BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜ
NG
ĐẠI
HỌC
LUẬT
HÀ
NỘI
NGUYỄN
THỊ MAI
HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TỊA
XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT
HỌC
HÀ NỘI, 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN TH
MAI
HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA
XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
LUẬN ÁN
TIẾN SĨ
LUẬT
HỌC
Chun
ngành
: Luật
Hình sự
và tố tụng
hình sự
Mã s
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS.
Đỗ Thị
Phượng 2.
TS. Vũ
Gia Lâm
Hà Nội, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, các số liệu và
trích dẫn trong luận án đảm bảo tính chính xác, trung thực. Các kết quả nêu
trong luận án chưa được công bố trong bất kì cơng trình nào khác. Tơi xin hồn
tồn chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Mai
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Thị Phượng và TS. Vũ
Gia Lâm đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, nghiên
cứu để tơi có thể hồn thành luận án. Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy
cô, đồng nghiệp, các nhà khoa học, cán bộ Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp
đỡ, tạo điều kiện và có những ý kiến quý báu để luận án của tơi được hồn thiện.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã ln động viên, giúp đỡ
tơi trong q trình thực hiện luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Mai
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Biểu 2.1. Tỉ lệ số vụ án phải xét xử phúc thẩm................................................................. 113
Bảng 2.1: Số bị cáo Tịa án tun khơng có tội................................................................ 113
Bảng 2.2: Số vụ án Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung.................................................. 114
Biểu 2.2. Tỉ lệ số vụ án có luật sư tham gia bào chữa .................................................. 117
Biểu 2.3. Tỉ lệ số vụ án có luật sư tham gia bào chữa năm 2018 ............................118
Biểu 2.4. Tỉ lệ số vụ án có luật sư tham gia bào chữa năm 2019 ............................118
Bảng 2.3. Số vụ án, số bị cáo Tòa án đã xét xử sơ thẩm ............................................. 128
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 1
PHẦN TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU..................................................... 8
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ.................................... 36
1.1.
Khái niệm, đặc điểm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự................................................................................................................................... 36
1.2.
Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm theo mơ hình tố tụng
tranh tụng và mơ hình tố tụng thẩm vấn............................................................................. 62
1.3. Ý nghĩa của hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.......................................................................................................................................................... 67
1.4. Điều kiện bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự......................................................................................................................................... 71
Tiểu kết chương 1………………………………………………………………76
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ HOẠT
ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH.......................................................................... 77
2.1.
Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự............................................................. 77
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự................................................. 86
2.3. Thực tiễn thi hành quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................................... 109
Tiểu kết chương 2.......................................................................................................................... 138
Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH
SỰ......................................................................................................................................................... 139
3.1. u cầu đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự........................................................................................ 139
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.................................................................................................................... 144
Tiểu kết chương 3.......................................................................................................................... 167
KẾT LUẬN..................................................................................................................................... 168
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Xét xử là giai đoạn trung tâm của TTHS, tất cả các hoạt động tố tụng trước
đó đều nhằm tạo cơ sở cho việc có thể đưa vụ án ra xét xử. Trong đó,
XXSTVAHS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đây là giai đoạn Tịa án tiến hành
giải quyết, xử lí vụ án lần thứ nhất bằng cách ra bản án và các quyết định tố tụng
cần thiết khác. Hoạt động xét xử là thể hiện tập trung cao độ nhất của quyền tư
pháp trong hệ thống pháp quyền. Thông qua bản án và các quyết định, Tòa án sẽ
định tội danh đối với hành vi phạm tội của bị cáo, quyết định hình phạt cũng như
những vấn đề khác như xử lý vật chứng, vấn đề bồi thường hoặc trong trường
hợp bị cáo khơng có tội thì Tịa án có thẩm quyền ra bản án tun bị cáo khơng
có tội và phải ra quyết định trả tự do ngay cho bị cáo (mặc dù bản án sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật và sau đó vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị). Như
vậy chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử, tuyên một người là có tội và quyết định
hình phạt đối với họ.
