Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 4a trường tiểu học thành sơn, bá thước, thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC
SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ LỚP 4A TRƯỜNG TIỂU HỌC
THÀNH SƠN, BÁ THƯỚC,THANH HÓA

Người thực hiện: Hà Thị Đàm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thành Sơn
SKKN thuộc lĩnh mực: HĐNGLL

THANH HOÁ NĂM 2021


Mục lục
Nội dung
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2


2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.4
2.4.1
2.4.2
2.4.3
3
3.1
3.2

Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứa
Nội dung
Cơ sở lí luận.
Thực trạng về kĩ năng sống của học sinh và việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học Thành Sơn,
huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
Một số giải pháp đã sử dụng để giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh lớp 4A Trường Tiểu học Thành Sơn.
Giáo viên cần nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỹ năng
sống.
Xác định tốt và cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng sống
cơ bản cần dạy cho học sinh lớp Bốn.
Đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc giáo dục kỹ năng
sống:

Phối kết hợp tốt giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên
Tổng phụ trách Đội trong việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh.
Phối hợp với cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia
đình
Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các
hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong lớp, trong
trường.
Hiệu quả
Đối với hoạt động giáo dục của nhà trường
Đối với bản thân
Đối với đồng nghiệp:
Kết luận, kiến nghị
Kết luận.
Kiến nghị

Số trang
1
2
2
2
2
2
2-3
3-4
5
5
6-11
11-14
14-15

14-15
16-17
18-19
18
19
19
20
20
20


3
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức
sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội gắn với những kinh nghiệm đạo đức,
để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, phân phân biệt đúng sai làm
theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa,
thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức.
Chính vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan
trọng mà người làm công tác giáo dục cần quan tâm.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là địi hỏi thường xun của cơng tác
giáo dục đồng thời cũng là địi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong
công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được
quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng khơng kém quan trọng, và
bằng nhiều nhiều hình thức, nhiều con đường khác nhau. Qua việc giáo dục kĩ
năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho trẻ . Đồng thời nó định hướng cho
học sinh tiểu học rèn luyện hành vi và thói quen tốt ứng xử tốt. Trong sự phát
triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học
sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách tồn diện. Nếu khơng giáo dục kĩ

năng sống thì khơng những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó
khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách tồn diện của trẻ
bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ
nghĩa hình thức máy móc, lí trí và tình cảm khơng thống nhất với nhau đó là lời
nói khơng đi đơi với việc làm dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách .
Thực trạng hiện nay, việc giáo dục kĩ năng sống của các em ở trường tiểu
học cịn ít và nhiều hạn chế, chưa có nét chuyển biến. Đặc biệt là các trường ở
vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn càng khơng có điều kiện để giáo dục cho học
sinh những kĩ năng sống cần thiêt. Nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên,
phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức. Giáo viên chưa nhận thức hết
được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp mình dang
dạy mà mới chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt …
Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, các em hay quên. Nói trước quên sau và
chưa có khả năng vận dụng những điều đã học, áp dụng vào thực tế. Tâm lý độ
tuổi cho thấy rằng các em rất hiếu động các em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn
bị áp đặt. Song các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cơ giáo, thầy cơ bảo
đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại, dần dần dẫn
đến thói quen. Nếu nói rằng thầy cơ giáo khơng quan tâm đến việc dạy kĩ năng
sống là không đúng, nhưng việc dạy kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là
việc lồng ghép vào tất cả các mơn học, giáo viên cịn mơ hồ về việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh. Để có những chuyển biến giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh tiểu học, với trách nhiệm của người giáo viên trực tiếp đứng lớp, lại là
giáo viên chủ nhiệm, tôi hết sức băn khoăn, trăn trở. Vì thế, tơi mạnh dạn nghiên
cứu tìm“ Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu
số lớp 4Atrường Tiểu học Thành Sơn, Bá Thước, Thanh Hoa”.


