Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Rèn năng lực tư duy,hệ thống hoá kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả các giờ dạy tổng kết tiếng việt trong chuơng trình ngữ văn lớp 9 cho hs THCS quảng đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.26 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Thực hiện Cơng văn số 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2017 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (GDĐT) về việc hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục
phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất, quá
trình tổ chức dạy học để phát huy năng lực cá nhân, tạo điều kiện cho học sinh
được sáng tạo và tương trợ lẫn nhau trong học tập thì mỗi tiết học cần sự thay
đổi và thay đổi cụ thể trong mỗi giáo viên. Một thay đổi cần làm cụ thể, thiết
thực và quan trọng để dạy học hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của cá
nhân là lập kế hoạch, tổ chức một số tiết học. Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những con người,
những thế hệ có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Để đạt
được nhiệm vụ trên thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn
dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất.
Với nhà trường phổ thơng ngồi việc trang bị cho học sinh những tri thức,
phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu
thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị cho
HS những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là chìa khóa
mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học.
Trong những năm gần đây, giáo dục chúng ta đã và đang thực hiện nhiều
đổi mới trong phương pháp dạy học - phù hợp với đối tượng học sinh và đặc
trưng của từng môn học, và đã thu được nhiều kết quả. Song song với những
thắng lợi ấy thì việc làm thế nào để dạy - học văn nhất là phân môn Tiếng Việt
ngày càng tốt hơn luôn là nỗi trăn trở của nhiều thế hệ thầy cô.
Đổi mới phương pháp dạy học là trên cơ sở tiếp thu những phương pháp
dạy học truyền thống, người thầy phải tìm ra những phương pháp, biện pháp cụ
thể cho từng kiểu bài, từng dạng bài, từng đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên
đứng lớp nói chung, giáo viên dạy Ngữ văn nói riêng có bao điều trăn trở, nghĩ
suy. Làm thế nào dể tìm ra những hướng đi đúng, những giải pháp phù hợp cho
từng đối tượng học sinh, cho từng giờ lên lớp? Trong ba phân môn của Ngữ văn,
Tiếng việt là phân mơn có tính chất cơng cụ , là phương tiện thể hiện tư duy, tạo


lập các kiểu văn bản theo yêu cầu của Tập làm văn. Phân mơn Tiếng Việt trong
chương trình Ngữ văn 9, ngoài việc cung cấp một số kiến thức mới về hội thoại,
nghĩa của câu, các thành phần biệt lập … còn có vai trò tổng kết những kiến
thức đã học ở lớp dưới, bởi vậy có rất nhiều những tiết ôn tập, tổng kết.
Chính từ những suy nghĩ trên - là một GV dạy Ngữ văn THCS, tôi luôn trăn
trở, cố gắng tìm tòi và mạnh dạn chọn đề tài Rèn năng lực tư duy, hệ thống hóa
kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả các giờ dạy tổng kết Tiếng Việt trong
chương trình Ngữ văn lớp 9 cho học sinh THCS Quảng Đông . Hi vọng rằng
bản thân có thể đưa ra những ý kiến nhỏ, những kinh nghiệm nhỏ để đồng
nghiệp góp ý, giúp tôi có thể góp phần vào việc “Đổi mới phương pháp dạy học
môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực học sinh.”

1


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mỗi mơn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận
thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức quan trọng
trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ môn.
Đối với môn Ngữ văn : Là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện
mục tiêu chung của nhà trường THCS. Góp phần hình thành con người có ý thức
tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng
nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái sấu cái ác.
Bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước
hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng việt như
một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Giáo dục Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền giáo dục trong khu
vực và thế giới. Bản thân mỗi giáo viên trong quá trình hội nhập đó là tự đổi
mới chính mình.là những suy nghĩ bước đầu của cá nhân người viết, hi vọng có

thể nâng cao hơn hiệu quả những tiết day- học thuộc kiểu bài này, giúp học sinh
sử dụng các đơn vị ngôn ngữ Tiếng việt tốt hơn trong giao tiếp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói riêng là bộ mơn quan
trọng trong hệ thống chương trình giảng dạy ở trường THCS. Nó cung cấp cho
học sinh vốn ngôn ngữ. Một công cụ giáo tiếp giúp cho học sinh nói đúng viết
đúng tiến tới nói hay và viết hay tiếng Việt.
Mặt khác dạy Tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và yêu
tiếng mẹ đẻ.
Với phạm vi đề tài Rèn năng lực tư duy, hệ thống hóa kiến thức nhằm
nâng cao hiệu quả các giờ dạy tổng kết Tiếng Việt trong chương trình Ngữ
văn lớp 9 cho học sinh THCS Quảng Đông, tôi xin đề cập đến việc: nghiên cứu
tìm ra những phương pháp để dạy tốt một bài ôn tập Tiếng Việt cho học sinh
THCS nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng. Chương trình Ngữ văn 9 giành một
thời lượng cho các phần ôn tập, tổng kết, không chỉ ôn tập phần tổng kết những
vấn đề của lớp 9 mà của cả cấp học, về Tiếng Việt số tiết ôn tập, tổng kết và
kiểm tra gần bằng số tiết học bài mới. Phối hợp một cách hợp lí có hiệu quả việc
ôn tập tổng kết và cung cấp kiến thức mới. Rèn khả năng ghi nhớ kiến thức, sắp
xếp các đơn vị kiến thức từ lớp 6 đến lớp 9; năng lực tổng hợp và khái quát vấn
đề, kỹ năng so sánh đối chiếu kiến thức của học sinh . Như vậy, với phân môn
Tiếng Việt nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới không chỉ cung cấp kiến
thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ viết câu và liên kết câu trong
văn bản mà còn có khả năng vận dụng rộng rãi trong việc phân tích văn bản
trong phân mơn Văn và phân mơn Tập làm văn.
Muốn thực hiện được điều đó, học sinh phải tích cực chủ động trong sự
chuẩn bị bài; giáo viên phải giúp các em xâu chuỗi mở rộng và nâng cao kiến
thức thông qua những câu hỏi và bài tập. Để từ đó rèn luyện kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết Tiếng Việt thành thạo, tạo lập được văn bản và giữ gìn sự trong sáng
của Tiếng Việt.
2



1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nhóm phương pháp này nhằm thu
thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nhóm phương pháp này nhằm thu
thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài như:





Phương pháp điều tra;
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm GD;
Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.