Đến thời điểm hiện tại, tranh tụng khơng cịn là vấn đề mới trong khoa học
luật TTHS nhưng lại là vấn đề gây nhiều tranh cãi và còn nhiều cách hiểu khác
nhau. Thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất
cập bởi còn nhiều nội dung chưa được cụ thể hóa trong Bộ luật dẫn đến thiếu
hành lang pháp lý cho nhiều hoạt động tố tụng. Tòa án là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền xét xử, ra bản án tuyên một người là có tội và áp dụng hình phạt đối
với người đó. Tuy nhiên, việc tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp
lại chưa thực sự toàn diện, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa còn mờ nhạt. Thực
tế cho thấy, giữa KSV và người bào chữa gần như khơng có tranh tụng, HĐXX
dành nhiều thời gian cho việc xét hỏi bị cáo và các chủ thể tham gia tố tụng khác
để tìm ra sự thật khách quan của vụ án (hay đúng hơn là tìm căn cứ để có thể
khẳng định bị cáo có tội). Hiện có nhiều ý kiến cho rằng Tịa án đang thực hiện
2
thay chức năng buộc tội của VKS, trong khi Tòa án phải đóng vai trị là trọng tài,
phải thật vơ tư, khách quan trong quá trình xét xử. Điều này ảnh hưởng không
nhỏ đến niềm tin của người dân vào các cơ quan tiến hành tố tụng và mặc nhiên
cho rằng, một người khi bị Tòa án đưa ra xét xử là sẽ đương nhiên bị kết tội.
Trước đòi hỏi của thực tiễn cũng như yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp, BLTTHS năm 2015 ra đời đã có nhiều sửa đổi, bổ sung thể hiện sự đổi mới
về kĩ thuật lập pháp, tư duy lập pháp cũng như quan điểm chỉ đạo của Đảng về
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Một trong những điểm mới rất đáng
ghi nhận của BLTTHS năm 2015 đó là quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên
tòa mà rõ nét nhất là tại phiên tòa XXSTVAHS. Trước đây, BLTTHS năm 2003
quy định về thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, BLTTHS năm 2015 đã
gộp hai thủ tục này làm một và đổi tên thành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa và
bổ sung nhiều quy định nhằm “bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết
bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”. Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 về cơ bản đã tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể
thực hiện các hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS nhưng vẫn còn bộc
lộ những điểm bất hợp lý như: tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa là người điều
khiển tranh tụng nhưng lại chủ động xét hỏi trước, nhiều trường hợp xét xử vắng
mặt người tham gia tố tụng nhưng chưa có căn cứ cụ thể.
Có thể thấy khoa học luật TTHS ngày càng phát triển cả về chất và lượng
trên cơ sở nền tảng là các học thuyết, các quan điểm, ý kiến đánh giá của các
chuyên gia. Đây chính là cơ sở lý luận, là tiền đề cho các nhà khoa học thực hiện
các cơng trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, trước sự vận động và biến đổi
không ngừng của thế giới tự nhiên, việc nhận thức của con người về một vấn đề
khoa học nào đó cũng có sự thay đổi nhất định qua các thời kì. Quan điểm khoa
học mới hình thành sau có thể tiến bộ hơn thậm chí phủ nhận quan điểm xuất
hiện ở thời kì trước, địi hỏi con người phải nhận thức được và không
3
ngừng tìm tịi nghiên cứu để có thể kiểm chứng. Tri thức về TTHS cũng khơng
nằm ngồi quy luật này, do đó các cơng trình nghiên cứu cần đảm bảo có tính
mới. Thực tiễn giải quyết VAHS cũng vậy, tương ứng với từng giai đoạn phát
triển, từng thời kì, việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng cũng như
cơng tác lập pháp có ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết vụ án, các tiêu chí
đánh giá hoạt động thực tiễn này cũng có sự thay đổi, số liệu biến đổi qua từng
năm địi hỏi phải có những đánh giá, tổng hợp kịp thời.
Dưới góc độ nghiên cứu, trong khoa học TTHS mặc dù đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về tranh tụng nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách chuyên sâu, toàn diện về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS.
Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện các
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS, tuy nhiên vấn đề đặt ra là quy
định của BLTTHS năm 2015 liệu đã thực sự đầy đủ về hoạt động tranh tụng, có
đủ để bảo đảm cho hoạt động tranh tụng diễn ra trên thực tế và diễn ra thực sự có
hiệu quả hay chưa? Để trả lời câu hỏi này, việc nghiên cứu về những vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật, thực tiễn tiến hành hoạt động tranh tụng để từ đó đề
ra các giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tịa là hết sức cần
thiết. Do đó, NCS lựa chọn đề tài “Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình với mong muốn
làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
2.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS, thực trạng quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam và thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS
nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa XXSTVAHS.
Nhiệm vụ nghiên cứu: với mục đích nêu trên, luận án sẽ thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau:
4
-
Phân tích, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa XXSTVAHS.
-
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
XXSTVAHS; làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa XXSTVAHS; phân biệt hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm theo mơ hình tố tụng tranh tụng và mơ hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời
làm rõ các điều kiện bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS.
-
Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật TTHS về hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa XXSTVAHS và thực tiễn thi hành, làm rõ những kết quả đạt được,
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
-
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa XXSTVAHS.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS, quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam và thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa XXSTVAHS.
Phạm vi nghiên cứu:
-
Về lý luận, luận án tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS và ý nghĩa của hoạt động này; làm rõ yêu
cầu đặt ra nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
XXSTVAHS. Luận án nghiên cứu hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
XXSTVAHS theo thủ tục tố tụng thông thường (không bao gồm các thủ tục đặc
biệt như thủ tục rút gọn, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, thủ tục truy
cứu TNHS đối với pháp nhân).
-
Về pháp luật, luận án tập trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm
2015 về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS; các văn bản pháp luật
khác có liên quan, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với quy định của BLTTHS
5
năm 2003 để làm rõ những điểm mới tiến bộ trong quy định của BLTTHS hiện
hành. Luận án cũng nghiên cứu quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế
giới về vấn đề này ở mức độ phù hợp với yêu cầu và điều kiện nghiên cứu.
- Về thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS, luận án sẽ
đánh giá thông qua việc nghiên cứu các báo cáo, số liệu tổng kết của Liên đoàn
Luật sư Việt Nam, VKSNDTC, TAND tối cao trong thời gian 10 năm từ 2010 2019; thông qua các bản án XXSTVAHS và biên bản phiên tòa XXSTVAHS.
4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
4.1.
Cơ sở lý thuyết của luận án
Cơ sở lý thuyết của luận án là những vấn đề lý luận về quyền tư pháp, lý
luận về chức năng tố tụng, mơ hình tố tụng hình sự, cơ sở lý thuyết trực tiếp là
cơ sở lý luận chung về tranh tụng và hoạt động tranh tụng.
4.2.
Câu hỏi nghiên cứu
Luận án phải trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:
1.
Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa XXSTVAHS là gì? Hoạt động tranh
tụng tại phiên tịa XXSTVAHS có những đặc điểm gì?
2.
Hoạt động tranh tụng trong mơ hình tố tụng tranh tụng và mơ hình tố
tụng thẩm vấn khác nhau như thế nào?
3.
Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa XXSTVAHS có những ý nghĩa gì?
4.
Pháp luật TTHS Việt Nam quy định như thế nào về hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa XXSTVAHS?
5.
Yếu tố nào ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
XXSTVAHS? Để nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa
XXSTVAHS cần có những giải pháp nào?
4.3.