4
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các

môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Giúp học sinh nhận thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã
hội.
Giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình, có hành
vi, thói quen ứng xử văn hóa, hiểu biết và chấp hành đúng pháp luật.
Giúp học sinh có đủ khả năng thích ứng với môi trường xung quanh từ
chủ động, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin
ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào
đời.Ỏ trường học nâng cao kĩ năng sống và hình thành nhân cách tốt cho học
sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số lớp
4A trường Tiểu học Thành Sơn, Bá Thước, Thanh Hoa”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận.
Trong chiến lược phát triển bền vững, việc giáo dục kỹ năng sống cho con
người ngay từ khi còn nhỏ là hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ, sự lặp đi lặp lại những
hành vi lành mạnh sẽ hình thành những thói quen tốt ăn sâu vào tiềm thức, chi
phối lối sống của trẻ, song hành với các em trong suốt quá trình hình thành và
phát triển nhân cách ở bậc học tiểu học. Đó là lý do cần giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh Tiểu học đặc biệt là những ngôi trường xa trung tâm không được
tham gia nhiều các hoạt động trải nghiệm như những nơi có nhiều điều kiện
hơn..Giúp các em tự chủ, tự tin trong cuộc sống, tự nhận thức bản thân, phát huy

thế mạnh cá nhân. Giúp các em rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt như
khiêm tốn, khoan dung, giản dị, trung thực..., biết ứng xử đúng mực, linh hoạt
trong những tình huống khó khăn của cuộc sống. Giúp các em ý thức và có năng
lực thực hiện bổn phận cũng như bảo vệ quyền trẻ em, bảo vệ mình trước những
vấn đề của xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống an tồn, lành mạnh của
các em, phịng ngừa những hành vi có hại cho sự phát triển cuả bản thân.
"Kỹ năng sống" là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá
nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước
cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kỹnăng
sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng
thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.


5
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của trẻ cho thấy rằng khả năng giao
tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mính,
biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một
cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại
trường.Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường Tiểu học, áp dụng phương
pháp học trung tính là phương pháp học tập thơng qua các giao tiếp tích cực với
những người khác. Ở Việt Nam để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế
hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa
đất nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học,
giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo
dục thế kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là : học để biết,
học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống .
2.2. Thực trạng về kĩ năng sống của học sinh và việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh trong trường Tiểu học Thành Sơn, huyện Bá Thước, tỉnh
Thanh Hóa.
*Về phía giáo viên

Ưu điểm: Từ năm 2010đến nay tất cả giáo viên tham gia dạy chương
trình giáo dục kĩ năng sống đều được học tập phương pháp qua các lớp tập huấn
cơ bản. Họ có nhận thức đúng đắn về vai trị của việc giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh trong giai đoạn hiện nay.
Bước đầu giáo viên có sự thích ứng trong việc tiếp cận các phương pháp,
chuẩn bị bài, lập kế hoạch giáo dục lồng ghép khá tỉ mỉ và chi tiết. Một số giáo
viên đưa ra được các hình thức dạy học khá sáng tạo, thu hút được học sinh
trong học tập. Bản thân các giáo viên cũng ý thức được việc rèn luyện mình để
trở thành tấm gương trước học sinh
Tồn tại: Đa số giáo viên là người địa phương, trình độ chun mơn cịn
hạn chế, đội ngũ giáo viên khơng cịn trẻ. Có giáo viên chưa nắm chắc về nội
dung giáo dục kĩ năng sống theo từng khối lớp, chưa biết vận dụng linh hoạt
trong thực tế giảng dạy tại lớp chủ nhiệm, cụ thể từng môn học, từng hoạt động
rõ ràng để truyền đạt đến học sinh kĩ năng cần đạt. Để đáp ứng kế hoạch chung
của nhà trường trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp mình.
Một số giáo viên chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức của sách giáo khoa,
chưa đầu tư thời gian tìm tịi nghiên cứu các hình thức và phương pháp tổ chức
cho học sinh các hoạt động ngoại khoá nên chưa tạo được sự hứng thú học tập
cho học sinh.
Giáo viên chưa phối hợp chặt chẽ với chuyên môn nhà trường trong việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của mình. Chưa nắm vững quy tắc giáo dục
kĩ năng sống cần có những tắc nào cho phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc
thiểu số cũng như học sinh lớp mình chủ nhiệm.
Nguồn tài liệu, phương tiện cho cơng tác giáo dục kĩ năng sống cịn hạn
chế. Giáo viên mới chỉ tham khảo qua các tài liệu đọc ( sách, tạp chí,...) mà cịn
thiếu các phương tiện nghe nhìn ( máy chiếu, ti vi, loa, micro,…). Do nhà
trường còn nghèo, cơ sở vật chất thiếu thốn lại thuộc vùng núi cao.
*Về phía học sinh: Tổng số học sinh 4A là 30 em, tất cả đều là học sinh



