- Các thông tin trên các CD-ROM, VCD: Hiện nay các thông tin trên CDROM và VCD hết sức phong phú, có thể lựa chọn những thông tin cần thiết
phục vụ nội dung của bài giảng để nhập vào kho tư liệu.

Hình 04. Minh họa về cơng cụ tìm kiếm
- Các thơng tin trên sách, báo, tạp chí, tranh ảnh, pano, áp phích: Ngồi
các nguồn thơng tin, dữ liệu trên, chúng ta cịn có thể tìm kiếm thông tin, dưa
liệu từ các tranh ảnh, thông tin trên sách, báo, tạp chí, tranh ảnh, pano, áp phích,
… có liên quan dến nội dung bài giảng để bổ sung cho kho dữ liệu, làm phong
phú thêm nội dung bài giảng và đưa ra những hình ảnh mang tính trực quan sinh
động kích thích sự khám phá, sáng tạo của mỗi HS.
Bước 4: Xây dựng kịch bản cho bài giảng của GAĐT
Kịch bản, theo cách hiểu thông thường là trình tự các bước diễn biến của
một chủ đề mà trong đó mỗi bước đều được gắn với một hoặc một số nội dung
cụ thể, có nội dung mang tính chủ đạo, có nội dung mang tính phù trợ nhưng
đều được thể hiện bằng những phương pháp, hình thức nhất định nhằm truyền

18


tải đến đối tượng tác động những thông điệp nhất định. Kịch bản được phác
thảo, mơ hình hố, trên văn bản với tư cách là một đề cương, hay chi tiết đến
từng chi tiết nhỏ (tuỳ theo yêu cầu của mỗi loại hình), là cơ sở chính cho tác giải
hoặc “tập thể tác giả” hồn thiện tác phẩm của mình.
Kịch bản cho bài giảng của GAĐT cũng tương tự như vậy, nó là một đề
cương thể hiện trình tự các bước thực hiện một bài giảng để truyền tải các nội
dung của bài học đến HS bằng các phương pháp, phương tiện, công cụ nhất
định. Đây là khâu quan trọng trong việc thiết kế bài giảng, một kịch bản tốt phải
bảo đảm các nguyên tắc sư phạm, nội dung kiến thức cơ bản của bài giảng, sử
dụng được nhiều phương tiện để truyền tải, phương pháp, hình ảnh, ngơn ngữ sử
dụng phải văn minh, phù hợp với bài giảng, lứa tuổi HS và môi trường giáo dục
lành mạnh và cuối cùng là phải đáp ứng mục đích, yêu cầu đã đặt ra.
Điều rất quan trọng mà GV phải hết sức lưu tâm khi xây dựng kịch bản
cho GAĐT là phải căn cứ vào giáo án truyền thống, hay còn gọi là giáo án
“nền”; trên cơ sở đó, tìm tịi, phát hiện, khai thác thế mạnh của CNTT mà cụ thể
là phần mềm PowerPoint nhằm tăng cường tính tích cực hố quá trình nhận thức
trong hoạt động học tập của học viên.
Bước 5: Lựa chọn ngơn ngữ, các phần mềm trình diễn và hiệu ứng để
xây dựng GAĐT
Sau khi đã có kho tư liệu, các kiến thức cơ bản được lựa chọn, GV cần lựa
chọn ngôn ngữ và các phần mềm trình diễn để tiến hành xây dựng GAĐT. Tuỳ
theo nội dung cụ thể mà thơng tin trên mỗi slide có thể là văn bản, đồ hoạ, tranh
ảnh, âm thanh, vidio clip. Văn bản cần trình bày ngắn gọn, cơ động, chủ yếu là
các tiêu đề và dàn ý cơ bản. Nên dùng một loại font chữ phổ biến, đơn giản; màu
chữ được dùng thống nhất (thống nhất tuỳ theo mục đích sử dụng khác nhau của
văn bản: câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, giảng giải, ghi nhớ, câu trả lời). Khi trình bày
nên sử dụng sơ đồ khối để học viên thấy ngay được cấu trúc logic của những nội

dung cần trình bày.
Đối với mỗi bài giảng nên dùng khung, màu nền thống nhất cho các slide,
Hạn chế sử dụng các màu quá chói hoặc quá tương phản nhau. Mặt khác cũng
khơng nên q lạm dụng phần mềm trình diễn theo kiểu “bay nhảy” nhằm thu
hút sự tị mị khơng cần thiết cho người học, làm phân tán sự chú ý của học viên.
Điều quan trọng khi sử dụng phần mềm trình diễn là chú ý làm nổi bật nội dung
19