Giả thuyết nghiên cứu
Từ các câu hỏi nghiên cứu nêu trên, giả thuyết nghiên cứu của luận án là:
Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS là tổng hợp hoạt động của các
chủ thể buộc tội, gỡ tội, các chủ thể tranh tụng khác và khơng thể thiếu vai trị
6
xét xử của Tòa án. Hoạt động tranh tụng trong mơ hình tố tụng tranh tụng và mơ
hình tố tụng thẩm vấn có nhiều điểm khác biệt, việc bảo đảm hoạt động tranh
tụng tại phiên tịa XXSTVAHS có những ý nghĩa quan trọng đối với việc giải
quyết vụ án. Pháp luật TTHS Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS nhưng vẫn còn một số bất cập dẫn
đến thực tiễn tranh tụng còn những hạn chế nhất định. Để nâng cao chất lượng
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXSTVAHS cần có các giải pháp nhằm hồn
thiện quy định của pháp luật về tranh tụng, các giải pháp về nguồn nhân lực cũng
như cơ sở vật chất và các giải pháp toàn diện khác.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin và sử dụng những phương pháp nghiên cứu đặc thù sau:
-
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp phân loại và
hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng để nghiên cứu các tài liệu khác nhau nhằm
phân tích, phân loại và sắp xếp, tổng hợp các tài liệu theo nhóm, trên cơ sở đó
tạo ra được hệ thống lý thuyết đầy đủ về vấn đề nghiên cứu.
-
Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm tìm ra cơ sở phát sinh, quá trình
thực hiện hoạt động tranh tụng tại phiên tịa XXSTVAHS qua các thời kì lịch sử
khác nhau.
-
Phương pháp so sánh được sử dụng để đánh giá tổng quan tình hình
nghiên cứu trong nước và ngồi nước, đánh giá quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam qua các thời kì; phương pháp đối chiếu được sử dụng để kiểm chứng
thực trạng quy định của pháp luật TTHS về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
XXST với thực tiễn thi hành.
-
Phương pháp diễn dịch, quy nạp được sử dụng để đưa ra ý kiến nhằm triển
khai vấn đề cũng như tổng kết lại sau khi đã phân tích, làm rõ các nội dung, nhận
định đã trình bày.
7
-
Phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn được sử dụng trong việc nghiên
cứu các báo cáo, số liệu thực tiễn giúp kiểm chứng vấn đề lý luận đã được
nghiên cứu.
6.
Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Dưới góc độ lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung cơ
sở lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tịa XXSTVAHS.
-
Dưới góc độ pháp lý, những phân tích, nhận xét, đánh giá của luận án đối
với quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa XXST là cơ sở để tiếp tục hồn thiện pháp luật.
-
Dưới góc độ thực tiễn, trên cơ sở chỉ ra những ưu điểm, bất cập của hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa XXST, luận án đề xuất những giải pháp nhằm giải
quyết các vấn đề còn vướng mắc, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa XXST.
-
Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu và xây dựng, áp dụng pháp luật trên thực tế.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, nội dung Luận án gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động tranh tụng
tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng
tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
8
PHẦN TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Mặc dù trong BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003, thuật ngữ “tranh
tụng” chưa được ghi nhận một cách chính thức nhưng trên thực tế hoạt động
tranh tụng vẫn tồn tại và diễn ra tại các phiên tịa, nhất là tại phiên tịa XXST. Do
đó, có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về thực trạng hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa, chỉ ra những mặt hạn chế và đề ra giải pháp nâng cao chất
lượng tranh tụng.
1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về ngun tắc
tranh tụng và mơ hình tố tụng tranh tụng
*Nhóm cơng trình nghiên cứu tranh tụng dưới góc độ là một ngun tắc
trong tố tụng hình sự
Về sách chuyên khảo, có thể kể đến cuốn “Về nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, nhà xuất bản Chính trị quốc gia
năm 2011. Đây là cuốn sách có nội dung tương đối đầy đủ về nguyên tắc tranh
tụng trong tố tụng hình sự. Tác giả đã đưa ra khái niệm, phân tích nội dung, ý
nghĩa, điều kiện đảm bảo thực hiện, nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành
cũng như thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự. Gần đây
nhất có thể kể đến cuốn “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015” của tác
giả Nguyễn Hịa Bình (chủ biên), nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2016. Hai
chuyên đề “Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam
theo BLTTHS năm 2015” của tác giả Đào Trí Úc và chuyên đề “Nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử và việc cụ thể hóa trong BLTTHS năm 2015” của tác giả
Trần Cơng Phàn trong cuốn sách đề cập trực tiếp đến nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015.