6
dân tộc Thái.
Ưu điểm:Các em khá hào hứng khi được học về các nội dung giáo dục kĩ
năng sống, một số học sinh mạnh dạn thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình
trong học tập, có em cịn tham gia thiết kế các hình thức học tập cùng giáo viên
chủ nhiệm. Trong các hoạt động tập thể, có em cịn tự tin điều hành các hoạt
động thường xuyên của lớp, của trường như: Lớp trưởng điều hành buổi sinh
hoạt lớp, nhận xét cách giao tiếp với thầy cô hoặc khách đến thăm lớp, Liên đội
trưởng điều hành buổi lễ chào cờ, học sinh tham gia các hội thi giao lưu về An
tồn giao thơng, tun truyền phịng chống dịch Covit-19,…
Tồn tại: Một bộ phận học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe là làm
theo thầy cơ giáo, ít tính sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
Học sinh chỉ chú trọng học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình
huống trong cuộc sống cịn kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy gây
gổ lẫn nhau, không biết giải quyết các vấn đề sảy ra với bản thân trong cuộc
sống, chưa nghiêm túc trong các hoạt động nhóm,…
Kĩ năng giao tiếp cịn hạn chế, vẫn cịn hiện tượng sử dụng lời nói chưa
đẹp, chưa văn minh trong trường học.
*Về phía phụ huynh:
Ưu điểm: Một số phụ huynh có nhận thức tốt, ủng hộ chương trình giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh, hỗ trợ rất nhiều cho giáo viên chủ nhiệm trong
các hoạt động như: Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, thăm hỏi học sinh
ốm đau, nhắc nhở học sinh tham gia giao thông đúng quy định, đội mũ bảo hiểm
đúng cách,…
Tồn tại: Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến
thức. Có phụ huynh nóng vội trong việc dạy con, họ chỉ chú trọng đến việc dạy
con mình biết đọc, biết viết, biết làm tốn mà khơng cần quan tâm đến việc con
được học kĩ năng sống nào khi đến trường.
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm tịi kiến thức mà quên
hướng cho con em mình làm tốt hoạt động tập thể, hoạt động xã hội và cách ứng

xử trong gia đình. Một bộ phận phụ huynh chưa chú ý giao tiếp trong gia đình,
xưng hơ chưa chuẩn mực nên các em cũng bị ảnh hưởng, lựa chọn ngôn ngữ
xưng hô chưa đúng.
Có phụ huynh chiều chuộng con cái thái quá khiến trẻ khơng có kĩ năng
tự phục vụ, họ chỉ chú ý đến khâu chăm con ăn mà chưa chú ý đến việc dạy con
mình ăn, uống như thế nào, sử dụng đồ dùng vật dụng trong ăn uống như thế nào
cho đúng. Vì sao chúng ta cần dùng những đồ dùng, vật dụng đó?
* Tồn tại những thực trạng sau ở Trường Tiểu học Thành Sơn:
+ Giáo viên chưa nhận thức sâu sắc về việc dạy học sinh kỹ năng sống.
+ Giáo viên chưa xác định đúng và cụ thể hóa nội dung của những kỹ
năng sống cơ bản cần dạy cho học sinh lớp mình chủ nhiệm.
+Các nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống chưa đảm bảo thực hiện tốt
+ Phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên Tổng phụ trách
Đội trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chưa tốt.


7
+ Phối hợp với cha mẹ học sinh cách giáo dục kỹ năng sống trong gia
đình chưa thường xuyên.
+ Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong lớp, trong
trường cịn ít.
Qua khảo sát thực tế ở lớp 4A trường Tiểu học Thành Sơn năm học 2020
– 2021 tôi thu được kết quả như sau:
* Bảng khảo sát được thực hiện vào thời điểm cuối tháng 9 năm 2020
Kĩ năng