- Phương pháp thống kê toán học
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Thực hiện Công văn số 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2017 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (GDĐT) về việc hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ
thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất. Dạy học
phát triển năng lực, phẩm chất, người học được xem như một nội dung giáo dục,
một phương pháp giáo dục như phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp
dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Điểm khác nhau giữa các phương
pháp là ở chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học có yêu cầu cao
hơn, mức độ khó hơn, đòi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng dạy
nói chung cao hơn trước đây
Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy học trước đây,
việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực sẽ làm cho việc dạy và việc học

được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách
con người…
Trong quan niệm dạy học mới (tổ chức) một giờ học tốt là một giờ học phát
huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người
học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri
thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư
tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngồi những u cầu
có tính chất truyền thống như: Bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc
trưng môn học; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh (HS); giờ học
đổi mới PPDH còn có những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc
GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện
phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được
thực hiện theo nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa HS với
nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người
học. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được
ngun tắc “Học sinh tự mình hồn thành nhiệm vụ học tập với sự tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên”.
Tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển năng, phẩm chất
cũng không phải là mới. Tuy nhiên, quá trình tổ chức dạy học để phát huy năng
3


lực cá nhân, tạo điều kiện cho học sinh được sáng tạo và tương trợ lẫn nhau
trong học tập thì mỗi tiết học cần sự thay đổi và thay đổi cụ thể trong mỗi giáo
viên. Một thay đổi cần làm cụ thể, thiết thực và quan trọng để dạy học hình
thành, phát triển phẩm chất, năng lực của cá nhân là lập kế hoạch, tổ chức một
số tiết học.
Theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc: Năng lực là khả năng
huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại

công việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung và
năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ người
nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện
trên từng lĩnh vực khác nhau như năng lực đặc thù mơn học là năng lực được
hình thành và phát triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên.
Dạy học Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là
thông qua môn học, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt và có tổ
chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng
hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất
định. Các năng lực đặc thù của môn học gồm: năng lực giao tiếp tiếng Việt và
năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ. Ngoài ra, học sinh cũng cần
được phát huy các năng lực khác như: năng lực giải quyết vấn đề, giao tiếp, sáng
tạo, hợp tác, tự quản bản thân,…
Để phát huy năng lực của học sinh cần đổi mới phương pháp dạy học
Như vậy, để có thể dạy học môn Tiếng Việt theo hướng phát triển năng lực,
đòi hỏi giáo viên phải có năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực
xã hội, năng lực cá thể. Giáo viên không chỉ là người nắm chắc văn bản, kiến
thức cần truyền thụ mà cần có khả năng định hướng, dẫn dắt học sinh giải quyết
các vấn đề trong thực tiễn; đặc biệt trong xây dựng câu hỏi định hướng cho học
sinh chuẩn bị bài, tránh phụ thuộc quá nhiều vào câu hỏi trong sách giáo khoa.
Để thực hiện có hiệu quả những tiết tổng kết Tiếng Việt thực sự là khó khăn,
thử thách với cả thầy và trò. Nhất là đối với HS nông thôn như trường THCS
Quảng Đông chúng tôi - điều kiện kinh tế gia đình và nhà trường còn vô vàn
những khó khăn, các em không có cơ hội để được làm quen với các loại sách
tham khảo hay tài liệu học tập khác ngoài sách giáo khoa, khả năng tư duy và hệ
thống hóa kiến thức còn hạn chế cho nên bài giảng của GV (giáo viên), sự
hướng dẫn của thầy sẽ là một thứ tài liệu chuẩn và vơ cùng q giá để các em
hiểu và nắm sâu hơn kiến thức.
Chính từ những suy nghĩ trên - là một GV dạy Ngữ văn THCS, tôi luôn trăn
trở, cố gắng tìm tòi và mạnh dạn chọn đề tài Rèn năng lực tư duy, hệ thống hóa

kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả các giờ dạy tổng kết Tiếng Việt trong
chương trình Ngữ văn lớp 9 cho học sinh THCS Quảng Đông hi vọng rằng
bản thân có thể đưa ra những ý kiến nhỏ, những kinh nghiệm nhỏ để đồng
nghiệp góp ý, giúp tôi có thể góp phần vào việc đổi mới những giờ dạy có hiệu
quả hơn

4


PHẦN THỨ 2 – NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Về phía người dạy :
Trong các giờ dạy - học thuộc ba phân môn của Ngữ văn, thiết kế và tổ
chức thi công một giờ dạy học Tiếng Việt có lẽ là nhẹ nhàng hơn với những giáo
viên có tri thức Tiếng việt vững vàng. Thực tế giảng dạy trong nhiều năm qua
cho thấy đã có một số giáo viên thành công ở các tiết dạy học lí thuyết Tiếng
Việt, phương pháp dạy học nhóm bài lí thuyết Tiếng Việt đã được định hình
tương đối rõ. Song với các tiết tổng kết Tiếng Việt, thực sự chưa có nhiều tiết
dạy thành công. Dạy - học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ nhưng dạy học
Tiếng Việt cần phải có tư duy chính xác lơ gíc và khoa học hơn.
Một bộ phận nhỏ giáo viên chỉ “ Mõ tre sách in”, sách giáo khoa thế nào
thì cứ thế tiến hành; đương nhiên, sách giáo khoa được xem là “ Pháp luật”, yêu
cầu “Cứng” của chương trình. Song nếu chỉ dựa hồn tồn vào SGK thì giờ dạy
sẽ khơ cứng, thiếu tính thực tiễn, việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh
là khó thực hiện. Những tiết tổng kết Tiếng Việt còn là thử thách lớn hơn với
giáo viên, bởi để thực hiện được những tiết dạy này, người giáo viên phải có một
hệ thống tri thức vững vàng từ lớp 6 đến lớp 9. nếu là người chưa từng dạy cả 4
lớp hoặc chưa đầu tư thời gian nghiên cứu chương trình của tồn cấp học sẽ khó
hồn thành nội dung trong các tiết tổng kết Tiếng Việt. Trong khi đó sách giáo
viên - tài liệu hướng dẫn quan trọng của chúng ta thì lại khơng có những hướng

dẫn cụ thể phần lớn chỉ là những định hướng thiết kế theo các đề mục trong sách
giáo khoa hoặc là lời giải đáp các bài tập theo yêu cầu. Phần hệ thống hoá kiến
thức, xâu chuỗi mở rộng và nâng cao kiến thức, phương pháp làm các dạng bài
tập thì sách giáo viên chưa đề cập tới. Đó thực sự là những khó khăn với người
đứng lớp
Về phía người học
Ta thấy rất rõ : học sinh thích học Tiếng Việt hơn Tập làm văn nhưng lại
thích học tiết lí thuyết Tiếng Việt hơn những tiết tổng kết Tiếng Việt. Vì sao như
vậy? Vì khả năng ghi nhớ kiến thức, sắp xếp các đơn vị kiến thức từ lớp 6 đến
lớp 9 của các em chưa cao; năng lực tổng hợp và khái quát vấn đề, kỹ năng so
sánh đối chiếu kiến thức của học sinh còn yếu. Bên cạnh đó, các em có thể làm
được những bài tập nhận diện nhưng chưa làm tốt những bài tập phân tích giá trị
của đơn vị ngơn ngữ (Phân tích giá trị biểu cảm của từ, của dấu câu, phân tích
giá trị của biện pháp tu từ....), bài tập thực hành sử dụng các đơn vị ngơn ngữ, kỹ
năng trình bày bài tập của học sinh chưa tốt.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Năng lực tổng hợp và khái quát vấn đề, kỹ năng so sánh đối chiếu kiến thức
của học sinh còn yếu. Bên cạnh đó, các em có thể làm được những bài tập nhận
diện nhưng chưa làm tốt những bài tập phân tích giá trị của đơn vị ngơn ngữ
(Phân tích giá trị biểu cảm của từ, của dấu câu, phân tích giá trị của biện pháp tu
từ...), bài tập thực hành sử dụng các đơn vị ngơn ngữ, kỹ năng trình bày bài tập
của học sinh chưa tốt.
5


