Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ TỰ NHIÊN VÀ YẾU TỐ XÃ HỘI ĐẾN SỨC KHỎE CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO SỨC KHỎE CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.12 KB, 28 trang )

\

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-------------

TRẦN QUANG TUYNH

ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ TỰ NHIÊN VÀ YẾU TỐ XÃ HỘI
ĐẾN SỨC KHỎE CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO
SỨC KHỎE CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-------------

TRẦN QUANG TUYNH

ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ TỰ NHIÊN VÀ YẾU TỐ XÃ HỘI
ĐẾN SỨC KHỎE CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO
SỨC KHỎE CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành


: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử

Mã số

: 62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn 1
2

: PGS.TSKH Lương Đình Hải
: PGS. TS Phạm Cơng Nhất

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................... 0
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ YẾU TỐ TỰ NHIÊN, YẾU
TỐ XÃ HỘI VÀ SỨC KHỎE CON NGƢỜI ................................ 14
1.1. Quan niệm triết học về yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội của con
ngƣời ........................................................................................................................... 14
1.1.1. Sơ lược một số quan niệm trong lịch sử............................................ 14
1.1.2. Quan điểm mác xít ................................................................................... 16
1.2. Mối quan hệ giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội của con ngƣời ........ 23
1.2.1. Một số quan điểm ngồi mác xít ............................................................. 23

1.2.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa yếu
tố tự nhiên và yếu tố xã hội của con người ....................................... 30
1.3. Sức khoẻ con ngƣời .................................................................................... 35
1.3.1. Một số quan điểm về sức khoẻ trong lịch sử ..................................... 35
1.3.2. Quan điểm hiện đại về sức khoẻ ....................................................... 41
Chƣơng 2. ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ TỰ NHIÊN VÀ YẾU TỐ
XÃ HỘI ĐẾN SỨC KHỎE CON NGƢỜI ........................................ 49
2.1. Ảnh hƣởng của các yếu tố tự nhiên đến sức khỏe con ngƣời ................... 49
2.1.1. Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên bên ngoài con người ................. 49
2.1.2. Ảnh hưởng của quá trình trao đổi chất với sức khoẻ ......................... 57
2.1.3. Khả năng tự vệ của con người và sức khoẻ ...................................... 65
2.1.4. Vai trò của quá trình tự điều chỉnh của cơ thể đối với sức khỏe ....... 73
2.2. Ảnh hƣởng của yếu tố xã hội đến sức khỏe con ngƣời ........................... 81
2.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố kinh tế đến sức khỏe ...................................... 83
2.2.2. Ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với sức khỏe ........................ 92
2.2.3. Ảnh hưởng của lối sống đến sức khỏe ............................................ 104
2.2.4. Ảnh hưởng của hệ thống y tế đến sức khỏe .................................... 116


Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM CHĂM SÓC,
BẢO VỆ VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE CON NGƢỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY ........................................................................... 131
3.1. Nhóm giải pháp tác động đến mặt tự nhiên nhằm nâng cao sức
khỏe con ngƣời Việt Nam hiện nay ................................................................ 131
3.1.1. Giữ gìn và cải tạo mơi trường tự nhiên trong sạch góp phần
nâng cao sức khỏe nhân dân ............................................................ 131
3.1.2. Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ........... 134
3.2. Nhóm giải pháp tác động đến mặt xã hội nhằm chăm sóc, bảo
vệ và nâng cao sức khỏe con ngƣời Việt Nam hiện nay .............. 144
3.2.1. Đẩy mạnh cải tạo các quan hệ kinh tế - xã hội, xây dựng môi

trường xã hội trong sạch lành mạnh nâng cao sức khỏe nhân
dân ................................................................................................... 144
3.2.2. Xây dựng lối sống lành mạnh, ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn xã
hội nâng cao sức khỏe nhân dân ...................................................... 147
3.2.3. Phát huy tốt hơn nữa vai trò của hệ thống y tế trong chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe nhân dân ................................................................ 160
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 171
DANH MỤCCƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN........ 174
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 175


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự nhiên. Vấn đề con
người luôn là một trong những vấn đề trọng tâm, nóng bỏng của hiện thực đời sống
xã hội được các nhà lí luận, các nhà khoa học chú trọng nghiên cứu để cố gắng tìm
ra những câu trả lời thỏa đáng trên những phương diện khác nhau.
Bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ tạo dựng nền văn minh mới, văn minh tin
học, phát triển con người trở thành mục tiêu trọng tâm của sự phát triển xã
hội. Do vậy, vấn đề con người, tâm lý con người, nhân cách con người, trí tuệ
con người, tiềm năng con người và nguồn lực con người lại nổi lên mạnh mẽ.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã đặt con người vào vị trí trung tâm
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia coi chiến lược
phát triển con người là cốt lõi của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Phát
triển con người là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển văn hoá và tăng
trưởng kinh tế.
Từ Đại hội VI, ĐCSVN đã khẳng định vai trò quyết định của nhân tố
con người trong tiến trình phát triển xã hội. Các kỳ Đại hội tiếp theo của
Đảng cũng luôn khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển kinh tế, xã hội. Đại hội XI của ĐCSVN nhấn mạnh: “Phải bảo đảm

quyền con người… nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài,
chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội” [28, tr. 100]. Đảng ta đã
nhận thấy con người là vốn quí nhất - là vốn của mọi nguồn vốn, là lực của
mọi nguồn lực.
Khi Đảng ta xác định: “… con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và
mục tiêu của sự phát triển” [28, tr. 30] thì sức khỏe cũng chính là nguồn lực
phát triển hay nói cách khác là yếu tố rất quan trọng trong nguồn lực lao
động. Cộng đồng quốc tế và các công ước quốc tế đều cho sức khỏe là một
trong những “nhu cầu cơ bản bậc nhất” của cuộc sống con người, và cao hơn
nữa sức khỏe được xem là một trong những quyền con người, có nghĩa là sức
khỏe của mỗi người được tôn trọng, mỗi cá nhân và nhà nước đều có trách
nhiệm thực hiện quyền này. Với mỗi người, có sức khỏe là có thể có tất cả,
khơng có sức khỏe sẽ khơng làm được gì cho bản thân, gia đình và xã hội.
Với một quốc gia, sức khỏe của người dân là một trong những nguồn lực
2


quyết định nhất đến sự phát triển của xã hội, nó có vai trị trực tiếp sử dụng
và phát huy tốt nhất vai trò của các nguồn lực khác của xã hội. Nhận thức rõ
vấn đề này, Đại hội XI của ĐCSVN đã nhấn mạnh: "phát triển mạnh sự nghiệp
y tế, nâng cao chất lượng cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân" [28, tr. 128].
Tuy nhiên, sức khỏe con người bao gồm: sức khỏe thể chất, sức khỏe
tinh thần và sức khỏe xã hội. Nó bị qui định và chịu sự tác động rất mạnh mẽ
của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội, bên trong và bên ngồi con người. Hai
yếu tố này có mối quan hệ biện chứng và tác động thường xuyên, liên tục
trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của con người.
Điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta đã và đang xuất hiện
những yếu tố để củng cố, phát triển sức khỏe cho con người, nhưng bên cạnh
đó cũng xuất hiện ngày càng nhiều các yếu tố cả tự nhiên và xã hội có ảnh