Lớp
4A

30


Kĩ năng
giao tiếp

Kĩ năng
hợp tác

Kĩ năng tự
phục vụ

HTT HT

HTT HT

HTT HT

Kĩ năng
Kĩ năng
thích
kiểm sốt
khám phá, bản thân
học hỏi
HTT HT HTT HT

5

7

8


5

25

23

22

25

4

26

Từ kết quả khảo sát trên cho thấyhọc sinh chưa có nhiều các kĩ năng cơ
bản, chưa thể hiện được bản thân. Đặc biệt, một số kĩ năng như giao tiếp, khám
phá học hỏi, kiểm soát bản thân cịn hạn chế, chưa có nhiều em hồn thành tốt.
Đây là trăn trở chung của giáo viên làm công tác chủ nhiệm.
2.3. Một số giải pháp đã sử dụng để giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 4A Trường Tiểu học Thành Sơn.
Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường, địa phương; căn cứ vào
nhiệm vụ, chủ đề của năm học 2020-2021 và đặc biệt để làm tốt việc giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số trong học tập và trong các hoạt động
khác cho học sinh lớp 4A Trường Tiểu học Thành Sơn tôi đã áp dụng một số
biện pháp sau:
2.3.1. Giải pháp 1:Giáo viên cần nhận thức sâu sắc về việc dạy học
sinh kỹ năng sống.
Trước hết phải khẳng định rằng, trong công tác giáo dục, muốn thành
công ở hoạt động dạy – học một môn học hay một lĩnh vực nào đó điều kiện đầu
tiên là người thầy phải có kiến thức vững vàng, nắm chắc phương pháp dạy học

và hiểu rõ mục đích dạy học. Trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thì
vấn đề trên càng quan trọng. Bởi hiện nay, giáo dục kĩ năng sống chưa được gọi
là một môn học độc lập mà mới chỉ được lồng ghép qua các môn học, các hoạt
động khác trong nhà trường.
Giáo viên cần hiểu rõ rằng giáo dục kĩ năng sống là vấn đề cấp thiết hiện
nay. Thực tế cho thấy ở cả thành thị, nông thôn lẫn miền núi học sinh gần như
khơng có kĩ năng sống. Nhiều trẻ thiếu tự tin, không biết cách giao tiếp, nhút
nhát, chưa biết cách tự bảo vệ mình. Những điều này học sinh cần phải có được
trong cuộc sống và nhà trường chính là nơi giúp các em tốt nhất.
Giáo viên nắm bắt được tâm sinh lí của học sinh lớp 4, các em ở độ tuổi
bắt đầu cho giai đoạn thứ hai của lứa tuổi Tiểu học, tâm sinh lí đã bắt đầu thay
đổi. Nếu các em nhận thức tốt, được giáo dục trong môi trường thuận lợi thì sẽ


8
có những kĩ năng tốt, giúp các em ngoan hơn, trưởng thành hơn và có thể sẽ
thành cơng hơn. Ngược lại, ngay ở lứa tuổi này nếu các em thiếu hoặc yếu về kĩ
năng sống cơ bản thì có thể dẫn đến phát triển lệch lạc về tinh thần, khó có thể
thành cơng ở những năm tiếp theo…Tất cả những điều này đòi hỏi ở người giáo
viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm phải nắm rõ và tìm phương pháp, hình thức
tốt nhất để giáo dục và trang bị cho các em những kĩ năng sống cơ bản.
Ý thức được điều này, ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp, tơi đã tiến
hành tìm hiểu hồn cảnh gia đình của học sinh, gần gũi trị chuyện để tìm hiểu
tính cách mỗi em. Thơng qua các giờ học, tơi tạo tình huống để các em thể hiện
kĩ năng của mình. Sau đó tơi phân nhóm học sinh theo từng kĩ năng, từng mức
độ để có phương pháp phù hợp.
Tìm hiểu tài liệu giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường cũng là việc cần
làm ngay. Chúng ta cần lưu ý rằng đầu sách trên thị trường rất nhiều vì vậy tơi
đọc và có sự lựa chọn những đầu sách phù hợp với điều kiện dạy học tại trường
vùng khó khăn dân tộc thiểu số và chính học sinh của mình. Trong các buổi sinh