Kết quả: Bài Khảo sát: Bài kiểm tra 15 phút
Tiếng Việt)
Xếp
Yếu
Trung bình

SL
TL% SL TL%
Lớp
9A (33 HS)
5
15,1
23
69,8
9B (30 HS)
4
12,9
20
66,9

( Đã bỏ bài kiểm tra 1 tiết
SL
5
6

Khá
TL%
15.1
19,2

SL

Giỏi
TL%

0

0

2.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
2.3.1. Xác định chính xác, đầy đủ mục tiêu cần đạt ở các tiết tổng kết Tiếng
Việt
Chúng ta đã biết, mục tiêu chung trong dạy- học Tiếng việt là giúp học sinh
“Nắm được những đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của các loại đơn vị tiêu biểu
của từng bộ phận cấu thành Tiếng việt (Đơn vị cấu tạo từ, đơn vị từ vựng, từ loại
chính, kiểu câu thường dùng); “Nắm được những tri thức về ngữ cảnh về ý định,
về mục đích, về hiệu quả giao tiếp; nắm được các quy tắc chi phối việc sử dụng
Tiếng việt để giao tiếp trong nhà trường cũng như ngoài xã hội”. Và “Trung tâm
của việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh là làm cho các em có kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết Tiếng Việt thành thạo”. Từ mục tiêu chung đó, từng tiết dạy, từng nhóm
bài Tiếng Việt sẽ có những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể.
Ở những tiết dạy - học lí thuyết Tiếng Việt, học sinh phải nắm được đặc
điểm cấu tạo, công dụng, phân loại... của các đơn vị ngôn ngữ, từ đó vận dụng
tri thức đã học để giải các bài tập theo yêu cầu.
Nếu tiết luyện tập Tiếng Việt chú trọng việc giải bài tập, tiết ôn tập là củng
cố, xâu chuỗi kiến thức của một chương, một phần... để giải quyết các bài tập thì
tiết tổng kết Tiếng Việt có yêu cầu và nhiệm vụ cao hơn.
Ở những tiết học này, học sinh phải củng cố, khắc sâu, hệ thống hoá kiến
thức cơ bản, có mở rộng và nâng cao về các đơn vị ngôn ngữ Tiếng việt đã học
từ lớp 6 đến lớp 9; học sinh được rèn luyện năng lực so sánh, tổng hợp, khái
quát vấn đề; kĩ năng trình bày bài tập Tiếng Việt theo từng mức độ, thực hiện
tích hợp ngang với phần Văn, phần Tập làm văn đang học. Qua những tiết tổng
kết Tiếng Việt, cả giáo viên và học sinh phải có cái nhìn tổng quan về chương
trình của tồn cấp học. Từ đó, học sinh sẽ có ý thức hơn, sử dụng đạt hiệu quả
hơn những đơn vị kiến thức đã học trong giao tiếp.
Vì sao chúng ta phải đặt ra vấn đề này? Bởi vì, khi nắm vững mục tiêu bài
dạy là giáo viên đã có nhận thức đúng đắn về yêu cầu nhiệm vụ của bài, từ đó sẽ

có định hướng cho việc thiết kế và thi công, lựa chọn phương pháp phù hợp cho
từng đối tượng.
2.3.2. Xác định dung lượng kiến thức cần tổng kết ở từng tiết, sắp xếp,
bổ sung phù hợp.
Thực ra, tổng kết Tiếng việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 chính là
tổng kết tồn bộ những kiến thức cơ bản, trọng tâm của phân môn Tiếng việt
trong tồn cấp học. Với thời lượng ít ỏi (Tổng kết từ vựng học kì I: 6 tiết; Tổng
kết ngữ pháp học kì II: 3 tiết), nếu người giáo viên khơng xác định trọng tâm
6


kiến thức, dung lượng kiến thức cần chuyển tải đến từng đối tượng học sinh, sắp
xếp chúng theo trình tự, thì khó hồn thành nội dung các tiết dạy này. SGK chỉ
đề ra những nội dung cần tổng kết, chưa phân định nội dung lớn nhỏ, hệ thống
bài tập chưa đa dạng... giáo viên cần phải sắp xếp, bổ sung hệ thống kiến thức
và bài tập giúp HS có thể dễ dàng củng cố kiến thức, hình thành và rèn luyện
thói quen tư duy khoa học ...
Trên cơ sở nghiên cứu SGK, chương trình cấp học, người viết đã sắp xếp
lại hệ thống kiến thức cần tổng kết, bổ sung một số kiến thức và bài tập ở các
tiết học vào bảng sau đây:
Tiết theo phân phối chương trình mới của Trường THCS Quảng Đông
năm học 2020-2021
Phần kiến
thức

Tiết số

Tổng kết từ
vựng


39

Đơn vị kiến thức cần Kiến thức được sắp xếp,bổ
ôn tập (Theo SGK)
sung
I. Từ đơn, từ phức

I. Phân loại từ theo cấu
tạo:

40

1. Từ đơn.
II. Thành ngữ
2. Từ phức
III. Nghĩa của từ
II.Thành ngữ
IV. Từ nhiều nghĩa và
III. Nghĩa của từ
hiện tượng chuyển
IV. Từ nhiều nghĩa và hiện
nghĩa của từ
tượng chuyển nghĩa của từ
V. Từ đồng âm
1. Khái niệm
VI. Từ đồng nghĩa
2. Cách giải thích
VII. Từ trái nghĩa
nghĩa từ.
VIII. Cấp độ khái

3. Một số hiện tượng
quát nghĩa của từ
về nghĩa từ (6 hiện tượng
IX. Trường từ vựng
từ mục IV đến mục IX
SGK)

7


42

60

I. Từ mượn
I. Phân loại từ theo
II. Từ Hán – Việt
nguồn gốc và phạm vi sử
III. Từ ngữ địa dụng
phương và biệt ngữ
1.Theo nguồn gốc :
xã hội
- Từ thuần việt
- Từ mượn: từ Hán –
Việt, từ mượn của ngôn
ngữ châu Âu
2. Theo phạm vi sử
dụng
- Từ ngữ địa phương
- Biệt ngữ xã hội

I Từ tượng thanh,
I. Gía trị biểu cảm của
tượng hình .
từ.
II.Một số biện pháp
II. Một số biện pháp tu
tu từ từ vựng
từ từ vựng

64

Luyện tập tổng

Bổ sung thêm một số
bài tập phân tích giá trị biểu
cảm của từ, giá trị của phép
tu từ lấy từ các văn bản Văn
đang học

155

A. Từ loại
B. Cụm từ

A. Từ loại
B. Cụm từ
1. Khái niệm
2. Cấu tạo của 3 loại
cụm từ


156
157

C. Thành phần

hợp

Tổng kết
ngữ pháp

câu

C. Thành phần câu
D. Các kiểu câu:
I. Câu chia theo cấu

D. Các kiểu câu:
I. Câu đơn.
trúc:
II. Câu ghép
1. Câu đơn.
IV. Các kiểu câu
2. Câu ghép
ứng với mục đích nói
II. Câu chia theo mục
III. Biến đổi câu đích nói
E. Biến đổi câu

Nhìn vào bảng hệ thống hố trên, chúng ta đã xác định được hệ thống kiến
thức cơ bản cần chuyển tải, định hình rõ đơn vị kiến thức lớn, nhỏ; từ đó phân

định thời gian tổng kết cho các đơn vị kiến thức.
2.3.3. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở các tiết tổng kết Tiếng Việt
8