hưởng tiêu cực đến sức khỏe: các đại dịch mới như căn bệnh SARS,
HIV/AIDS hiện đang hồnh hành, lỗ thủng tầng ơzơn, el-ninơ và những thảm
họa môi sinh khác, đã và đang đe dọa sự tồn vong hoặc gây nên những khó
khăn lớn cho quá trình phát triển con người. Hơn 10 năm qua cơ cấu bệnh tật
ở Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể, mơ hình bệnh tật ở nước ta vừa có
những bệnh của nước nghèo, lại vừa có những bệnh của nước đang phát triển;
những bệnh liên quan đến rối loạn trao đổi chất và hoạt động thần kinh trung
ương như: vữa xơ động mạch, bệnh thiếu máu cơ tim, tăng huyết áp, thừa
cân, bệnh tiểu đường, v.v.. đang có xu hướng gia tăng. Nhu cầu CSSK của
người dân ngày càng cao và đa dạng, trong khi khả năng đáp ứng của hệ
thống y tế còn hạn chế, chi phí cho CSSK ngày càng tăng, có sự chênh lệch
khá lớn về chỉ số sức khỏe giữa các vùng, miền gây ảnh hưởng rất lớn đến
mục tiêu đảm bảo công bằng trong y tế. Tình hình đó, đã và đang đặt ra
những vấn đề rất cơ bản, cấp thiết về lý luận và thực tiễn trong việc chăm
sóc, bảo vệ sức khoẻ và phát triển con người ở nước ta hiện nay.
Trong những năm qua, ở nước ta cũng như trên thế giới đã có nhiều
cơng trình, đề tài nghiên cứu về con người dưới nhiều góc độ khác nhau và
có giá trị đáng kể. Tuy nhiên, dưới góc độ triết học nghiên cứu quan hệ giữa
yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội nhằm nâng cao sức khoẻ phục vụ sự nghiệp
phát triển con người Việt Nam chưa có nhiều và đang là vấn đề có tính cấp
thiết cần được quan tâm nghiên cứu.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: Ảnh hưởng của yếu tố tự
nhiên và yếu tố xã hội đến sức khoẻ con người và vấn đề nâng cao sức khoẻ
3


con người Việt Nam hiện nay làm luận án tiến sĩ triết học chuyên ngành chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề con người luôn là vấn đề trung tâm của các thời đại, các ngành

khoa học ra đời và phát triển đều hướng tới việc phục vụ con người. Vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề con người nói chung, nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình vận động, phát triển và sức khoẻ con người nhằm nâng
cao đời sống của con người đã được nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử.
Các trường phái triết học phương Đơng cổ, trung đại thường nhìn nhận
con người với tư cách là một thực thể bao gồm hai phần thể xác và linh hồn.
Các quan niệm về bệnh tật và sức khoẻ của họ đều tìm cách giải thích những
trạng thái bên trong cơ thể con người gắn liền với những yếu tố của mơi
trường bên ngồi. Nổi bật nhất trong số các quan niệm đó là học thuyết âm
dương và ngũ hành trong triết học Trung Hoa cổ đại.
Ở phương Tây ngay từ thời cổ đại đã có nhiều nhà triết học nghiên cứu
tìm hiểu về con người và có những quan điểm khác nhau, đã có những đại biểu
đưa ra những tiêu chí để phân biệt giữa con người và con vật. Ngay từ thế kỷ IV
trước công nguyên Hypôcrát một danh y của Hy Lạp đã có cơng tách y học khỏi
ảnh hưởng của tơn giáo, đưa ra thuyết thể dịch để giải thích các hiện tượng sức
khoẻ và bệnh tật. Theo ông, thầy thuốc cần chú ý đến cách sinh hoạt, chế độ ăn,
tuổi tác, hoàn cảnh sống của người bệnh, đất đai, nguồn nước, thời tiết địa
phương nơi có dịch bệnh. Tuy chưa đưa ra khái niệm yếu tố tự nhiên, yếu tố xã
hội và chỉ ra một cách cụ thể ảnh hưởng của nó đến sức khoẻ con người, song
ơng đã biết bệnh tật có những nguyên nhân hiện diện ở con người, ở môi trường
xung quanh con người và diễn tiến theo các quy luật tự nhiên.
Thời Phục hưng vấn đề con người đã được nhiều nhà triết học, khoa học
nghiên cứu, các môn khoa học về con người như: giải phẫu học, sinh lý học,
sinh lý học thần kinh cao cấp, sinh hoá, tâm lý học, tâm thần học đã được ra đời
và phát triển. Cách nhìn con người của thời đại cũng chỉ từ hai góc độ là thể xác
và tinh thần. Thời kỳ này chưa xuất hiện khái niệm yếu tố tự nhiên, yếu tố xã
hội trong con người cũng như chưa thấy được con người là một thực thể tự
nhiên - xã hội.
Vấn đề con người và sức khoẻ con người được nhiều nhà triết học cổ
điển Đức đi sâu nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, tuy chưa dùng khái

niệm yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội nhưng G.W.F.Hêghen đã có nhiều luận
4


điểm lí giải khá sâu sắc về mối liên hệ giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội
trong con người. Ông cho rằng, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của
quá trình hoạt động của chính bản thân chủ thể ấy, hoạt động của con người
càng phát triển bao nhiêu thì ý thức càng mang bản chất xã hội bấy nhiêu, tức
là hai mặt tự nhiên và xã hội là mâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau chi
phối con người. Ông đưa ra quan niệm biện chứng về sống và chết, đồng thời
ông luận giải mối quan hệ giữa sức khoẻ và bệnh tật với mơi trường bên
ngồi, song hạn chế là ơng đã biến con người thành con người tự ý thức, coi
ý thức là phương thức tồn tại duy nhất của con người.
L.Phoiơbắc khi nghiên cứu về con người đã lấy con người sống, con
người có cảm giác là điểm xuất phát của học thuyết duy vật của mình. Theo
ơng, con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên, là một sinh vật có hình thể
vật chất ở trong khơng gian và thời gian và do vậy nó có năng lực quan sát và
suy nghĩ. L.Phoiơbắc đã phê phán cách tiếp cận về con người của các nhà
duy tâm trong triết học cổ điển Đức khi nghiên cứu con người chủ yếu như
một bản nguyên tinh thần trừu tượng, bản chất con người chỉ có tư duy, cịn
thể xác khơng thuộc về bản chất con người. Thể xác của con người là cơ sở
vật chất cho sự thống nhất của con người, là một bộ phận của thế giới khách
quan. Đặc trưng của chủ nghĩa nhân bản của L.Phoiơbắc là phủ nhận quan
điểm nhị nguyên luận về con người, đồng thời thừa nhận và luận chứng cho
quan điểm duy vật về sự thống nhất giữa tinh thần và thể xác, tư duy và tồn
tại, giữa tâm lý và sinh lý, giữa khách quan và chủ quan. Hạn chế của
L.Phoiơbắc về bản chất của con người thể hiện ở chỗ ông coi con người như
một thực thể sinh vật chứ không phải là thực thể xã hội. Ông đã đề cao mặt
sinh vật của con người khi cho rằng, bản tính tự nhiên của con người là sự ích
kỷ và sự ích kỷ ấy là phù hợp với tự nhiên và tồn tại thực sự, cho nên khi