Về luận án, luận văn: Năm 2011, tác giả Nguyễn Thu Hiền đã bảo vệ thành
công luận án “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
9
hình sự Việt Nam hiện nay”. Luận án đã làm rõ được một số khái niệm về tranh
tụng, chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS, từ
việc phân tích tình hình thực tiễn, tác giả luận án đã đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. Năm 2015, tác giả Hoàng
Văn Thành bảo vệ thành công luận án “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam”. Tác giả luận án đã có những nghiên cứu tiệm cận với nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm, chỉ rõ tranh tụng được thể hiện như thế nào
trong phiên tòa XXSTVAHS, những giải pháp mà luận án đưa ra nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc đều gắn với u cầu cải cách tư pháp. Ngồi ra,
cịn kể đến luận văn “Nguyên tắc tranh tụng trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam” của tác giả Phan Thị Mỹ Hạnh (2004), luận văn“Thực hiện pháp luật đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Nguyễn Tiến Long (2005) đều nghiên cứu tranh tụng dưới góc độ là
một nguyên tắc trong tố tụng hình sự cần được bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Về các bài viết có thể kể đến bài “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình
sự” của tác giả Nguyễn Đức Mai đăng trên tạp chí Luật học số 2 năm 1996; bài
“Nguyên tắc tranh tụng, giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự” của tác giả Võ Thị Kim Oanh đăng trên tạp chí Kiểm sát, số 17 năm
2006; bài “Bàn về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Văn Hiển đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7 năm 2008;
bài “Giải pháp đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam
hiện nay” của tác giả Hồng Văn Thành đăng trên tạp chí Nghề luật số 2 năm
2010; bài “Nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề đặt ra đối với sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Tố tụng hình sự” của tác giả Trần Văn Độ đăng trên tạp chí Khoa
học kiểm sát số 01 năm 2014; bài “Đề xuất giải pháp triển khai thi hành nguyên
tắc tranh tụng trong ngành kiểm sát nhân dân” của tác giả Phan Văn Sơn đăng
trên tạp chí Kiểm sát số 6 năm 2014; bài “Cần thể chế hóa nguyên tắc
10
tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)” của tác giả Hồng Thị Liên
đăng trên tạp chí Kiểm sát số 6 năm 2014; bài “Một số kiến nghị góp phần thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tịa hình sự” của tác giả
Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng trên tạp chí TAND số 11 năm 2014; bài “Nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và việc triển
khai thực hiện” đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 21 năm 2017 và bài “Hoàn thiện
quy định của BLTTHS bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm”
của tác giả Vũ Gia Lâm đăng trên tạp chí Luật học, số 1 năm 2015; bài “Bình
luận về nguyên tắc tranh tụng trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)”
của tác giả Nguyễn Thái Phúc, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 9 năm 2015.
*Nhóm cơng trình nghiên cứu tranh tụng dưới góc độ là một mơ hình (kiểu)
tố tụng hình sự
Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu điển hình như: Năm 2014, tác
giả Nguyễn Thị Thủy với luận án “Mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề
áp dụng tố tụng tranh tụng” đã nghiên cứu về mơ hình tố tụng hình sự ở nước ta
hiện nay, chỉ ra ưu điểm của mơ hình tố tụng tranh tụng để có thể vận dụng vào
Việt Nam; luận văn “Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận
dụng trong điều kiện Việt Nam” năm 2004 của tác giả Lý Văn Chính; luận văn
“Tố tụng tranh tụng và việc tiếp thu nó trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ở Việt Nam” năm 2005 của tác giả Nguyễn Thu Hiền; Bài“Tiến tới xây
dựng tố tụng hình sự ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng” của tác giả Phạm Hồng
Hải đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7 năm 2003; bài “Tố tụng tranh
tụng và tố tụng thẩm cứu” của tác giả Trần Đại Thắng đăng trên tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 9 năm 2003; bài “Những tiền đề và thách thức đối với việc áp
dụng tố tụng tranh tụng ở nước ta” của tác giả Nguyễn Thị Thủy đăng trên Tạp
chí Kiểm sát số 15 năm 2013. Những cơng trình này đều tập trung làm rõ các đặc
điểm, ưu điểm của mơ hình tố tụng tranh tụng và đề xuất ý kiến áp dụng đối với
Việt Nam.