Nếu giáo viên phải nghiên cứu nội dung, chương trình SGK để xác định
đơn vị kiến thức cần tổng kết, lựa chọn phương pháp phù hợp thì học sinh cũng
phải chuẩn bị tốt cho những tiết tổng kết Tiếng việt.
Sau mỗi giờ học, bao giờ cũng có phần củng cố kiến thức và hướng dẫn
chuẩn bị bài mới. Trước những tiết tổng kết Tiếng việt, giáo viên phải dành thời
gian nhiều hơn để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, nếu chỉ trả lời những câu
hỏi và bài tập trong SGK, học sinh chỉ việc chép “Để học tốt Ngữ văn” mà
không cần phải tư duy hoặc đọc lại kiến thức cũ. Trong khi đó, phần lớn kiến
thức được tổng kết đã học từ lâu, học sinh quên nhiều, thậm chí quên hết. Vậy
nên hướng dẫn học sinh như thế nào?
Trên cơ sở đã xác định dung lượng kiến thức cần tổng kết trong giờ học,
giáo viên phải đưa ra hệ thống câu hỏi và bài tập cho các đối tượng học sinh:
Với học sinh trung bình – yếu, phải yêu cầu các em đọc lại toàn bộ kiến thức cũ,
hồn thành bảng hệ thống hố (Theo các mục ở phần 4.1 của SKKN này) trước
khi đến lớp; với học sinh khá giỏi, chỉ yêu cầu đọc lại kiến thức cũ mà khơng
nhất thiết phải hồn thành bảng hệ thống hoá nhưng phải nghiên cứu trước một
số bài tập nâng cao cần sử dụng so sánh, phân tích.
Ở tiết 60, ta thấy HS phải đọc, nhớ lại kiến thức của từ tượng thanh, từ
tượng hình trong chương trình Ngữ văn lớp 8; chín biện pháp tu từ Tiếng việt
được học trong tồn cấp:
Lớp 6: So sánh, nhân hố, ẩn dụ, hoán dụ
Lớp7: Điệp ngữ, liệt kê,chơi chữ
Lớp 8: Nói quá, nói giảm nói tránh
Ở tiết 155: HS phải nhớ lại 12 từ loại được học rải đều trong 3 lớp:
Lớp 6: 7 từ loại, gồm có: Danh từ, động từ, tính từ, số từ, chỉ từ, lượng

từ, phó từ
Lớp7: 2 từ loại là đại từ và quan hệ từ
Lớp 8: 3 từ loại là trợ từ, thán từ, tình thái từ
Và 3 cụm từ: cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ học ở lớp 6
Nhìn vào những đơn vị kiến thức này, thử nghĩ xem, nếu HS không đọc
và nhớ lại kiến thức cũ, không chuẩn bị bài, liệu trong thời lượng 1, 2 tiết trên
lớp có thể đủ để GV và HS hoàn thành nội dung tổng kết? Điều đó cho thấy,
việc chuẩn bị bài của HS có vai trò quan trọng trong sự thành công của giờ dạyhọc tổng kết Tiếng việt.
2.3.4. Hướng dẫn và tổ chức cho học sinh thực hiện các giờ dạy tổng kết
Tiếng Việt trên lớp đạt hiệu quả

9


Hướng dẫn HS củng cố, khắc sâu kiến thức qua việc hồn thành bảng
hệ thống hố.
Đây là cơng việc cần làm đầu tiên trong các tiết tổng kết Tiếng việt. Có thể
thực hiện công việc này theo nhiều cách với nhiều hình thức khác nhau.Ở
đây,người viết xin trình bày một số cách thức tiến hành:
Cách1: HS hoàn thành bảng hệ thống hoá (sơ đồ tư duy) ở nhà, đến giờ
học, GV sử dụng bảng phụ (máy chiếu), ghi đầy đủ, chính xác những nội dung
kiến thức cần tổng kết, HS tự đối chiếu, bổ sung vào vở soạn ở nhà.
Cách 2: Hướng dẫn HS, qua hệ thống câu hỏi, nhắc lại kiến thức cần ghi
nhớ, GV lần lượt điền nội dung vào bảng, HS chốt kiến thức vào vở, công việc
này tách thành phần riêng, trước khi làm bài tập
Cách 3: Hồn thành bảng hệ thống hố (Sơ đồ tư duy) song song với việc
giải các bài tập có liên quan, HS sử dụng cùng lúc 2 loại vở: Vở bài tập và vở
ghi trên lớp (hiện nay, cuốn vở bài tập mới do Nguyễn Khắc Phi chủ biên có rất
nhiều ưu thế).
Việc sử dụng cách nào là do năng lực của mỗi GV, do từng đối tượng HS:

Cách 1 đỡ phần ghi trên lớp của HS, dành thời gian để làm bài tập nhưng chỉ áp
dụng được với những HS tích cực và tự giác học tập, có khả năng tự học.
Cách 2 có tính chất rạch ròi giữa lý thuyết và thực hành nhưng lại khó
khắc sâu kiến thức qua bài tập, khó xâu chuỗi, mở rộng và nâng cao kiến thức.
Có lẽ, cách 3 chiếm nhiều ưu thế hơn cả nhưng nó đòi hỏi người GV phải biết
chọn bài tập cho từng phần kiến thức, phải luyện cho HS kỹ năng ghi chép, sự
tập trung theo dõi giờ học, những thao tác... và cả tốc độ ghi bài.
Để hồn thành bảng hệ thống hố có thể sử dụng một số hình thức sau
trong các giờ trên lớp:
Hình thức 1:
Kẻ vào bảng chính.
Hình thức 2:
Dùng bảng phụ bằng giấy để bóc dán.
Hình thức 3:
Dùng bảng phụ chép chưa đầy đủ nội dung để HS điền tiếp.
Hình thức 4:
Dùng máy chiếu...
GV cần linh hoạt sử dụng các hình thức này trong các tiết tổng kết Tiếng
việt. Bởi lẽ, việc đặt câu hỏi để hồn thành bảng hệ thống hố dễ gây nhàm
chán, thường có sự lặp lại. Việc sử dụng giáo án điện tử có lẽ sẽ đem lại hứng

10


thú học tập nhiều hơn cho học sinh. Phần lớn các đơn vị ngôn ngữ Tiếng việt cần
tổng kết có thể được đưa vào bảng hệ thống hoá sau đây.
(có thể xem là mẫu chung, GV điều chỉnh cho phù hợp với từng đơn vị
kiến thức).

Tên đơn vị


Khái niệm,

kiến thức

đặc điểm

Phân loại

Tác dụng–
cách sử dụng

Ví dụ

Trong bài viết này, người viết xin trình bày bảng hệ thống hố có thể sử
dụng cho một phần lớn nội dung cần tổng kết ở tiết 55:
- Tổng kết từ vựng:

Phép
Khái niệm
tu từ
Đối chiếu hai
hay nhiều sự
vật, sự việc có
những nét
tương đồng

Phân loại
- So sánh
ngang bằng

- So sánh
không ngang
bằng

Tác dụng- cách sử
dụng

Làm nổi bật đặc
điểm tính chất... của
So
sự vật sự việc được
sánh
so sánh; sử dụng
trong miêu tả, biểu
cảm...
Gọi, tả vật
Trò chuyện,
Sự vật hiện
bằng những xưng hô với
tượngtrở nên gần
từ ngữ dùng
vật như với
gũi thân thiết,có đời
để gọi tả
người
sống tâm hồn,cách
Nhân người
- Dùng những diễn đạt sinh động
hoá
từ miêu tả hoạt và gợi cảm hơn; sử

động, tính
dụng trong tự sự,
chất...của
miêu tả, biểu cảm...
người để chỉ
vật
Gọi tên sự vật - Ẩn dụ phẩm - Tăng sức gợi hình
hiện tượng
chất
gợi cảm
này bằng tên
- Ẩn dụ cách
- Nội dung biểu đạt
Ẩn
của sự vật
thức
trở nên sâu sắc, kín
dụ
hiện tượng
- Ẩn dụ hình
đáo, tế nhị...
khác có những thức
Sử dụng trong tác
nét tương
- Ẩn dụ
phẩm văn học,