L.Phoiơbắc nghiên cứu những vấn đề của đời sống xã hội, ông đã rơi vào duy
tâm, thần bí về cái gọi là “con người thực thể”. Hạn chế đó chỉ được khắc
phục trong quan điểm của C.Mác về con người khi ơng khẳng định:
“L.Phoiơbắc hịa tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa các quan hệ
xã hội” [63, tr. 11].
Học thuyết Mác - Lênin vừa khẳng định con người là một bộ phận của
thế giới tự nhiên, vừa khẳng định con người là một thực thể mang tính xã hội.
5


Triết học Mác nghiên cứu con người trên cơ sở là một thực thể tự nhiên - xã
hội. Trong các tác phẩm “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên” và
một số tác phẩm khác C.Mác, Ph.Ăngghen đã phân tích khá sâu sắc nguồn
gốc hình thành và phát triển của con người; vai trò của lao động và giao tiếp
xã hội trong việc quyết định bản chất con người. Tuy C.Mác và Ph.Ăngghen
không đưa ra một định nghĩa nào về sức khoẻ, bệnh tật, nhưng quan niệm của
các ông về con người là một thực thể tự nhiên - xã hội, về bản chất con
người, về mối quan hệ chặt chẽ giữa sức khoẻ, bệnh tật với các điều kiện
sống, đặc biệt là các điều kiện kinh tế - xã hội… có giá trị rất lớn, có tính
định hướng, là cơ sở cho việc nghiên cứu sức khoẻ, công tác chăm sóc và bảo
vệ sức khoẻ cho con người.
Trong triết học hiện đại khi đi sâu tìm hiểu nghiên cứu con người, yếu
tố tự nhiên và yếu tố xã hội đã được xem xét, nghiên cứu một cách tương đối
có hệ thống. Xu hướng rõ nét khi nghiên cứu vấn đề này là: duy sinh học và
duy xã hội.
Phái “Học thuyết sinh học xã hội” của chủ nghĩa hiện thực khoa học,
mà tiêu biểu là Uynxơn thì coi sinh học là cơ sở để giải thích tồn bộ hiện
thực, nhiệm vụ của phái này là nghiên cứu ranh giới giữa mặt sinh học và mặt

xã hội. Trong q trình đó họ đã tuyệt đối hoá các đặc trưng sinh học trong
bản chất con người, khơng đánh giá đúng vai trị của yếu tố xã hội. Họ đi đến
kết luận, khả năng của con người chủ yếu là do tính di truyền quyết định, còn
vai trò của yếu tố xã hội là rất nhỏ. Mặt khác, phái “Sinh học xã hội” còn cố
chứng minh một số giả thuyết cho rằng, “bản chất động vật đồng nhất với bản
chất con người” và cái khởi nguyên và cội nguồn trong con người là cái sinh học,
cịn cái xã hội là cái thứ yếu khơng bền vững.
Chủ nghĩa Đácuyn xã hội biện hộ cho bạo lực và quyền lực xã hội (kẻ
mạnh chiến thắng), nó gần với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, hệ tư tưởng
phát xít, bản chất của nó là lạm dụng các qui luật sinh học, qui luật tự nhiên
trong việc nghiên cứu con người. Ngày nay, một số người tán thành chủ
nghĩa Đácuyn xã hội vẫn sử dụng luận điểm đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự
nhiên để giải thích sự phát triển của xã hội loài người, song họ cho rằng, hiện
nay với những thành tựu của khoa học và kỹ thuật, cuộc đấu tranh sinh tồn
trở nên yếu đi. Do đó, khơng chỉ những kẻ thích nghi nhất mới tồn tại, mà cả
những kẻ khơng thích nghi nhất, lẽ ra phải chết trong hoàn cảnh trước đây
cũng vẫn tồn tại. Đó là những người “kém giá trị” và theo họ nguồn gốc của
6


mọi tai họa xã hội là do tình trạng sinh sơi nảy nở của những người đó [57].
Tiêu biểu cho những người theo chủ nghĩa hành vi là B.E.Skinơ. Đây là
một hình thức tự nhiên hố cực đoan đối với các hiện tượng xã hội, theo quan
điểm này con người trở thành cỗ máy sinh học tự động. B.E.Skinơ cho rằng,
có thể giải thích mọi kiểu hành vi của con người, kể cả sự lựa chọn, tư duy,
tình cảm thơng qua những phản ứng của con người đối với kích thích từ mơi
trường. Theo B.E.Skinơ, tất cả mọi thành cơng, sai lầm của con người đều do
mơi trường bên ngồi quyết định [141]. Nhà hành vi học K.Lorenz người Áo
khi nghiên cứu nguồn gốc của hành vi con người đã đồng nhất hành vi, bản
tính con người với hành vi của động vật, ơng cho rằng con người có bản năng

hiếu chiến. Richard Dawkins nhà hành vi học người Mỹ cho rằng, trong con
người cái bản năng, bẩm sinh đóng vai trị quyết định. Theo ơng con người có
bản tính ích kỷ bẩm sinh, nhưng có thể thay đổi một số hành vi ích kỷ khi có
sự tác động của giáo dục, của mơi trường và hồn cảnh sống [20].
Một trong những quan điểm triết học nghiên cứu về con người được
quan tâm là thuyết “Phân tâm học” của S.Freud. Trong đó ơng đã lí giải theo
cách riêng của mình về mối quan hệ giữa hành vi vô thức và hành vi bị chế
ngự bởi ý thức con người. Ý tưởng chính mà S.Freud và cả những người theo
thuyết của ông hướng tới đó là xã hội, các thiết chế xã hội, dồn ép những
khuynh hướng sơ đẳng (những bản tính tự nhiên) của con người từ khi cịn
nhỏ, chỉ dồn ép chứ khơng huỷ diệt hồn tồn, những khuynh hướng này tồn
tại ẩn dưới lớp vỏ những tập quán xã hội và lợi dụng những cơ hội bất ngờ để
thể hiện bằng những hình thức, mức độ khác nhau.
M.Prarenti giám sát tâm lý chủ yếu dựa vào duy trì “luật pháp trật tự”.
Ông cho rằng ở Mỹ “Tất cả những ai thoả mãn với điều kiện sinh tồn thì đều
bị bất ổn về nội tâm và do vậy, cần được chữa trị bằng các phương tiện giám
sát tâm lý” [142]. Như vậy, theo họ khái niệm về sức khoẻ có sắc thái chính
trị. Người khoẻ mạnh là người sống hồ bình và sẵn sàng hành động theo
mệnh lệnh của chỉ huy, còn người bệnh tật là người được sinh ra từ sự bất
bình xã hội.
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà triết học, khoa học
Liên Xô trước đây đã đi sâu nghiên cứu yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội, vai trò
và mối quan hệ của chúng đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của con
người. Trong số đó có thể kể đến một số bài viết, một số tác phẩm như: “Bản
tính tự nhiên và bản chất xã hội của con người” của E.V.Shôkôlôva [85];
7