trọng tâm, khai thác triệt để các ý tưởng tiềm ẩn bên trong các đối tượng trình
diễn thơng qua việc nêu vấn đề, hướng dẫn, tổ chức hoạt động nhận thức nhằm
phát triển tư duy của người học.
Cuối cùng là thực hiện các liên kết giữa các slide một cách hợp lý, logic.
Đây chính là cơng việc quan trọng tạo ra các ưu điểm của GAĐT do đó chúng ta
cần khai thác tối đa khả năng liên kết, nhờ khả năng liên kết này mà bài giảng
được tổ chức một cách linh hoạt giúp học viên nắm bắt được kiến thức bài học.
Trong Microsoft Office, PowerPoint là một trong những chương trình
trình diễn cho phép thực hiện hầu hết các yêu cầu trong giảng dạy theo phương
pháp hiện đại; là một chương trình có nhiều tiện ích đối với việc thiết kế, trình
bày bài giảng với nhiều tính năng đa dạng và phong phú.
3. Sử dụng GAĐT trong dạy học, thuận lợi và khó khăn
3.1. Sử dụng GAĐT trong dạy học
Nếu sử dụng giáo án truyền thống là giáo viên cầm sách và viết tay lên
bảng các nội dung bài giảng, đọc những câu hỏi cho học sinh nghe và chờ đợi
câu trả lời theo kiểu truyền thông một chiều thì việc sử dụng GAĐT hồn tồn
có sự khác biệt.

(Nguồn: />
Hình 05. Sử dụng GAĐT trong dạy học
Sử dụng GAĐT sẽ sử dụng các bài giảng dưới dạng slide và khi giảng bài,

GV sẽ trình chiếu các bài giảng đó lên màn hình kèm theo các hiệu ứng về âm
thanh, ánh sáng và các hình ảnh minh họa. Hiệu ứng của việc sử dụng GAĐT sẽ
20


rất sinh động và tạo được hứng thú cho học sinh, tạo khơng khí thoải mái, cởi
mở giữa thầy và trị, từ đó thúc đẩy sự giao lưu hai chiều giúp cho việc dạy và
học trở nên vui vẻ, hiệu quả.
3.2. Thuận lợi và khó khăn khi sử dụng GAĐT trong dạy và học
a. Thuận lợi
Sử dụng GAĐT trong dạy và học có rất nhiều thuận lợi, trong đó nổi bật
nhất một số thuận lợi sau:
- Thứ nhất, GAĐT giúp cho tiết học trở nên sinh động, cuốn hút, thú vị và
hiệu quả hơn cho cả GV và HS. GAĐT ngồi việc chỉ có những từ khóa hết sức
ngắn gọn, xúc tích, mang tính gợi mở cịn có hình ảnh, đoạn video, âm thanh
sống động, chân thực giúp người học hứng thú, cuốn hút hơn. Do đó, tích cực
hơn trong tham gia xây dựng bài, chủ động hơn trong thảo luận, nghiên cứu,
chia sẻ nên hiệu quả học tập cao hơn, hiểu bài sâu sắc hơn.
- Thứ hai, tiết kiệm thời gian của giáo viên. Nếu sử dụng giáo án truyền
thống, người GV phải mất rất nhiều thời gian trong việc ghi chép, trình bày trên
sổ giáo án, nếu có sai sót thì phải làm lại từ đầu nên rất tốn kém và phiền hà.
Nhưng nếu sử dụng GAĐT thì mọi rắc rối đó sẽ biến mất, GV chỉ cần sử dụng
máy tính để soạn giáo án và nếu có sai sót thì có thể chỉnh sửa, bổ sung một
cách rất nhanh chóng vì thế sẽ có nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu bài
giảng của mình để có những tiết học thú vị hơn, hiệu quả hơn.
- Thứ ba, GAĐT thuận lợi cho việc lưu trữ, chia sẻ, sao chép. Chúng ta có
thể lưu trữ GAĐT vào khơng gian mạng (Face book, Email, Drive,…), lưu trữ
vào bộ nhớ máy tính, USB, đĩa CD; do đó, có tính tiện dụng cao. Ngồi ra,
GAĐT cịn giúp cho việc sao chép, trao đổi, chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp
được dễ dàng, gọn nhẹ và thuận tiện hơn.

- Thứ tư, nếu GV thường xuyên sử dụng GAĐT sẽ khuyến khích HS chủ
động trong tìm tịi, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KHKT vào học tập và cuộc
sống, tạo điều kiện cho sự phát triển tính năng động, sáng tạo và nâng cao khả
năng thích nghi với những điều mới mẻ trong cuộc sống.
b. Khó khăn trong sử dụng GAĐT
Bên cạnh những lợi ích khơng thể phủ nhận của giáo án điện tử thì vẫn
tồn tại một số khó khăn và hạn chế, như:
21