Ví dụ
Cầu cong như
chiếc lược ngà

Sơng dài mái
tóc cung nga
bng hờ
Chị tre chải tóc
bên ao
Nàng mây áo
trắng ghé vào
soi gương

Ngày ngày mặt
trời đi qua trên
lăng
Thấy một mặt
trời trong lăng
rất đỏ
11


đồng

chuyển đổi
cảm giác
Gọi tên của sự - Lấy bộ phận
vật hiện tượng để chỉ tồn thể
Hốn này
Lấy dấu hiệu,
dụ
bằng tên của
đặc điểm để
sự vật hiện

chỉ vật mang
tượng khác có dấu hiệu,đặc
sự gần gũi
điểmLấy vật
chứa đựng để
chỉ vật bị chứa
đựng...
Điệp
ngữ

Nói
quá

Nói
giảm
nói
tránh
Liệt


Chơi
chữ

trong đời sống
Tạo thêm sắc thái ý
nghĩa, tăng sức gợi
hình, gơi cảm cho
lời diễn đạt, sử
dụng trong nhiều
văn cảnh


Áo chàm đưa
buổi phân ly
Cầm tay nhau
biết nói gì hơm
nay

Nhấn mạnh ý, nổi
Lặp đi,lặp lại
Điệp ngữ cách bật đối tượng, gây
một từ, một
quãng tiếp
ấn tượng cảm xúc,
ngữ có dụng ý
tạo nhịp điệu cho
nghệ thuật
- Điệp ngữ
lời diễn đạt,sử dụng
chuyển tiếp
nhiêu trong biểu
(Điệp ngữ
cảm…
vòng)
Phóng đại đặc
Nhấn mạnh, gây ấn
điểm, quy mơ,
tượng, tăng sức biểu
tính chất của
cảm, sử dụng để
SVHT nhằm

trào phúng, châm
dụng ý nhất
biếm…
định

Một bếp lửa
chờn vờn sương
sớm
Một bếp lửa ấp
iu nồng đượm.

Dùng cách
diễn đạt tế nhị
uyển chuyển

- Tránh gây cảm
giác đau buồn, ghê
sợ, nặng nề; tránh
thô tục, thiếu lịch
sự. - Sử dụng trong
nhiều văn cảnh
Diễn tả được đầy đủ
hơn, sâu sắc hơn
những khía cạnh
khác nhau của thực
tế hay của tư tưởng

Bác đã đi rồi
sao Bác ơi,
Mùa thu đang

đẹp nắng xanh
trời

Tạo ra những cách
hiểu thú vị, lời diễn
đạt hài hước, dí
dỏm.

Nhớ nước đau
lòng con cuốc
cuốc.
Thương nhà mỏi
miệng cái gia

Sắp xếp nối
tiếp
hàng loạt từ
hay cụm từ
cùng loại
nhằm mục
đích nhất định
Lợi dụng sự
đặc sắc về âm,
vần để tạo ra
những
cách
diễn đạt mới

-Liệt kê từng
cặp - không

theo cặp
-Liệt kê tăng
tiến, liệt kê
không tăng
tiến
- Điệp âm
- Đồng âm
- Đồng
nghĩa….

Đêm tháng năm
chưa nằm đã
sáng. Ngày
tháng mười
chưa cười đã
tối

Cá nhụ, cá
chim cùng cá
đé. Cá song lấp
lánh đuốc đen
hồng

12


gia.
Tại sao phải lập bảng hệ thống hoá? Có thể trình bày theo kiểu liệt kê kiến
thức được khơng? Có phải bất kỳ tiết tổng kết Tiếng việt nào cũng cần sử dụng
bảng hệ thống hố? Có lẽ là khơng phải! Việc sử dụng bảng hệ thống hoá còn

tuỳ thuộc vào nội dung cụ thể của từng tiết ,vào năng lực khái quát vấn đề của
từng giáo viên... Song ta nhìn thấy rất rõ, khi sử dụng bảng hệ thống hố, kiến
thức đã được trình bày rõ ràng, khoa học, khúc chiết giúp HS dễ nhớ kiến
thức,dễ so sánh đối chiếu, dễ rèn luyện năng lực khái quát và tổng hợp, từ đó các
em sẽ tư duy khoa học và logíc hơn.
Hướng dấn học sinh làm bài tập để mở rộng, nâng cao những kiến
thức Tiếng Việt cần tổng kết
Công việc này có thể dược tiến hành song song với q trình hệ thống hố
kiến thức hoặc có thể được tiến hành đồng thời khi làm các bài tập theo yêu cầu.
Vấn đề là, GV phải xác định những đơn vị kiến thức nào cần được mở rộng và
nâng cao, từ đó đặt câu hỏi và lựa chọn bài tập phù hợp giúp HS mở rộng nâng
cao kiến thức, rèn luyện năng lực so sánh, đối chiếu, phân tích và khái quát vấn
đề.
Khi dạy tiết 39- tổng kết từ vựng, qua BT2, phần I- trang 122 SGK tập1,
yêu cầu HS chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa từ ghép và từ láy; qua BT2,
phần II trang 123- SGK tập1, yêu cầu HS phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
Khi dạy tiết 42, để mở rộng và nâng cao kiến thức, có thể sử dụng một số
câu hỏi sau: Từ Hán - Việt có những tác dụng gì? Tìm một số trường hợp có sử
dụng từ Hán –Việt và chỉ ra giá trị của chúng? Giữa sự phát triển từ vựng và trau
dồi vốn từ có mối quan hệ như thế nào? Cách phát triển nghĩa của từ có điểm gì
giống và khác với các biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ? Hãy làm BT5- trang57
SGK tập 1
Khi dạy tiết 156,157 - tổng kết ngữ pháp, GV có thể đặt ra vấn đề: Trong
giao tiếp, vì sao phải sử dụng nhiều loại câu? Câu ghép có những tác dụng gì?
Khi nào người ta sử dụng liên tục những câu rút gọn?
Việc mở rộng và nâng cao kiến thức thường được áp dụng cho những đối
tượng HS khá giỏi, tuy nhiên ở một mức độ nào đó, HS trung bình cũng có thể
tham gia được. Đây cũng là cách kích thích tư duy, rèn năng lực sáng tạo cho
HS, gắn lý thuyết với thực tiễn giao tiếp. Tuy vậy trong thực tế, ở các giờ tổng
kết Tiếng Việt giáo viên chưa chú ý đến hoạt động này. Nếu chúng ta không lưu

tâm đến việc mở rộng nâng cao kiến thức thì khi học sinh gặp những bài tập khó
hoặc những đề thi học sinh giỏi, các em không thể tự mình giải quyết các bài
tập.
Hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức Tiếng Việt đã tổng kết
để làm bài tập theo các mức độ khác nhau.
Dạy - học Tiếng Việt bao giờ cũng phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản:
Hướng vào hoạt động giao tiếp, gắn lý thuýêt với thực hành, tiếp cận vấn đề
trong mối quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức. Bất kỳ một tiết Tiếng Việt
nào cũng phải luyện tập thực hành qua hệ thống bài tập. Trong tiết tổng kết
Tiếng Việt, việc hướng dẫn HS làm bài tập có thể được tiến hành song song với
việc củng cố lý thuyết hoặc đươc tách thành phần riêng, sau phần ôn tập lý
13