“Hai cách tiếp cận chính của vấn đề “Cái sinh học cái xã hội” của Anđrêi
Bruslinxki [13]. Khi đề cập đến yếu tố sinh học và yếu tố xã hội của con

người trong sự sáng tạo khoa học, viện sĩ B.M.Kêđrốp và viện sĩ N.P.Đubinin
đều nhấn mạnh vai trò của các yếu tố xã hội trong mọi hành động của con
người, nhưng cũng không coi nhẹ yếu tố sinh học mà các ơng gọi đó là những
phần của tự nhiên hay là những tiền đề tự nhiên [131, 132].
Các tác giả Kaliugiơnaia và Xêrđiukơpxkaia đi sâu nghiên cứu vai trị
của yếu tố sinh học, yếu tố xã hội trong sự hình thành cơ thể và đưa ra những
định nghĩa khác nhau về yếu tố sinh học, yếu tố xã hội của con người [128].
Nhìn chung, các nhà triết học, khoa học Liên Xô cũ đã đi sâu nghiên
cứu yếu tố sinh học, yếu tố xã hội, vai trò cũng như mối liên hệ giữa chúng
trong quá trình hình thành, phát triển của con người. Từ đó, họ đi đến kết
luận: con người là một thực thể tự nhiên - xã hội, hai mặt này không tách rời
nhau, không đối lập nhau mà thống nhất biện chứng với nhau. Con người là
sản phẩm của thế giới tự nhiên nhưng được hình thành phát triển qua quá
trình lao động và quan hệ xã hội.
Ở Việt Nam trước đổi mới, dưới góc độ triết học, con người thường
được bàn đến với tư cách là con người mới xã hội chủ nghĩa mà ở đó chủ yếu
đề cập đến nghĩa vụ của cơng dân đối với đất nước, vấn đề quyền lợi, sự công
bằng xã hội cũng được đề cập đến nhưng còn mang tính tư biện, ít gắn liền
với thực tế; những nhu cầu tự nhiên, tất yếu và sức khoẻ của con người chưa
được quan tâm thích đáng. Trong điều kiện ấy, yếu tố tự nhiên và yếu tố xã
hội của con người ít được các tác giả đề cập, một trong những nghiên cứu
tiêu biểu về vấn đề này là tác phẩm “Sự hình thành con người” của tác giả
Trần Đức Thảo. Trong tác phẩm này, mặc dù ông chưa đưa ra khái niệm yếu
tố tự nhiên và yếu tố xã hội, nhưng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử ông đã luận giải sâu sắc mối liên hệ giữa yếu tố
tự nhiên, yếu tố xã hội và yếu tố tâm lý của con người. Trong định nghĩa trừu
tượng về con người ông đã viết: “động vật hai chân, sản xuất ra các phương
tiện sinh sống của mình, biết nói và suy nghĩ trong xã hội. Đó là con người.”
[87, tr. 123]. Đây là một trong những khái niệm khoa học về con người, góp
phần xây dựng cơ sở lý luận cho việc tiếp cận, nghiên cứu yếu tố tự nhiên,

yếu tố xã hội cũng như mối quan hệ giữa chúng cho các nhà khoa học nước ta
sau này.
Từ khi đổi mới (1986) đến nay, trong các Nghị quyết của các kỳ Đại
8


hội, ĐCSVN đã đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách kinh tế
- xã hội, thì việc nghiên cứu về con người ngày càng được chú trọng hơn.
Các cơng trình nghiên cứu về con người ở nước ta đã đề cập đến nhiều mặt,
nhiều khía cạnh khác nhau, chủ đề được đề cập nhiều hơn trong các cơng
trình nghiên cứu là nguồn gốc, bản chất con người, nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất, quyền con người, mối liên hệ giữa con người với tự
nhiên, cái tự nhiên và cái xã hội hay yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học và yếu
tố xã hội của con người…
Trong đó, có một số cơng trình có tính chất lý luận góp phần xây dựng
cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phát triển con người ở nước ta trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, tiêu biểu là một số các bài viết, các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả: Vũ Trọng Dung [22], Lê Quang Hoan [46], Đặng
Xuân Kỳ [50], Hồ Sĩ Quí [83], Đặng Hữu Toàn [94], Trần Văn Toàn [95],
Nguyễn Anh Tuấn [111], Nguyễn Minh Tâm [114]… Những cơng trình này
đã đi sâu nghiên cứu, phân tích làm rõ thêm những luận chứng khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất con người góp phần xây dựng
cơ sở lý luận cho các nhà triết học cũng như các nhà khoa học chuyên ngành
đi vào nghiên cứu nhằm mục tiêu phát triển con người, vì hạnh phúc của con
người và tiến bộ xã hội.
Một số cơng trình nghiên cứu có tính chất tổng hợp, đề cập những vấn
đề mang tính toàn diện xác định cơ sở cho chiến lược con người và sự phát
triển xã hội như các đề tài cấp Nhà nước: “Con người Việt Nam mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” mang mã số KX – 07, “Xây dựng
văn hóa phát triển con người và nguồn nhân lực thời kỳ CNH - HĐH” do

giáo sư, viện sĩ Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm đề tài. Bên cạnh đó là các
cơng trình của cá nhân các tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn [16], Phạm Minh
Hạc [35, 36], Nguyễn Văn Huyên [51], Vương Thị Bích Thủy [91]… Các
cơng trình này đã khẳng định vị trí, vai trị của con người trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta trong thời kỳ CNH - HĐH và đưa ra một số quan điểm mới về
sự phát triển và tiến bộ xã hội. Đồng thời khẳng định, triết học phải lấy cái
đích đó là vì sự tiến bộ và phát triển, vì hạnh phúc của con người, giúp con
người hướng đến những giá trị chân, thiện, mỹ; triết học có nghĩa vụ góp
phần làm tăng thêm khả năng của con người trong quá trình nhận thức và cải
tạo thế giới khách quan phục vụ các nhu cầu vật chất và tinh thần của con
người.
9


Một số tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn [15, tr. 13], Trần Đức Long
[57, tr. 17], Vũ Thiện Vương [125, tr. 30], Vũ Tùng Hoa [44], Nguyễn Thừa
Nghiệp [74]… đã trực tiếp đi vào nghiên cứu yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh
học, yếu tố xã hội, mối quan hệ giữa yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học và
yếu tố xã hội của con người. Dựa trên những luận cứ khoa học, các tác giả
đã đạt được những kết quả nghiên cứu khá sâu sắc, hệ thống về mối liên hệ
và vai trò của yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội của con
người, là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phát triển con người, đồng
thời, đặt ra những vấn đề, những hướng nghiên cứu mới cho các nhà triết học
cũng như các nhà tư tưởng, các nhà khoa học nước ta tiếp tục đi sâu vào
nghiên cứu giải đáp.
Các tác giả: Trần Phương Hạnh [38], Vũ Trọng Hùng [50], Phạm Thành
Hổ [48], Nguyễn Đình Khoa [54], Phạm Thị Ngọc Trầm [107, tr. 26]… trên
cơ sở thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đi sâu nghiên cứu nguồn
gốc, cấu trúc sinh thể và những khả năng của con người - sinh vật hoàn chỉnh
nhất của thế giới tự nhiên. Từ đó, khẳng định con người chính là đối tượng để