hoạt chun mơn tổ hàng tháng, tôi chia sẻ với đồng nghiệp các tài liệu, phương
pháp liên quan đến công tác rèn luyện kĩ năng sống, các biểu hiện của những
học sinh có kĩ năng sống tốt và chưa tốt. Từ đây, cùng nhau thảo luận để nâng
cao nhận thức của giáo viên trong công tác giáo dục kĩ năng sống.
Ví dụ: Em Lương Thị Phương Uyên ( học sinh lớp 4A ) – lớp trưởng là
một học sinh ngoan, học lực giỏi và đặc biệt là có kĩ năng giao tiếp tốt. Em rất
thân ái với bè bạn, xưng hô với bạn bè bằng tớ - cậu, các cậu. Khi muốn được
bạn giúp đỡ, em Uyên thường bắt đầu bằng các cụm từ như: Tớ muốn mượn cậu
quyển truyện để đọc có được khơng?/ cậu có thể giúp tớ được khơng? / Cậu
rảnh chứ? Tớ định nhờ cậu hỗ trợ tớ chút việc.... Uyên cũng là học sinh mạnh
dạn nói lên suy nghĩ của mình với tôi và thường sử dụng các cụm từ: Em thưa
cơ, em nghĩ rằng.../Em thưa cơ, em nhận thấy,...Chính vì thế, Uyên luôn được
bạn bè yêu quý và tôn trọng. Tơi nhận thấy Un là học sinh có thể hỗ trợ tôi
đắc lực trong việc rèn kĩ năng sống cho các bạn trong lớp. Bên cạnh đó có em
Duy Khánh ( học sinh lớp 4A), học lực tốt, viết chữ đẹp, ngoan ngỗn nhưng rất
nhút nhát, ít nói, khi học bài thì phát biểu rất nhỏ hoặc cơ giáo hỏi thì cố tình im
lặng. Đây chính là em học sinh mà tơi phải lưu tâm, có kế hoạch giúp đỡ. Trong
lớp ngồi 2 em vừa nêu trên cịn có một số em có khả năng trình bày ý kiến của
mình để trao đổi với thầy cô và bạn bè nhưng chưa biết nói câu nào trước câu
nào sau như em: Hà Thị Tâm, Hà Thị Thư, Lương Quốc Đại, Hà Thị Nguyên,…
Tôi thường xuyên tổ chức và lập kế hoạch cụ thể trong các giờ sinh hoạt
cuối tuần, sinh hoạt đầu giờ học và lồng ghép trong các tiết dạy, bài học cụ thể
hàng ngày. Tôi đã lựa chọn được tài liệu giảng dạy phù hợp, phân loại được các
nhóm đối tượng học sinh, hồn cảnh và tính cách của từng em trong lớp. Có
được một số em học sinh cùng tham gia trong công tác giáo dục, rèn luyện kĩ
năng cho các em. Qua một thời gian, tất cả các em đề có sự tiến bộ rõ rệt và lớp
tôi thực sự là một lớp thân ái trong quan hệ trị – trị; thầy – trị.
Ví dụ: Tiết sinh cuối tuần 05 tôi lên kế hoạch cho các Tổ trưởng 3 tổ nhận
xét các thành viên trong tổ, sau đó lớp trưởng nhận xét chung về các mặt hoạt



9
động của cả lớp, sau đó tơi kết luận chung sự tiến bộ và hạn chế cần khắc phục ở
tuần học 06 tiếp theo. Cứ thực hiện như vậy mỗi tiêt sinh hoạt học sinh trở thành
nếp thực hiện xuyên suốt trong quá trình học tập.
2.3. 2. Giải pháp 2: Xác định tốt và cụ thể hóa nội dung của những kỹ
năng sống cơ bản cần dạy cho học sinh lớp 4A.
Qua nghiên cứu tài liệu, chương trình rèn luyện kĩ năng sống trong trường
Tiểu học, kết hợp với bảng khảo sát cuối tháng 9/2020 và thực tế học sinh lớp
4A, một số kĩ năng cơ bản cần tập trung rèn luyện cho các em là: kĩ năng giao
tiếp; kĩ nănghợp tác; kĩ năng tự phục vụ; kĩ năng thích khám phá, học hỏi; kĩ
năng tự kiểm soát.Hiện nay, kĩ năng sống tự tin, tự lập; khả năng thấu hiểu,
mạnh dạn trong giao tiếp rất hạn chế, ứng phó với các tình huống sảy ra trong
cuộc sống khơng biết phải làm gì, tham gia giao thơng chưa đúng quy định, đặc
biệt là kĩ năng phòng chống dịch Covit – 19 đang là vấn đề nóng của cả thế
giới,… Sau khi xác định được nội dung rèn luyện, tôi tiến hành tìm hiểu, lập kế
hoạch cụ thể cho từng kĩ năng phù hợp với chương trình học tập và rèn luyện
của các em trong lớp. Cụ thể hóa các kĩ năng trên tôi dạy cho học lớp 4A của tôi
chủ nhiệm như sau:
+ Kỹ năng giao tiếp: Để giúp trẻ có kĩ năng này, tôi hướng dẫn các em
biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, các em
cần cảm nhận được vị trí của mình trong thế giới xung quanh để lựa chọn ngơn
ngữ xưng hơ phù hợp.
Ví dụ: Khi có khách đến nhà, cần chào hỏi lễ phép: Cháu chào bác ạ!/
Cháu chào cô ạ!...Biết mời chào lịch sự: Cháu mời bác vào nhà cháu ạ!/ Cháu
mời bác uống nước và đợi bố mẹ cháu chút….Ở lớp, khi có khách đến thăm, ban
đối ngoại phải biết đón tiếp: Em chào thầy/ cơ ạ! Em mời thầy/cơ cùng thăm lớp
ộng nhóm. Trong giờem/ cùng học với chúng em một tiết học ạ! Hoặc: Tớ chào
các bạn. Mời các bạn vào thăm lớp tớ. Hoặc khi ra về phải biết nói lời cảm ơn
và tạm biệt.