- Một là: Để có một GAĐT đạt chất lượng tốt, GV cần có nhiều thời gian
để chọn kiểu chữ, chèn ảnh, chèn video, thiết kế giao diện, tạo hiệu ứng,…
Đồng thời, GV phải có kỹ năng sử dụng máy tính, kỹ năng tìm kiếm thơng tin
trên khơng gian mạng từ mức khá trở lên.
- Hai là: BGĐT dễ bị sao chép, đánh cắp bản quyền nếu khơng được mã
hóa, không được bảo vệ bởi các thủ thuật của CNTT.
- Ba là: Do có nhiều hình ảnh, âm thanh, hiệu ứng bắt mắt, hấp dẫn nên
nếu GV không giỏi trong xử lý tình huống, quản lý lớp học sẽ có thể dẫn đến
hiện tượng học sinh bị hấp dẫn và phân tán bởi những yếu tố trình chiếu, hình
ảnh, âm thanh mà quên mất việc tập trung vào nội dung bài giảng.
- Bốn là: Do các bản trình chiếu chỉ ghi các từ khóa của nội dung trình
bày nên khá khó hiểu nếu khơng được giải thích, phân tích cụ thể. Do đó, để có
thể sử dụng GAĐT một cách hiệu quả, người GV phải có kiến thức về mơn học,
bài học hết sức sâu sắc, rộng lớn và một trí nhớ tốt.
IV. KẾT QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG GAĐT TRONG GIẢNG DẠY MƠN
VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HĨA IV

1. Kết quả trong học tập, kiểm tra, đánh giá học tập môn Ngữ văn
Sau một thời gian ứng dụng GAĐT trong dạy học mơn Ngữ văn ở trường THPT
Hoằng Hố IV đã có những kết quả bước đầu hết sức khả quan trong việc tạo sự

hứng thú trong học tập của HS, nâng cao khả năng cảm nhận văn học và sử dụng
các tình huống văn học vào các bài kiểm tra. Kết quả khảo sát tại 02 lớp cơ bản
khối 12 năm học 2020 - 2021, gồm lớp A5 với 43 HS được sử dụng GAĐT (lớp
thử nghiệm) và lớp A6 với 41 HS không sử dụng GAĐT (lớp đối chứng) trong
giảng dạy, kết quả cụ thể như sau:

STT

1

Chỉ tiêu so sánh

Lớp A5

Lớp A6

(thử nghiệm)

(đối chứng)

Số
lượng
(HS)

Trung bình số lượng ý kiến phát
biểu trong một tiết học

22

11


Tỷ lệ
(%)
25.6

Số
lượng
(HS)

Tỷ lệ
(%)
2

4.9


2

Trung bình số HS chủ động phát
biểu ý kiến trong một tiết học

9

20.9

0

-

3


Trung bình số lượng HS nắm
vững kiến thức cơ bản của mỗi
bài giảng

40

93.0

25

61.0

4

Số HS có bài kiềm tra 15 phút
đạt điểm khá trở lên

25

58.1

16

39.0

5

Số HS có bài kiềm tra 15 phút
đạt điểm trung bình


18

41.9

21

51.2

6

Số HS có bài kiềm tra 15 phút
đạt điểm kém

0

4

9.8

7

Số HS bài kiềm tra một tiết đạt
đạt điềm khá trở lên

27

62.8

13


31.7

8

Số HS có bài kiềm tra một tiết
đạt điểm trung bình

16

37.2

26

63.4

9

Số HS có bài kiềm tra một tiết
đạt điểm kém

0

2

4.9

-

-


Kết quả trên cho thấy: Lớp được GV sử dụng GAĐT trong giảng dạy (A5)
đã cho kết quả học tập tốt hơn hẳn so với lớp không sử dụng GAĐT (A6). Trong
các chỉ tiêu so sánh có 02 chỉ tiêu là: Trung bình số lượng ý kiến phát biểu trong
một tiết học của lớp thử nghiệm cao gấp hơn 5 lần so với lớp đối chứng và trong
mỗi tiết học lớp thử nghiệm trung bình có 9 HS chủ động phát biểu ý kiến xây
dựng bài, trong khi lớp đối chứng khơng có HS nào chủ động tham gia. Các chỉ
số cịn lại như Trung bình số lượng HS nắm vững kiến thức cơ bản của mỗi bài
giảng, số HS có bài kiềm tra 15 phút đạt điểm khá trở lên và số HS bài kiềm tra
một tiết đạt đạt điềm khá trở lên của lớp thử nghiệm đều cao gấp 1,5 lần trở lên
so với lớp đối chứng. Một kết quả rất khả quan khác là ở lớp thử nghiệm khơng
cịn học sinh yếu kém mông Ngữ văn, trong khi ở lớp đối chứng tỷ lệ này
khoảng 4,9%.