thuyết. Ở đây, người viết xin trình bày 3 dạng bài tập điển hình trong Tiếng Việt,
những yêu cầu và cách trình bày bài tập ở từng dạng
Những dạng bài tập điển hình
Những bài tập(BT) nhận diện
Dạng BT này yêu cầu HS phải phát hiện các đơn vị ngôn ngữ trong những
văn cảnh cụ thể. Bởi vậy, HS phải dựa vào khái niệm, đặc điểm, bản chất... của
các đơn vị ngơn ngữ theo u cầu để xác định chính xác ,đầy đủ. Những bài tập
thuộc dạng này giúp HS củng cố, nắm vững hơn kiến thức đựơc tổng kết; từ đó
sử dụng chúng đúng, hay hơn trong giao tiếp và viết bài Tập làm văn.
Ví dụ: BT1- phần I -A trang 130 SGK tập 2: Trong số các từ in đậm sau
đây: Từ nào là danh từ, từ nào là động từ, từ nào là tính từ? Để làm được bài tập
này, hiển nhiên HS phải nhớ lại khái niệm, đặc điểm của 3 từ loại đồng thời phải
xét nghĩa của từ trong văn cảnh. Dạng bài tập này có thể được trình bày theo 3
cách sau đây:
Cách 1: Liệt kê: Ví dụ: - Danh từ : Lăng, làng, bài thơ......
- Động từ : Đọc, đập, phục dịch,...

- Tính từ : Hay, đột ngột, sung sướng,...
Cách2: Kẻ bảng
Danh từ
Lăng, làng,
thơ...

Động từ
bài Đọc, đập, phục dịch...

Tính từ
Hay đột ngột, sung sướng

Cách 3: Gạch chân dưới các từ ngữ:
Trên đây là bài tập nhận diện ở mức độ đơn giản, cũng là BT nhận diện
nhưng có những BT khó hơn : ta quan sát mụcV, phần 2- trang 124 SGK tâp 1:
Trong 2 trường hợp(a) và (b) sau đây, trường hợp nào có hiện tượng từ nhiều
nghĩa, trường hợp nào có hiện tượng từ đồng âm?
a)Từ “lá” trong:
Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà sao em xa anh
Đời vẫn xanh rời rợi.
Và trong: Công viên là lá phổi của thành phố.
b)Từ “đường” trong : Đường ra trận mùa này đẹp lắm.
và trong: Ngọt như đường.
Để trả lời câu hỏi này, HS phải giải nghĩa từ trong văn cảnh, đối chiếu
nghĩa của từ trong văn cảnh với nghĩa gốc, căn cứ vào khái niệm về từ đồng
âm,từ nhiều nghĩa mới có thể kết luận và khẳng định: Từ “lá” trong trường hợp
(a) là từ nhiều nghĩa vì nghĩa của chúng có liên quan đến nhau, từ “đường” trong
trường hợp (b) là từ đồng âm vì nghĩa của chúng khác xa nhau

Những BT phân tích giá trị của đơn vị ngơn ngữ
Dạng BT này thường đựơc kết hợp với dạng BT nhận diện, khi phân tích
giá trị của đơn vị ngơn ngữ thì trước hết phải nhận diện đơn vị ngơn ngữ đó.
Dạng này sử dụng chủ yếu trong các tiết tổng kết từ vựng. Để giúp HS làm được
14


những BT này,GV cần hướng dẫn các em phân tích kỹ yêu cầu đề, nhớ lại kiến
thức về các đơn vị ngôn ngữ, xem xét nội dung cụ thể trong các BT, có thể dùng
thao tác so sánh, phân tích... chỉ ra tác dụng của chúng .Về dạng BT này,người
viết chỉ trình bày 2 loại BT phân tích giá trị đơn vị ngơn ngữ thường gặp (phân
tích giá trị biểu cảm của từ, phân tích giá trị của phép tu từ)
- Về BT phân tích giá trị biểu cảm của từ:
Ở tiết Luyện tập tổng hợp, chúng ta xem xét BT1 - trang 158, SGK tập1.
Yêu cầu của đề là: So sánh hai dị bản của câu ca dao:
(1)Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon
(2) Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon
Cho biết trong trường hợp này, gật đầu hay gật gù thể hiện thích hợp hơn ý
nghĩa cần biểu đạt. Vì sao?
Yêu cầu thực chất của đề bài là phân tích giá trị biểu cảm của từ gật gù
trong bài ca dao. Cần tiến hành thực hiện dạng BT này theo các bước sau đây:
Bước1: Giải thích nghĩa của từ trong văn cảnh
Gật gù: gật nhẹ và nhiều lần, biểu thị thái độ đồng tình tán thưởng
Bước 2: Đặt từ vào văn cảnh , xem xét khả năng biểu đạt của nó, có thể so
sánh với những từ ngữ khác (đồng nghĩa hoặc gần nghĩa)
Gật đầu là từ đồ ng nghĩa với gật gù nhưng nó có những nét nghĩâ khác,
gật đầu là cúi đầu xuống rồi ngẩng lên ngay, thường để chào hỏi hay tỏ sự đồng
ý. Đặt vào văn cảnh của bài ca dao, ta thấy từ gật gù biểu đạt thích hợp hơn cảnh

và tình mà tác giả dân gian muốn nói.
Bước 3: Chỉ rõ giá trị biểu cảm của từ
Trong bài ca dao, từ láy gật gù có giá trị biểu cảm lớn, nó khơng chỉ thể
hiện thái độ đồng tình, tán thưởng, sự hài lòng của người nói mà còn góp phần
làm nổi bật cảnh đầm ấm, hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ trong cuộc sống gia
đình đạm bạc.
Những BT phân tích giá trị biểu cảm của từ có ý nghĩa lớn trong việc rèn
luyện kỹ năng phân tích từ ngữ ở các tác phẩm văn chương nhằm nâng cao
năng lực cảm thụ Văn- đích cần đến của Tiếng việt.
Chúng ta hãy xem xét trường hợp sau đây:
Phân tích giá trị biểu cảm của từ “đi” trong các câu sau :
(1) “ Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” (Trích “ Con cò” –Chế Lan
Viên)
(2)
“ Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
(Trích “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”- Nguyễn Duy)
Trong BT này có 3 từ “đi”, yêu cầu HS phải chỉ ra được nét nghĩa
chung và nét nghĩa riêng của các từ để khẳng định giá trị biểu cảm của chúng
trong từng văn cảnh.
Theo nghĩa gốc, đi là người (động vật) tự di chuyển bằng những động
tác liên tiếp của chân, lúc nào cũng vừa có chân tựa trên mặt đất, vừa có chân
15


giơ lên đặt tới chỗ khác (Theo Từ điển Tiếng Việt). Trong những câu thơ trên,
đi không nằm trong nét nghĩa đó nữa mà nên hiểu đi là sống, trải qua, là hiểu ;
đi khơng tính bằng quãng đường mà được tính bằng thời gian, năm tháng, đời
người, bằng sự đồng cảm sẻ chia…