triết học và các khoa học khác tiếp tục nghiên cứu, rút ra những cơ sở lý luận
khoa học cho mục tiêu phát triển con người toàn diện của Đảng trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta.
Đặc biệt, dưới góc độ y - sinh học, các tác giả: Lê Nam Trà [ 96, 97, 98,
99, 100, 101, 102, 103], Từ Giấy [32], Nguyễn Văn Tường [97, 103],
Nguyễn Trần Hiển [103], Đỗ Đức Vân [103]… đã đi sâu nghiên cứu tương
đối tổng thể về thể lực, các đặc điểm tăng trưởng, đặc điểm sinh thể, chỉ số
sinh học, chỉ số sinh lý, chỉ số sinh hóa, tình trạng dinh dưỡng, tình trạng sức
khỏe, khả năng thích nghi của con người Việt Nam ở cả trạng thái bình
thường và bệnh lý với mơi trường tự nhiên và xã hội, v.v.. Các cơng trình
này đã góp phần củng cố và làm rõ thêm nhiều những kết luận khoa học hết
sức có ý nghĩa về con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng như:
“Các chỉ tiêu sinh học liên quan rất chặt chẽ với các yếu tố di truyền, đặc
điểm môi trường và xã hội cũng như tình trạng dinh dưỡng” [96, tr. 30]; “Tất
cả các đặc điểm của môi trường tự nhiên có tác động đến các đặc điểm sinh
học, đến tình trạng sức khỏe và mơ hình bệnh tật ở Việt Nam” [96, tr. 32];
“… nhằm nâng cao sức khỏe, cải tạo giống nịi, trong đó đặc biệt chú trọng là
các biện pháp về dinh dưỡng và các biện pháp rèn luyện cơ thể.” [96, tr.
50]… là những luận chứng khoa học rất quan trọng cho việc nghiên cứu con
10


người Việt Nam nói chung và q trình chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho con
người ở nước ta hiện nay.
Những năm gần đây, lĩnh vực sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ xuất hiện
những vấn đề mới có tính chất thời sự, cấp thiết, đã có nhiều tác giả, với các
cơng trình nghiên cứu đề cập về các vấn đề này. Dưới góc độ triết học có một
số tác giả như: Trần Văn Thuỵ [92, tr. 67], Lê Hồng Khánh [53], Nguyễn
Hiền Lương [62] đã đi vào nghiên cứu khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề
sức khoẻ. Dựa trên quan điểm mácxít, các tác giả đã nghiên cứu một số yếu

tố ảnh hưởng đến sức khoẻ, bệnh tật của con người, bước đầu đưa ra các giải
pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng của công tác chăm sóc và bảo vệ
sức khoẻ cho nhân dân. Một số tác giả khác đi vào nghiên cứu những lĩnh
vực y tế cụ thể như vấn để bảo hiểm y tế, chính sách y tế, chăm sóc sức khoẻ
cho người nghèo, mơ hình bệnh tật, vấn đề y đức hay thống kê, tổng kết về
bệnh tật ở nước ta hiện nay tiêu biểu là một số bài viết, công trình của cố
GS.TS.Đỗ Nguyên Phương, GS.TS.Lê Ngọc Trọng, PGS.TS.Trần Thị Trung
Chiến, TS.Lê Thế Thự, BS.Phạm Ngọc Chương...
Như vậy, ở nước ta đã có một số cơng trình nghiên cứu về yếu tố tự
nhiên, yếu tố sinh học, yếu tố xã hội và mối quan hệ của chúng đối với sự
hình thành, phát triển của con người; một số cơng trình đã đi vào nghiên cứu
về sức khỏe dưới góc độ triết học, góc độ y học nói chung nhưng chưa có
cơng trình nào trực diện đi vào nghiên cứu sự ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên,
yếu tố xã hội đối với sức khỏe để tìm ra những yếu tố cơ bản nổi bật ảnh
hưởng trực tiếp, thường xuyên đến sức khoẻ con người Việt Nam hiện nay để
từ đó đưa ra các luận điểm khoa học làm cơ sở lý luận cho các giải pháp tổng
thể, hiệu quả nhằm chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho con người
Việt Nam hiện nay, đây là vấn đề luận án quan tâm.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc phân tích ảnh hưởng của một số yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội
đối với sức khoẻ con người, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm chăm sóc,
bảo vệ và nâng cao sức khoẻ con người ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực mục đích nghiên cứu trên, luận án có các nhiệm vụ sau
Một là, trình bày nội dung các khái niệm yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội và
sức khỏe con người.
11



Hai là, phân tích, đánh giá ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên đến sức khoẻ
con người.
Ba là, phân tích, đánh giá ảnh hưởng của yếu tố xã hội đến sức khoẻ con người.
Bốn là, đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao sức khỏe con người ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Ảnh hưởng của yếu tự nhiên và yếu tố xã hội đến sức khỏe con người
Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ khảo sát các ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội
đến sức khỏe con người Việt Nam từ khi đổi mới (1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, những quan điểm, đường lối của ĐCSVN về con người và phát triển
con người. Đồng thời luận án cũng tham khảo các tài liệu, cơng trình nghiên
cứu, các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề luận án đề
cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kết
hợp phân tích, tổng hợp, khái qt hóa, trừu tượng hóa, lịch sử - lơgíc.
6. Cái mới của luận án
- Trên cơ sở phân tích đánh giá ảnh hưởng của một số yếu tố tự nhiên, yếu tố
xã hội đối với sức khoẻ con người, chỉ ra những yếu tố tự nhiên, xã hội cơ bản
tác động mạnh mẽ nhất đến sức khoẻ con người ở nước ta hiện nay.
- Trình bày một số giải pháp cơ bản nhằm chăm sóc, bảo vệ và nâng cao
sức khoẻ cho con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ

công tác nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề triết học trong y học tại các
trường đại học.
- Về mặt thực tiễn: Luận án có thể là cơ sở khoa học để xây dựng các
chính sách, giải pháp và đổi mới tư duy trong thực hiện chiến lược chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn hiện nay.
12


8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Phần mở đầu, phần kết luận và phần nội dung.
Phần nội dung gồm 3 chương, 7 tiết không kể danh mục tài liệu tham
khảo và danh mục chữ viết tắt.
Chương 1
QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ YẾU TỐ TỰ NHIÊN, YẾU TỐ
XÃ HỘI VÀ SỨC KHỎE CON NGƢỜI
1.1. Quan niệm triết học về yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội của con
ngƣời
1.1.1. Sơ lược một số quan niệm trong lịch sử
Yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội đã được đề cập, nghiên cứu trong lịch
sử triết học từ thời cổ đại (cả phương Đông và phương Tây), tuy nhiên, do
trình độ nhận thức, ý thức giai cấp và chịu ảnh hưởng của những quan điểm
triết học khác nhau mà quan điểm của họ về yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội là
khác nhau. Các tác giả chưa đưa ra khái niệm về yếu tố tự nhiên và yếu tố xã
hội của người, chưa nhận thức được rằng, tuy yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội có
vị trí, vai trị khác nhau trong con người nhưng chúng thống nhất với nhau, chi
phối sự hình thành, phát triển của con người.
1.1.2. Quan điểm mácxít
Trên cơ sở phân tích những tư tưởng triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con người, kế thừa những thành tựu của khoa học, luận án tập trung làm rõ và đi
đến thống nhất khái niệm về yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội sử

dụng trong luận án. Luận án sử dụng khái niệm yếu tố sinh học, yếu tố xã hội
do GS.TS.Nguyễn Trọng Chuẩn khái quát và một số nhà triết học Việt Nam
thống nhất khi cho rằng: Yếu tố sinh học của con người là những yếu tố hữu
hình, hữu cơ, những vấn đề, cái phát sinh gắn bó với tổ tiên động vật của con
người, những cái làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá thể,
như một hệ thống phục tùng các qui luật sinh học hoặc cũng có thể coi đó là tồn
bộ tiền đề sinh học của con người [15, tr.13].
Yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh
hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những sự qui định về mặt xã hội
tạo nên cá nhân con người. Trong đại đa số các trường hợp nếu thiếu chúng
thì nhiều đặc tính, nhiều cấu trúc, ví dụ: ngơn ngữ… sẽ khơng bao giờ hình
thành được [15, tr.13]. Luận án này cũng dựa trên cơ sở của khái niệm này để
nghiên cứu vấn đề đặt ra.
13