11
Trong một số cuốn sách chuyên khảo khác, các tác giả lại tập trung vào
nghiên cứu việc xét xử, tuy không đề cập trực tiếp đến hoạt động tranh tụng tại
phiên tịa nhưng vẫn có giá trị tham khảo cao như: cuốn “Sổ tay quy trình giải
quyết án hình sự”, TAND tỉnh Bắc Ninh - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
Jica (Nxb. Thanh niên, Hà Nội, năm 2012); cuốn “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Văn Quế (Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2001); cuốn “Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Võ Thị Kim Oanh (Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2012); cuốn “Nhiệm vụ của Công tố viên”, Lê Tài Triển (chủ biên), năm
1971; cuốn “Tố tụng hình sự và vai trị của Viện cơng tố trong tố tụng hình sự”,
Nhà Pháp luật Việt Pháp (Nxb. Chính trị quốc gia, năm 1997).
Trong cuốn “Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
năm 2000). Các tác giả đi sâu phân tích một số nguyên tắc quan trọng nhất chi
phối và định hướng cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự như nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, ngun tắc suy đốn vơ tội,
ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự,
ngun tắc xét xử cơng khai… Từ đó các tác giả nêu ra những vấn đề bất hợp lý
trong các nguyên tắc đó và đề xuất việc hồn thiện.
Cuốn “Những vấn đề lí luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục
tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của tập thể tác giả Lê Hữu
Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2013). Cuốn sách đã hệ thống hóa tồn bộ những vấn đề cốt lõi, cơ bản từ lý
thuyết đến thực tiễn liên quan đến các thủ tục TTHS; từ đó phân tích, đánh giá
tính hiệu quả, khả năng áp dụng của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành; đề xuất
các giải pháp và hướng sửa đổi, bổ sung luật nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay. Cuốn sách dành một phần nói về thủ tục XXSTVAHS,
tác giả đưa ra các yêu cầu và đề xuất đổi mới, hồn thiện thủ tục XXST, trong đó
12
đưa ra ý kiến đề nghị phải đổi mới căn bản thủ tục XXST theo hướng tranh tụng
“tòa án chỉ nhận thức sự thật vụ án thông qua xét hỏi, tranh luận, đối đáp giữa
KSV với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Trên cơ
sở kết quả tranh tụng của các bên mà tòa án ra phán quyết về vụ án. Theo đó, bỏ
các quy định khơng thuộc chức năng xét xử của tịa án như thẩm quyền khởi tố
vụ án, thẩm quyền xét hỏi chính mà chuyển các quyền này sang cho KSV và
người bào chữa” (trang 389); cuốn “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền” của tác giả Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí
(Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004); cuốn “Bộ luật Tố tụng hình sự mới, Bộ
luật của tiến trình dân chủ bình đẳng, bảo vệ quyền con người” của tác giả Uông
Chu Lưu (Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004).
Cuốn “Một số vấn đề về Luật Tố tụng hình sự”, Nxb. Pháp lý, 1985 của tác
giả Võ Thọ. Cuốn sách ra đời trong bối cảnh chưa có BLTTHS, tác giả đã tập
hợp những kiến thức phổ thơng của tố tụng hình sự như sự tiến triển của tố tụng
hình sự, những nguyên tắc tố tụng, người tham gia tố tụng, các giai đoạn tố tụng.
Ngay từ thời điểm đó, tác giả đã đề cập đến những nguyên tắc rất cơ bản của
TTHS như “nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; mọi cơng
dân đều bình đẳng trước pháp luật, tác giả đưa ra chức năng của phiên tòa hình
sự, đó là “trong phiên tịa hình sự chẳng những tiến hành kiểm tra tài liệu của
giai đoạn điều tra sơ bộ mà còn nghiên cứu những chứng cứ mới được đưa ra
trước mặt những người tham gia tố tụng thuộc bên buộc tội và bên bào chữa.