Trong lời thơ của Chế Lan Viên, đi chính là cả cuộc đời mẹ, suốt cuộc
đời mẹ từ trẻ đến già, từ khi con thơ dại đến khi con khôn lớn trưởng thành, đó
là cả cuộc đời gian truân, vất vả , tần tảo lam lũ vì con, hy sinh cho con , mẹ đã
đi qua mọi thử thách thăng trầm của cuộc sống vì tình yêu thương con.Từ đi đã
góp phần khẳng định tình mẹ mãi vững bền, thiêng liêng và sâu sắc; nó gợi
trong lòng bạn đọc bao suy nghĩ nỗi niềm....
Trong “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, Nguyễn Duy không nói mẹ đi mà là
con đi, mỗi chúng ta đi- trọn vẹn cả kiếp người.Từ đi diễn tả một thời gian dài
được đặt trong sự đối lập với “mấy lời mẹ ru” - thời gian mấy phút, người con
hiểu, đồng cảm và sẻ chia cùng mẹ những vất vả gian lao... Đặt vào hoàn cảnh ra
đời của bài thơ, ta thấy được lòng trắc ẩn, niềm biết ơn kính trọng của tác giả với
người mẹ của mình qua đó khẳng định ý nghĩa sâu sắc của lời ru đối với cuộc
đời con người......
BT phân tích giá trị biểu cảm của từ thường được trình bày dưới dạng lời
văn, đoạn văn. Điều này đòi hỏi HS không chỉ có tri thức Tiếng việt mà còn
phải có năng lực cảm thụ Văn, năng lực diễn đạt. Vì vậy, để hướng dẫn HS
thực hiện được dạng BT này, người GVcũng phải rèn luyện năng lực về nhiều
mặt.
- Bài tập về phân tích giá trị của phép tu từ
Yêu cầu chung của các BT này là chỉ rõ tác dụng, giá trị của phép tu từ
trong những văn cảnh cụ thể ( thường là các văn bản thơ hoặc các văn bản văn
xuôi giàu chất thơ). Nhược điểm lớn nhất của HS khi làm dạng BT này là nhắc
lại lý thuyết chung chung, không chỉ ra được tác dụng cụ thể của phép tu từ
trong văn cảnh nào đó. Có thể hướng dẫn HS trình bày dạng BT này theo các
bước sau đây:
Bước 1: Phát hiện, gọi tên đầy đủ, chính xác các phép tu từ có trong văn
cảnh.
Bước 2 Chỉ rõ những từ ngữ thực hiện các phép tu từ
Bước3: Căn cứ vào tác dụng của phép tu từ về phương diện lý thuyết, căn
cứ vào nội dung cụ thể của văn cảnh, chỉ ra tác dụng của từng phép tu từ (Làm

nổi bật đối tượng nào? Về những đặc điểm,tính chất trạng thái gì? Nhấn mạnh
nội dung nào? Thể hiện thái độ tình cảm gì của người viết?...)
Bước 4: Trình bày những nhận xét, đánh giá chung về tác dụng của các
phép tu từ trong văn cảnh.
Chúng ta áp dụng cách trình bày này vào một BT cụ thể: Tiết 55- tổng kết
từ vựng, phần II – Bài tập 2b trang 147- SGK tập 1
Đề bài: Vận dụng kiến thức đã học về một số phép tu từ từ vựng để phân
tích nét nghệ thuật độc đáo của những câu thơ sau:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngồi
16


Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
(Truỵện Kiều -Nguyễn Du)
Bài làm: Đoạn thơ trên sử dụng nhiều phép tu từ: so sánh, liệt kê, điệp ngữ.
Trong đó, phép so sánh là nổi bật nhất.Nhà thơ đã so sánh tiếng đàn của Kiều
với nhiều hình ảnh thiên nhiên: Trong như tiếng hạc, đục như tiếng suối mới sa,
khoan như gió thoảng, tiếng mau như trời đổ mưa. Phép so sánh đã thể hiện
những vẻ đẹp khác nhau trong tiếng đàn của Kiều, khẳng định tài năng tình cảm
của nàng gửi vào tiếng đàn, đồng thời làm rõ quan niệm thẩm mỹ của các nhà
thơ trung đại: lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực. Bên cạnh phép so
sánh, ta thấy phép liệt kê cũng có vai trò quan trọng. Nó đã diễn tả nhiều cung
bậc khác nhau , nhiều sắc thái ý nghĩa khác nhau trong tiếng đàn kỳ diệucủa
nàng Kiều. Điệp ngữ “tiếng” đã nhấn mạnh ý và gây ấn tượng cho bạn đọc về
tiếng đàn. Có thể nói, nhờ việc sử dụng nhiều biện pháp tu từ từ vựng, tác giả đã
ngợi ca tiếng đàn của Kiều với sự thấu hiểu và trân trọng đặc biệt, ta cũng hiểu
thêm vẻ đẹp tâm hồn tài năng cũng như nỗi lòng Kiều.
BT đã được trình bày dưới dạng đoạn văn - đây là yêu cầu cần đạt tới của

dạng BT này. Trong quá trình viết bài, HS có thể làm gộp bước 2 và bước 3; với
những HS trung bình, yếu có thể chỉ yêu cầu các em trình bày dưới dạng ý hoặc
chỉ yêu cầu phân tích giá trị của một phép tu từ nổi bật.
Trên đây, ngưòi viết đã trình bày 2 loại BT trong dạng BT phân tích giá trị
của đơn vị ngơn ngữ, dạng đề này thường được sử dụng trong các đề thi HS giỏi
hoặc những đề thi vào lớp 10 THPT chuyên hoặc không chuyên.Trong thực tế,
những BT này thực sự có tác dụng hỗ trợ và nâng cao năng lực cảm thụ văn
chương, giúp HS viết tốt hơn, hay hơn những bài văn nghị luận tác phẩm thơ,
nghị luận tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ văn 9.
Dạng BT thực hành, sử dụng các đơn vị ngôn ngữ
Dạng BT này yêu cầu HS phải sử dụng các dơn vị ngôn ngữ để tạo lập văn
bản nói, văn bản viết. Ở những tiết tổng kết Tiếng Việt ít xuất hiện dạng này.
Giáo viên nên lồng ghép chúng vào phần ôn tập lý thuyết bằng cách cho HS đặt
câu hoặc viết một đoạn văn có sử dụng đơn vị ngôn ngữ vừa tổng kết, cũng nên
tích hợp nội dung cần trình bày với phần Văn,Tập làm văn đang học, với thực
tiễn giao tiếp, với các địa chỉ tích hợp khác trong chương trình (mơi trường, ma
tuý,...)
Khi dạy tiết 40, có thể giao BT : Viết một đoạn văn bàn về hiện tượng ô
nhiễm môi trường ở địa phương em, trong đó có sử dụng từ đồng nghĩa, một số
tù ngữ cùng trường từ vựng.
Khi dạy tiết 155,156, có thể cho HS luyện thêm ở BT: Đặt một câu ghép
nói về tình hình của lớp em hiện nay. Hoặc có thể: Viết đoạn văn trình bày cảm
nghĩ về nhân vật Phương Định, trong đó có dùng câu nghi vấn, câu cảm thán....
Hoặc: Viết đoạn văn (Từ 12 đến 15 dòng) giới thiệu truyện ngắn “Cố hương”
của Lỗ Tấn, gạch chân dưới thành phần khởi ngữ, thành phần biệt lập trong đoạn
văn vừa viết.
Nếu thời gian trên lớp không cho phép, ta có thể giao những BT này về nhà
nhằm giúp các em tiếp tục củng cố, khắc sâu kiến thức, luyện tập thực hành giao
tiếp có hiệu quả hơn những đơn vị ngôn ngữ đã tổng kết.
17