Trên cơ sở phân tích các quan điểm trong lịch sử về yếu tố tự nhiên, ếu tố
sinh học và yếu tố xã hội luận án đi đến thống nhất khái niệm yếu tố tự nhiên
của con người là tất cả những tiền đề sinh vật của con người với tư cách là
một bộ phận của thế giới tự nhiên, là những tiền đề cho sự xuất hiện con
người với tư cách là một chỉnh thể sinh vật - xã hội.
Như vậy, khái niệm yếu tố tự nhiên được dùng trong luận án có nội hàm
rộng hơn yếu tố sinh học, nó bao gồm cả yếu tố bên trong, yếu tố bên ngoài
con người; bao gồm toàn bộ các cấu tạo tự nhiên và các quá trình sinh học
của con người. Tuy nhiên, để phân biệt tuyệt đối giữa hai yếu tố này là hết
sức khó khăn địi hỏi sự phối kết hợp của nhiều ngành khoa học luận án
không đi sâu vào vấn đề này. Trong phạm vi của luận án, chúng tôi sử dụng
khái niệm yếu tố sinh học với nghĩa là một bộ phận đại diện cho yếu tố tự
nhiên. Luận án cũng chỉ xem xét một số yếu tố cần thiết cho việc xem xét
mối quan hệ giữa yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội và sức khỏe con người Việt

Nam mà thôi.
1.2. Mối quan hệ giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội của con ngƣời
1.2.1. Một số quan điểm ngồi mácxít
Bên cạnh các quan điểm của các nhà triết học, khoa học về con người,
cịn có các quan điểm của các nhà hoạt động chính trị xuất phát từ lập trường
giai cấp và lợi ích khác nhau của họ. Nhìn chung có hai quan điểm cơ bản
gần như đối lập nhau, mà đại diện là: quan điểm duy sinh học và quan điểm
duy xã hội.
1.2.1.1 Quan điểm duy sinh học
Những người theo quan điểm này đã tuyệt đối hố vai trị yếu tố sinh học
của con người. Họ coi yếu tố tự nhiên như là yếu tố quyết định trong con
người. Con người bị chi phối, quyết định bởi bộ gen di truyền, xã hội khơng
thể cải tạo được, từ đó dẫn tới họ đi đến đề cao bản năng con người.
Tiêu biểu cho quan điểm duy sinh học là: Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử;
thuyết Đácuyn xã hội; những người theo quan điểm của chủ nghĩa hiện thực
khoa học, mà tiêu biểu là nhà di truyền học người Anh Đarlingtơn, nhà hành
vi học người Áo K.Lorenz, Uynxơn và sau này là Richard Dawkins;
thuyết“Phân tâm học” của S.Freud …
1.2.1.2. Quan điểm duy xã hội
Ngược lại với quan điểm duy sinh học quan điểm duy xã hội lại đem
qui các yếu tố tự nhiên của con người vào yếu tố xã hội. Những người theo
14


quan điểm này coi yếu tố tự nhiên khơng có vai trị gì trong đời sống của con
người (kể cả sức khỏe và tài năng), tất cả đều chỉ phụ thuộc vào những điều
kiện kinh tế - xã hội. Do đó, họ đã quá nhấn mạnh, đề cao mặt xã hội của con
người mà không thấy được con người là một chỉnh thể tự nhiên - xã hội. Các
nhà xã hội học Pháp mà nổi bật là: E.Durkheim, P.Holbach, M.Blondel;
M.Sêlê; Kierkegaad (1813-1855), Nietzsche (1844-1900), K.Jaspers (18831969); những nhà “phê phán xã hội” ở Frankfurt Đức … là những đại diện

cho khuynh hướng duy xã hội.
1.2.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa yếu
tố tự nhiên và yếu tố xã hội của con người
Xuất phát từ nguyên lí quan trọng cho rằng ngay bản chất con người cũng
là sản phẩm của lịch sử, triết học Mác - Lênin đã nhận thấy trong con người, yếu
tố tự nhiên và yếu tố xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Trong con người yếu tố tự nhiên có một vai trị quan trọng, nó là điều
kiện, là tiền đề để hình thành nên yếu tố xã hội. Trong mối quan hệ với yếu tố
tự nhiên, yếu tố xã hội thể hiện một vai trò kép: một mặt, nó hạn chế yếu tố
tự nhiên, làm cho yếu tố tự nhiên có tính xã hội và khơng cịn là yếu tố tự
nhiên thuần tuý; mặt khác, nó lại tạo ra những điều kiện, những môi trường
mới - môi trường xã hội rộng lớn giúp cho yếu tố tự nhiên phát triển hơn nữa,
thể hiện tốt nhất khả năng của mình trong mối liên hệ với yếu tố xã hội.
Sự tác động qua lại giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong con người
khi tiếp nhận chương trình xã hội là rất phức tạp, vai trị của các yếu tố này có
có tính lịch sử ln thay đổi cả về cường độ và thời gian tác động.
1.3. Sức khoẻ con ngƣời
1.3.1. Một số quan điểm về sức khoẻ trong lịch sử
Do trình độ nhận thức, những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định mà
các quan niệm về sức khoẻ trước đây cả phương Đông và phương Tây phụ
thuộc nhiều vào thế giới quan của người thầy thuốc. Nhìn chung, các quan
điểm về sức khoẻ trong lịch sử là khá phong phú, mang đậm dấu ấn của lịch
sử, tư tưởng triết học và những điều kiện của các khu vực địa lý. Tuy rằng,
trong quá trình phát triển của nó có những quan điểm cịn thơ sơ, mộc mạc;
có quan điểm mang màu sắc duy vật hay duy tâm, thần bí; có quan điểm khoa
học… nhưng chúng tác động ảnh hưởng lẫn nhau, bổ sung cho nhau làm cho
quan niệm về sức khoẻ của con người ngày càng phát triển là cơ sở cho sự ra
đời của quan điểm hiện đại về sức khoẻ ngày nay.
15