Trên cơ sở đó, Tịa án nhìn được tồn diện, kết luận về mọi tình tiết đúng với sự
1
thật, ra bản án hợp pháp và có căn cứ” . Đồng thời, tác giả bước đầu tiếp cận
những khái niệm về chức năng buộc tội, chức năng bào chữa: “Công tố viên thực
hiện chức năng buộc tội. Người bị hại, nguyên đơn dân sự và đại diện của họ
cũng có hoạt động tố tụng theo cũng hướng với công tố viên. Vậy họ cũng đứng
về phía buộc tội. Bị cáo và người bào chữa có quyền bào chữa, tức là bảo vệ
1Võ Thọ (1985), “Một số vấn đề về Luật Tố tụng hình sự”, Nxb. Pháp lý, tr.135.
13
quyền tố tụng và lợi ích hợp pháp của bị cáo… Tịa án trên cơ sở sự thực khách
quan tốt ra từ việc tranh cãi, quyết định bản án một cách vô tư nên chỉ thực hiện
chức năng gọi là quyết định chứ khơng có chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa. Nếu tại phiên tòa, khi Chủ tịch HĐXX xét hỏi và đồng thời vạch lời khai
không đúng của bị cáo, lại mượn lời của công tố viên trực diện đấu tranh với bị
cáo, thì hóa ra là Tịa án thực hiện chức năng buộc tội. Mục đích mà phiên tòa
theo đuổi là làm rõ hành vi phạm tội hay hành vi khơng có dấu hiệu tội phạm.
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về CQĐT, VKS. Tịa án khơng có nghĩa vụ chứng
minh, chỉ trên cơ sở chứng minh của cơ quan công tố mà quyết định chứ không
2
trực tiếp thực hiện chức năng của cơ quan công tố” . Đây là quan điểm rất đúng
đắn và có giá trị đến tận bấy giờ.
Cuốn “Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003 của tác giả Trần Quang Tiệp. Tác giả đã hệ thống rất đầy đủ quá trình
hình thành và phát triển của luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kì: từ
thuở sơ khai hình thành nhà nước đến đời nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Trần, nhà Tiền
Lê, nhà Hồ, nhà Nguyễn rồi đến thời kì thực dân Pháp xâm lược, Cách mạng
tháng 8, thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam, giai đoạn trước và sau khi có BLTTHS năm 1988. Cuốn sách cho
thấy cái nhìn tồn cảnh về hệ thống pháp luật tố tụng hình sự. Cuốn “Tập Hệ
thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự”, Hà Nội, 1976, TAND tối cao. Lúc này
cũng chưa có BLTTHS, quá trình tố tụng được thực hiện theo những luật lệ
chung, cuốn sách vừa mang tính hệ thống, lại vừa làm rõ, giải thích về trình tự
giải quyết một vụ án cụ thể. Chương VIII “Trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự”
đã trình bày rất rõ các bước, thủ tục để có thể mở một phiên tịa cũng như tiến
hành xét xử. Điểm nổi bật nhất là việc tranh luận tại phiên tịa được cụ thể hóa
thành các bước sau: “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi
thường và người có tài sản, quyền lợi có liên quan đến việc phạm pháp trình bày
những lý lẽ về những vấn đề có liên quan đến quyền lợi của mình; đại diện
2Võ Thọ, sđd, tr.140, 141.
14
VKSND trình bày kết luận của mình về vụ án; Bị cáo tự bào chữa nhưng nếu bị
cáo có người bào chữa thì sau khi người bào chữa đã bào chữa cho bị cáo thì bị
cáo có quyền phát biểu bổ sung; những người tham gia tranh luận đáp lại những
ý
kiến mà mình khơng đồng ý. TAND sẽ kết thúc cuộc tranh luận khi các bên đã
được phát biểu ý kiến, mỗi người được trả lời ý kiến của bên kia một lần về mỗi
vấn đề cịn có ý kiến khác nhau, trừ trường hợp chủ tọa phiên tòa cho phép nói
thêm. Việc giải quyết những ý kiến đó như thế nào sẽ do TAND quyết định trong
3
bản án” .