2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Có thể thấy rằng có rất nhiều cách thức để tiếp cận một đơn vị kiến thức tiếng
Việt như phân tích, gợi tìm, đưa ra tình huống có vấn đề... nhưng có lẽ để tiếp
cận với tác phẩm văn học thì Rèn năng lực tư duy, hệ thống hóa kiến thức
nhằm nâng cao hiệu quả các giờ dạy tổng kết Tiếng Việt trong chương trình
Ngữ văn lớp 9 cho học sinh THCS Quảng Đông là rất quan trọng và không thể
thiếu. Qua việc áp dụng cho học sinh trường THCS Quảng Đơng tơi nhận thấy
đa số các em u thích học môn văn, bước đầu các em có kĩ năng tự khai thác,
phân tích giá trị của một đơn vị kiến thức Tiếng Việt để tiếp nhận tác phẩm văn
học, tạo lập văn bản có sáng tạo. Cụ thể:
Sau một thời gian đưa những vấn đề trên vào thực tế dạy - học tôi đã thu
được kết quả sau:
Bài kiểm tra Khảo sát 15 phút (Đã bỏ bài kiểm tra 1 tiết)
Xếp
Yếu
Trung bình
Khá
SL TL% SL
TL% SL
TL%
Lớp
9A (33 HS)
0
0
13 39,4
15
45,5

9B (30 HS)
0
0
9 30,1
15
49,9

Giỏi
SL
TL%
5
6

15,1
20,0

Qua kết quả nêu trên chứng tỏ rằng: Sau khi vận dụng năng lực tư duy, hệ
thống hoá kiến thức số lượng học sinh khá, giỏi tăng lên, số học sinh trung bình,
yếu đã có bước giảm đáng kể. Như vậy, có thể khẳng định: Rèn năng lực tư duy,
đổi mới phương pháp dạy học, kích thích hứng thú học tập của học sinh đã mang
lại những kết quả khả quan.

PHẦN THỨ 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Đổi mới phương pháp dạy học là trên cơ sở tiếp thu những phương pháp dạy
học truyền thống, người thầy phải tìm ra những phương pháp, biện pháp cụ thể
cho từng kiểu bài, từng dạng bài, từng đối tượng học sinh. Trong ba phân môn
của Ngữ văn, Tiếng Việt là phân mơn có tính chất cơng cụ, là phương tiện thể
hiện tư duy, tạo lập các kiểu văn bản theo yêu cầu của Tập làm văn.
Trên đây là những suy nghĩ của người viết và những suy nghĩ ấy đã được

áp dụng vào quá trình dạy –học những tiết tổng kết Tiếng Việt vài năm qua.Có
thể, sẽ có nhiều GV nghĩ rằng: cứ tổng kết lý thuyết theo các đề mục của SGK ,
làm các bài tập theo thứ tự đã có là được rồi .Vâng, như thế cũng không sai ,
18


song cá nhân tôi nhận thấy: Qua những tiết tổng kết Tiếng Việt, HS không chỉ
cần củng cố kiến thức mà cần biết mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức , sự
bao hàm giữa chúng; HS phải phân định được đơn vị ngôn ngữ lớn hơn, đơn vị
ngôn ngữ nhỏ hơn- đó cũng chính là cách rèn luyện tư duy lơ-gíc khoa học ,
giúp HS có cái nhìn tổng quát về chương trình.Bởi vậy, GV phải định hướng,
sắp xếp, bổ sung kiến thức, hướng dẫn học sinh đưa vào bảng hệ thống hoá.
Muốn thực hiện được điều đó, học sinh phải tích cực chủ động trong sự chuẩn bị
bài; giáo viên phải giúp các em xâu chuỗi mở rộng và nâng cao kiến thức thông
qua những câu hỏi và bài tập. Mặt khác, sau những tiết tổng kết Tiếng Việt, HS
không chỉ luyện các bài tập mà còn được khắc sâu hơn phương pháp, cách làm
từng dạng BT theo yêu cầu. Để từ đó rèn luyện kĩ năng kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết Tiếng Việt thành thạo, tạo lập được văn bản và giữ gìn sự trong sáng của
Tiếng Việt.
3.2. Kiến nghị:
Rèn năng lực tư duy, hệ thống hóa kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả các
giờ dạy tổng kết Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 cho học sinh
THCS, tạo khơng khí sơi động trong giờ dạy học Tiếng Việt, đặc biệt là những
giờ dạy ôn tập tổng kết Tiếng Việt lớp 9, tạo hứng thú cho các em học tập, làm
cho nhiều HS yêu thích mơn học hơn thì trong q trình dạy học GV phải chú ý
các biện pháp sau đây:
1, Phải nhấn mạnh vai trò của GV trong việc tổ chức và hướng dẫn HS thực
hiện các tiết tổng kết Tiếng Việt. Người thầy phải có một hệ thống tri thức
vững vàng về Tiếng việt ở toàn cấp học, có năng lực khái quát tổng hợp vấn
đề, có nhạy cảm ngôn ngữ, thường xuyên trau dồi ngôn ngữ , rèn luỵên năng

lực cảm thụ văn chương.
2, GV phải căn cứ vào nội dung từng bài, từng đối tượng HS để xác định
dung lượng kiến thức cần tổng kết, lựa chọn bổ sung hệ thống bài tập phù
hợp nhằm củng cố khắc sâu kiến thức có mở rộng nâng cao, đảm bảo tính tích
hợp của mơn học. Giáo viên phải chủ động, linh hoạt sáng tạo trong từng giờ
trên lớp.
3, Chú trọng rèn luyện kỹ năng hệ thống hoá kiến thức, so sánh, phân
tích; năng lực cảm thụ văn chương... cho HS, thực hiện nguyên tắc dạy- học
Tiếng Việt, hưóng dẫn HS trình bày các bài tập Tiếng Việt theo yêu cầu của
từng dạng đề.
4, Phải động viên, khuyến khích HS trong các giờ học, tạo tình huống học
tập, áp dụng cơng nghệ thông tin, gây hứng thú học tập để bản thân mỗi HS tự
nhận thấy: học Tiếng Việt- tiếng mẹ đẻ là thực sự cần thiết và hạnh phúc.
5, Sau mỗi tiết tổng kết Tiếng Việt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tiếp
tục luyện tập, nâng cao hơn nữa kỹ năng làm bài tập Tiếng Việt , năng lực sử
dụng Tiếng Việt trong giao tiếp và viết bài Tập làm văn. Giáo viên cũng phải
ln đổi mới chính mình, tích cực học tập và rèn giũa để nâng cao chất lượng
các giờ dạy tiếp theo.
6. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn:
GV nhà trường trao đổi về những nội dung cơ bản:
19


- Thực trạng đổi mới PPDH môn Tiếng Việt và đánh giá HS theo định hướng
phát triển năng lực HS
- Yêu cầu đổi mới PPDH và đánh giá HS theo định hướng phát triển năng lực
- Cách thức đổi mới PPDH và đánh giá HS trong môn Tiếng Việt theo định
hướng phát triển năng lực
Trên đây là kinh nghiệm của cá nhân trong quá trình dạy học: Rèn năng lực
tư duy, hệ thống hóa kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả các giờ dạy tổng kết

Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 cho học sinh THCS Quảng Đông.
Bản thân tôi mạnh dạn áp dụng và thực tế đã đạt hiệu quả cao ở đơn vị trường
THCS Quảng Đông được nhóm, tổ chuyên môn và ban giám hiệu đánh giá cao.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả giờ dạy và tạo hứng thú cho HS học tập bộ môn
Tiếng Việt nói riêng và môn Ngữ văn nói chung rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để cho vấn đề được hoàn
thiện hơn và có ý nghĩa thực tiễn cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TP Thanh Hóa ngày 5 tháng 4 năm 2021
CAM KẾT KHƠNG COPPY
Kí tên:

Lê Thị Thu

20



×