1.3.2. Quan điểm hiện đại về sức khoẻ
Tổ chức y tế thế giới (WHO) đưa ra định nghĩa: “Sức khỏe là một trạng
thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ khơng chỉ khơng có bệnh
hay thương tật” [126]. Định nghĩa này cho thấy sức khỏe là một khái niệm
tổng hợp về tình trạng cơ thể liên hệ mật thiết với môi trường. Môi trường ở
đây bao gồm, cả môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Sức khỏe
con người bao gồm các mặt cơ bản: sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và
sức khỏe xã hội.
Luận án này chúng tôi sử dụng định nghĩa về sức khỏe của WHO, vì nó
đã thể hiện được sức khỏe của con người bao gồm cả về thể lực, trí lực,
khơng có bệnh tật, khuyết tật, có trạng thái ổn định về sinh học, tâm lý và xã
hội. Sức khỏe là một biến số rất phức tạp, liên tục có sự thay đổi phụ thuộc
vào tổng thể các yếu tố bên trong, bên ngoài cơ thể, yếu tố tự nhiên, yếu tố xã
hội và sự tương tác của tất cả các yếu tố ấy.
Kết luận chƣơng 1
Vấn đề con người luôn được quan tâm nghiên cứu trong lịch sử triết học,
cùng với sự vận động, phát triển của lịch sử - xã hội các quan điểm triết học
về con người cũng ln có sự biến đổi và phát triển.
Xuất phát từ luận điểm: con người là một thực thể thống nhất giữa mặt
sinh vật và mặt xã hội các nhà triết học Mác - Lênin đã đi vào nghiên cứu yếu
tố tự nhiên, yếu tố sinh học, yếu tố xã hội của con người và mối quan hệ cũng
như vai trị của chúng đối với q trình hình thành, phát triển của con người.
Chương này của luận án đi vào luận giải một số quan điểm khác nhau
trong lịch sử và của triết học Mác - Lênin về yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội của con người; về mối quan hệ và vai trò của chúng…để đi
đến thống nhất khái niệm về yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
của con người, đồng thời chỉ ra vai trị của các yếu tố đó cũng như mối quan
hệ của chúng là ln có sự thay đổi cả về cường độ và thời gian trong từng
giai đoạn hình thành, phát triển của con người từ hợp tử cho đến khi già và

chết; thay đổi theo các giai đoạn của lịch sử - xã hội. Qua đó, vận dụng vào
làm rõ khái niệm sức khỏe con người bao gồm cả ba khía cạnh: thể chất, tinh
thần và xã hội để thấy được sức khỏe chịu sự chi phối bởi cả yếu tố tự nhiên
và yếu tố xã hội, cả yếu tố khách quan và chủ quan bên trong và bên ngoài
con người, làm cơ sở cho việc nghiên cứu chương 2 của luận án.
16


Chƣơng 2
ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ TỰ NHIÊN VÀ YẾU TỐ
XÃ HỘI ĐẾN SỨC KHỎE CON NGƢỜI
2.1. Ảnh hƣởng của các yếu tố tự nhiên đến sức khỏe con ngƣời
2.1.1. Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên bên ngoài con người
Con người là một thành viên, một bộ phận của sinh quyển. Với tư cách
là một sinh vật, con người mang đầy đủ các đặc trưng sinh học của mình như:
có mối liên hệ mật thiết với mơi trường tự nhiên, thực hiện quá trình trao đổi
chất, thực hiện các chức năng tự vệ, có khả năng thích nghi, tự điều chỉnh,
sinh sản… Các q trình đó đã và đang làm xuất hiện những yếu tố tác động
mạnh đến sức khỏe con người. Sự tác động này mang tính phổ quát ở tất cả
những chức năng sống và tồn tại của con người. Sự ảnh của yếu tố tự nhiên
bên ngoài con người đối với sức khỏe được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản
sau:
- Ảnh hưởng của phương thức kiếm ăn và yếu tố địa lý đối với sức khỏe
- Ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu đến sức khỏe
2.1.2. Ảnh hưởng của quá trình trao đổi chất với sức khoẻ
- Ảnh hưởng của các thành phần trong quá trình trao đổi chất
- Ảnh hưởng của các hệ cơ quan đến quá trình trao đổi chất và sức khoẻ
2.1.3. Khả năng tự vệ của cơ thể con người và sức khoẻ
- Chức năng tự vệ của con người có liên quan đến sự an tồn của sức
khoẻ

- Khả năng bảo vệ tự nhiên của cơ thể con người
2.1.4. Vai trị của q trình tự điều chỉnh của cơ thể đối với sức khỏe
Cơ thể con người là một hệ thống tự điều chỉnh cực kỳ tinh vi, phức tạp
trên cơ sở sự hoạt động của các hệ nội tiết, hệ thần kinh, hệ miễn dịch, nhịp
sinh học, các tạng và các cơ quan trong cơ thể.
- Vai trò của hệ nội tiết
- Vai trò của cơ quan cảm giác và hệ thần kinh trong quá trình tự điều
chỉnh của cơ thể
2.2. Ảnh hƣởng của yếu tố xã hội đến sức khỏe con ngƣời
Tại Hội nghị y tế quốc tế họp ở Alma-ata (12/9/1978), WHO đã đưa ra
14 nhóm yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe. Các nhà khoa học Việt Nam
17


hiện nay đưa ra 4 nhóm yếu tố tác động đến sức khỏe con người Việt Nam,
chúng tôi cũng đồng ý với những quan điểm đó. Tuy nhiên, do những điều
kiện khách quan khơng có đủ các yếu tố để phân tích, nghiên cứu tất cả các
nhóm yếu tố đó, nên dưới góc độ triết học, trong phạm vi của luận án và điều
kiện cho phép chúng tôi chỉ tập trung đi phân tích một số yếu tố xã hội cơ
bản, có tính thời, sự ảnh hưởng đến sức khỏe con người Việt Nam để làm cơ
sở cho việc rút ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức khỏe cho con
người Việt Nam hiện nay.
2.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố kinh tế đến sức khỏe
- Ảnh hưởng của chính sách kinh tế với sức khỏe
- Ảnh hưởng của tốc độ phát triển kinh tế đến sức khỏe
2.2.2. Ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với sức khỏe
Trong q trình tồn tại và phát triển ngồi những hoạt động sản xuất vật
chất con người còn tạo ra mơi trường riêng biệt cho bản thân mình, đó là mơi
trường chính trị - xã hội. Thơng qua các mối quan hệ xã hội làm xuất hiện
một tập hợp các yếu tố tác động lên sức khỏe con người. Phần này luận án chỉ

tập trung phân tích một số quan hệ xã hội tác động đến sức khỏe con người
Việt Nam hiện nay, trước hết là các quan hệ, trong gia đình, nhà trường và
các tổ chức xã hội.
- Vai trị của các mối quan hệ gia đình đối với sức khỏe
- Ảnh hưởng của môi trường xã hội bên ngồi gia đình đối với sức khỏe
2.2.3. Ảnh hưởng của lối sống đối với sức khỏe
Con người tồn tại với tư cách là các cá nhân có những sở thích, thói
quen riêng tuỳ thuộc vào đặc điểm sinh học, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
điều kiện gia đình và mơi trường xã hội. Thói quen của con người được thể
hiện ở những góc độ dinh dưỡng, vận động, tinh thần tâm lý, lối sống và giờ
giấc sinh hoạt. Trong phần này, luận án tập trung vào nghiên cứu lối sống và
một số thói quen sinh hoạt phổ biến trên thế giới cũng như Việt Nam nhằm
rút ra giải pháp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho con người Việt Nam hiện nay.
Đó là, thói quen hút thuốc lá, thói quen uống rượu (bia) và một số thói quen
về dinh dưỡng, thói quen rèn luyện thể thao…
- Ảnh hưởng của thói quen hút thuốc lá đến sức khỏe
- Ảnh hưởng của thói quen uống rượu đến sức khỏe
- Ảnh hưởng của một số thói quen tiêu cực khác đến sức khỏe (sử dụng
ma tuý, chế độ dinh dưỡng, thói quen rèn luyện TDTT, sự hoà nhập với xã
18


hội).
2.2.4. Ảnh hưởng của hệ thống y tế đến sức khỏe
Vai trò của hệ thống y tế đối với sức khỏe là rất to lớn, song sự ảnh
hưởng của hệ thống này phụ thuộc rất nhiều vào: việc cơ cấu tổ chức hệ
thống y tế; các chính sách y tế và chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên y tế.
- Ảnh hưởng của cơ cấu tổ chức hệ thống y tế đến sức khỏe
- Ảnh hưởng của các chính sách y tế đến sức khỏe
- Ảnh hưởng của nguồn nhân lực y tế đến sức khỏe