Cuốn “Họ vẫn chưa bị coi là có tội” (Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị
cáo), Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1989 của các tác giả Vũ Đức Khiển, Phạm Xuân
Chiến. Nội dung cuốn sách chủ yếu đề cập, phân tích quyền, nghĩa vụ pháp lý
của bị can, bị cáo theo quy định của BLTTHS năm 1988, đặc biệt phân tích các
quyền của bị cáo: quyền được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyền
tham gia phiên tịa; quyền được nói lời sau cùng trước khi nghị án; quyền kháng
cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm; quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố
tụng; quyền bào chữa. Cuốn sách chưa đề cập cũng như chưa thể hiện được tư
tưởng về tranh tụng tại phiên tòa mà mới chỉ phân tích một số quyền cơ bản của
bị cáo, thực chất các quy định như vậy cũng nhằm bị cáo có điều kiện để tranh
tụng nhưng tại thời điểm lúc bấy giờ kĩ thuật lập pháp và tư duy lập pháp, tư duy
của các học giả còn nhiều hạn chế.
Ngồi ra cịn phải kế đến các cơng trình là đề tài nghiên cứu khoa học, các
cơng trình này đều góp phần tạo tiền đề lý luận cho luận án mà NCS triển khai.
Có thể kể đến đề tài khoa học cấp trường “Tổ chức và hoạt động các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp” của Đại học quốc gia
Hà Nội năm 2012 (Chủ nhiệm đề tài PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí); đề tài nghiên
cứu khoa học cấp nhà nước “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” năm 2006 (Chủ nhiệm đề tài
3Tòa án nhân dân tối cao (1976),“Tập Hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự”, Tập I, Hà Nội, tr. 143.
15
TS Uông Chu Lưu); đề tài khoa học cấp trường của Trường Đại học Luật Hà Nội
“Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh
thần cải cách tư pháp” năm 2009 (Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Hoàng Thị Minh
Sơn); Hội thảo khoa học “Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Học viện khoa học xã hội (2015); đề tài
nghiên cứu khoa học (Khoa Luật, trường Đại học quốc gia Hà Nội) “Tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư
pháp” năm 2012 (Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí); Đề tài khoa học
cấp bộ “Nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mơ hình
tổ chức và hoạt động của VKS ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” của
VKSND tối cao, năm 2008. Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu khoa học kể trên
đều nghiên cứu về tổ chức, chức năng, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Việc nghiên cứu làm rõ các chức năng trong tố tụng hình sự sẽ góp phần
bảo đảm các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện tốt vai trị của
mình, tránh tình trạng chồng chéo. Đồng thời các đề tài này cũng tạo được nền
tảng lý luận cho việc nghiên cứu đề tài luận án của NCS bởi hoạt động tranh
tụng trong xét xử luôn gắn liền với chức năng buộc tội của VKS cũng như chức
năng xét xử của Tòa án.
Các bài viết về mối quan hệ giữa Tịa án với VKS hay các cơng trình nghiên
cứu chuyên sâu về từng cơ quan, từng chức năng trong tố tụng hình sự cũng
được NCS nghiên cứu để hoàn thiện những vấn đề lý luận trong luận án. Các bài
viết như: "Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tịa án và VKS trong q trình giải
quyết VAHS" của tác giả Hồ Sỹ Sơn đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
2, năm 2005; bài viết "Vai trò của kiểm sát, giám sát trong hoạt động xét xử" của
tác giả Hồ Sỹ Sơn đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9, năm 2005; bài
viết “Bàn về chức năng tố tụng của Tòa án và vấn đề độc lập của hoạt động xét
xử” của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10,
năm 2008; bài viết “Chức năng của Tịa án trong tố tụng hình sự