23


2. Kết quả trong phát triển các kỹ năng mềm của HS

Kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy HS lớp thử nghiệm năng động hơn, cởi
mở, chủ động hơn trong học tập và giao tiếp, gẫn gũi với GV hơn, hiểu bài
nhanh hơn và thích khám phá hơn. Phần lớn HS có học lực từ trung bình trở lên
đều đã biết ứng dụng các phần mềm để thiết kế những bài tập, ghi chép bài, tổng
hợp kiến thức môn học ở các mức độ khác nhau. Trong những tiết học có sử
dụng GAĐT, HS học tập một cách hào hứng hơn, mạnh dạn hơn trong việc trình
bày quan điểm, suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tác giả, tác phẩm, tích cực
tham gia thảo luận cả trong và ngoài giờ học.
GAĐT thực tế là một sản phẩm độc đáo của sự kết hợp giữa: Kiến thức và
nghệ thuật xếp đặt, hội họa, âm nhạc và nghệ thuật trình diễn. Chính vì vậy, để
có một bài giảng tốt khi sử dụng GAĐT, người GV phải trở thành một nghệ sỹ

đa tài thực sự, có khả năng dẫn dắt khán giả là những học sinh bước vào thế giới
nghệ thuật một cách tự nhiên để HS cùng với GV đồng sáng tạo ra những giờ
học, tiết học mà ở đó khơng chỉ có sự truyền đạt kiến thức một chiều từ GV tới
HS mà là một sự giao lưu về tâm hồn, đồng điệu về cảm xúc và cùng tỏa sáng để
tạo nên một “tác phẩm nghệ thuật” của dạy và học. Chính điều đó đã khuyến
khích học sinh trở thành người đồng sáng tác với tác giả để hòa vào cảm xúc của
tác giả khi sáng tác tác phẩm, để làm tác phẩm trở nên tươi mới hơn và mang
hơi thở của thời đại mới để đồng hành cùng HS trong những bước đường ở
tương lai. Chính điều đó đã làm cho tâm hồn học sinh trở nên phong phú hơn, lễ
phép hơn, chăm chỉ hơn, đạo đức hơn và nhân văn hơn.

24


Phần III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
GAĐT có thể được xem như một kịch bản hay kế hoạch hoạt động của
giáo viên trong những tiết học mà trong đó các BGĐT chính là các phân đoạn
của một kịch bản. Giáo án điện tử phải được GV thiết kế và xây dựng trước khi
bài dạy được bắt đầu. Một GAĐT đạt yêu cẩu phải bao gồm một số mục quan
trọng như: Mục đích, nội dung bài học, phương pháp dạy, phương tiện sử dụng,
các câu hỏi kiểm tra đánh giá học sinh,…Sử dụng GAĐT trong dạy và học là
một trong những hoạt động đổi mới toàn diện trong giáo dục, đã và đang được
áp dụng trong thực tế dạy và học các mơn học tại trường THPT Hoằng Hố IV,
trong đó có mơn Ngữ văn.
Việc sử dụng GAĐT trong dạy và học mơn Ngữ văn ở trường THPT
Hoằng Hố IV đã cho những kết quả hết sức khả quan trong việc nâng cao chất
lượng các tiết học, tạo ra khơng khí sơi nổi trong phát biểu xây dựng bài của HS,
cải thiện rõ rệt khả năng tiếp thu bài trên lớp và nâng cao đáng kể điểm số của
các bài kiểm tra. Bên cạnh đó, việc sử dụng GAĐT còn giúp cho HS phát triển

tư duy sáng tạo trong cảm thụ văn học, phân tích tác phẩm; củng cố sự u thích
đối với mơn Ngữ văn, nâng cao sự tự tin và khả năng bày tỏ ý kiến của HS trước
tập thể lớp; tạo dựng được mối quan hệ tốt đẹp, thấu hiểu và chia sẻ giữa thầy và
trò, giữa các học trò với nhau. Nhờ vậy, trong năm học 2020-2021, trường THPT
Hoằng Hố IV khơng cịn các hiện tượng tiêu cực, bạo lực học đường giảm hẳn,
khơng có HS sa vào các tệ nạn xã hội. Quan hệ thầy trị gần gũi, thân mật, bầu
khơng khí dân chủ mở rộng, ý thức tự giác của HS được nâng lên, HS ngày càng
gắn bó với trường lớp.
2. Kiến nghị
Để có thể sử dụng GAĐT trong giảng dạy mơng Ngữ văn nói riêng và các
mơn học khác trong các trường THPT Hoằng Hóa IV một cách thuận lợi và có
hiệu quả, tơi có một số kiến nghị như sau:
Một là: Đối với giáo viên: Mỗi giáo viên cần phải tự nghiên cứu tài liệu
để làm giàu kiến thức cho bản thân để có hiểu biết sâu, rộng hơn về mơn học mà
mình trực tiếp giảng dạy; nghiên cứu để có những phương pháp truyền đạt phù
25


×