Kết luận chƣơng 2
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa các mặt tự nhiên và mặt xã
hội. Các hoạt động sống của con người đều chịu sự chi phối của các quá trình tự
nhiên và xã hội.
Các quá trình tự nhiên đảm bảo cho con người tồn tại với tư cách là một
cơ thể sống, các q trình đó cũng như các yếu tố của chúng tác động một
cách thường xuyên, liên tục đến sức khỏe. Sự tác động quá mức của các điều
kiện tự nhiên cũng như sự rối loạn của bất cứ cơ quan nào trong cơ thể hay sự
rối loạn các thành phần của quá trình trao đổi chất đều ảnh hưởng đến sức
khỏe con người.
Ngoài các yếu tố tự nhiên con người còn chịu sự ảnh hưởng của môi
trường xã hội. Trong môi trường này đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều
hơn những nhân tố mới ảnh hưởng đến sức khỏe con người thông qua các
yếu tố kinh tế, môi trường xã hội, lối sống của con người và hệ thống y tế.
Sự tách biệt vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội đến sức khỏe
con người chỉ có ý nghĩa tương đối.
Sự nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và các yếu tố xã hội
lên sức khỏe con người là cần thiết. Dưới góc độ triết học, chương 2 của luận
án tiếp cận ở góc độ cái sinh học, cái xã hội nhằm có được cái nhìn khái qt
nhất về các yếu tố tác động lên sức khỏe con người làm cơ sở để đưa ra các
nhóm giải pháp cơ bản nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con ngời Việt
Nam hiện nay.

19


Chƣơng 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM CHĂM SÓC,
BẢO VỆ VÀ NÂNG CAO SỨC KHOẺ CON NGƢỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY

Để chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân cần phải có
một hệ thống giải pháp tổng thể, nhằm cải tạo các điều kiện sinh thái, các
điều kiện kinh tế - xã hội của con người cả bên trong và bên ngồi con người.
Ở góc độ nghiên cứu của luận án, chúng tôi đưa ra hai nhóm giải pháp cơ bản
tác động đến mặt tự nhiên và mặt xã hội của con người nhằm góp phần vào
việc chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người Việt Nam hiện nay.
3.1. Nhóm giải pháp tác động đến mặt tự nhiên nhằm nâng cao sức
khỏe con ngƣời Việt Nam hiện nay
3.1.1. Giữ gìn và cải tạo mơi trường tự nhiên trong sạch góp phần
nâng cao sức khỏe con người và cộng đồng
- Tính cấp thiết của việc giữ gìn và cải tạo mơi trường tự nhiên ở nước ta.
- Các giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và cải tạo mơi trường tự nhiên ở nước ta
hiện nay.
3.1.2. Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân
3.1.2.1. Chăm lo đời sống vật chất
Một là, thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xố đói giảm nghèo.
Hai là, đảm bảo ngày càng tốt hơn nguồn nước sạch sinh hoạt cho nhân dân.
Ba là, kiên quyết thực hiện tốt các chương trình VSATTP nâng cao sức
khỏe nhân dân.
3.1.2.2. Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho nhân dân
- Đối với xã hội.
- Đối với gia đình.
- Đối với cá nhân.
3.2. Nhóm giải pháp tác động đến mặt xã hội nhằm chăm sóc, bảo vệ
và nâng cao sức khỏe con ngƣời Việt Nam hiện nay
3.2.1. Đẩy mạnh cải tạo các quan hệ kinh tế - xã hội, xây dựng môi
trường xã hội trong sạch lành mạnh nâng cao sức khỏe nhân dân
3.2.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế lành mạnh
- Tiếp tục hồn thiện, cụ thể hóa các cơ chế, chính sách và biện pháp
nhằm thực hiện tốt nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

- Tiếp tục cải tạo các quan hệ kinh tế nhằm phát huy hết tiềm năng của
20


các thành phần kinh tế.
- Tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ nhiều biện pháp nhằm tăng trưởng
kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội.
3.2.1.2. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh góp phần nâng cao sức khỏe
nhân dân
- Tiếp tục cải tạo môi trường xã hội, đảm bảo cho mỗi người dân được
thoải mái cả về thể chất, tinh thần và xã hội.
- Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần bằng việc chú ý xây dựng
nhiều khu vui chơi, giải trí cơng cộng, nhà văn hố, thư viện, công viên…
chú trọng xây dựng nếp sống văn minh trong toàn xã hội.
3.2.2. Xây dựng lối sống lành mạnh, ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn xã
hội nâng cao sức khỏe nhân dân
3.2.2.1. Xây dựng lối sống, thói quen lành mạnh
- Xây dựng thói quen sinh hoạt khoa học.
- Chủ động xây dựng chế độ, thói quen dinh dưỡng hợp lý, khoa học.
- Giải quyết tình trạng thiếu Vitamin A, thiếu iốt, giảm tỉ lệ thiếu máu
do thiếu dinh dưỡng, tích cực rèn luyện TDTT.
3.2.2.2. Tích cực thực hiện các biện pháp phòng chống tác hại của thuốc lá
- Các biện pháp làm giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá.
- Các giải pháp giảm cung cấp, giảm sản xuất và buôn bán thuốc lá.
3.2.2.3 Hạn chế việc lạm dụng rượu và các chất gây nghiện
- Hạn chế việc lạm dụng rượu.
- Phát huy sức mạnh của cộng đồng trong việc phòng chống ma tuý.
3.2.3. Phát huy tốt hơn nữa vai trị của hệ thống y tế trong chăm sóc,
bảo bệ sức khỏe nhân dân
- Tổ chức tốt mạng lưới y tế theo chức năng, nhiệm vụ mới.

- Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các cơ sở y tế
công theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch.
- Đổi mới và tăng cường vai trò của Nhà nước đối với hệ thống y tế.
- Hồn thiện hệ thống chính sách y tế.
- Điều chỉnh bộ máy, tổ chức quản lý y tế.
- Phát triển đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế Việt Nam đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của ngành y tế.
21


Kết luận chƣơng 3
Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người luôn là vấn đề
quan trọng của đất nước, đó là trách nhiệm của rất nhiều ngành khoa học mà
y học là nòng cốt. Các biện pháp y học nhằm dự phòng và điều trị bệnh tật
cho con người, chúng rất cần thiết có những cơ sở lý luận vững chắc, giúp
cho việc định hướng đúng đắn, làm tăng tính hiệu quả, làm giảm những hạn
chế, những sai lầm trong các biện pháp y học. Triết học không thực hiện các
biện pháp y học cụ thể, song nó có vai trị rất to lớn nếu đưa ra được các
nguyên tắc, phương pháp luận đúng đắn định hướng cho các biện pháp y
học. Trên cơ sở nghiên cứu sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và xã hội
đến sức khỏe, chương 3 của luận án đưa ra 2 nhóm giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao sức khỏe con người Việt Nam hiện nay.
Nhóm giải pháp thứ nhất nhằm tác động tới các yếu tố tự nhiên hướng
vào việc chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Nhóm giải
pháp thứ hai nhằm tác động tới mặt xã hội, thông qua các yếu tố xã hội nhằm
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe con người.

22



×