Trong các giờ học Tiếng Việt, khi các em học được nhiều vốn từ heo các
chủ điểm, tôi định hướng cho các em biết sử dụng vốn từ đó cho phù hợp với
từng văn cảnh, từng đối tượng giao tiếp.
Ví dụ:Trong giờ Luyện từ và câu: Cách đặt câu khiến ở bài tập 3 trang
92-93 sgk Tiếng việt – tập II. Tôi cho học sinh thực hành đặt câu khiến bằng
cách 2 bạn cùng bàn nêu câu mình đặt và ngược lại. Với cách làm này tôi áp
dụng nhiều tiết học có nội dung cần trình bày hoặc vận dụng giải quyết tình
huống.
Sau khi nghe học sinh trình bày tôi chỉnh sửa lại câu các em vừa nêu sao
cho đúng với yêu cầu cần đạt của bài tập là biết đặt câu khiến và sử dụng câu
khiến trong cuộc sống hàng ngày cho phù hợp.


10

Hoc sinh thực hành giờ học Luyện từ và câu tại lớp 4A
Trong giờ chơi, các em cần biết dùng từ ngữ đẹp, văn minh, thể hiện sự
tôn trong bản thân và người khác. Giao tiếp đôi khi không chỉ dùng lời nói mà
cịn phải dùng cả ánh mắt, nụ cười…
Ví dụ:Tơi đưa ra một tình huống: Vào giờ ra chơi, em cùng các bạn chơi
trò chơi, em chẳng may làm bạn bị ngã, bạn ấy rất giận em. Có người bạn khác
nói ngay rằng: “Ngã có tí mà cũng giận với dỗi.”Trong tình huống đó em sẽ
làm gì?
Sau khi các em phát biểu, tôi định hướng cho các em thấy cần phải xử lí
được theo hướng: đỡ bạn dậy, hỏi bạn có đau khơng, nói lời xin lỗi bạn và cần
nói ngay với người bạn kia rằng dù ít hay nhiều đây cũng là lỗi của tớ, tại tớ
không cẩn thận, bạn khơng nên nói như thế. Sau đó, sửa ngay khơng khí lúc đó
bằng nụ cười tươi và những cái nắm tay thật chặt.
Ngồi ra, tơi dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua. Biết tự
rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ

dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi
vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời
trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc
biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng
đến người xung quanh.
Kiên trì và thường xuyên áp dụng phương pháp trên, tôi thấy lúc đầu
không hẳn các em đều tiếp nhận ngay được do một số thói quen cũ. Song, qua
nhiều hình thức, nhiều tình huống cụ thể, học sinh lớp tơi khơng cịn em nào nói


11
tục, chửi thề, các em biết thường xuyên nói lời cảm ơn, xin lỗi, biết thưa gửi,
chào hỏi lễ phép, biết sử dụng từ ngữ để diễn đạt suy nghĩ của bản thân. Điều đó
khiến tơi và các em ln có những giờ học vui vẻ, thoải mái.
+ Kỹ năng giao tiếp còn thể hiện ở học sinh sự tự tin, tự lập: Đây là chính
là một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự
tin, tự lập, lòng tự trọng của học sinh. Nghĩa là giúp học sinh cảm nhận được
mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ
năng sống này giúp học sinh ln cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi
nơi.
Để giúp các em có được kĩ năng này, trong các buổi sinh hoạt lớp tơi
thường khuyến khích các em tự điều hành. Lớp trưởng điều khiển các tổ trưởng
nhận xét, đánh giá các thành viên trong tổ. Các em tự nêu ý kiến, nhận xét, đánh
giá, khích lệ lẫn nhau. Trong các giờ học, tôi tổ chức các trị chơi giải trí, ban
văn nghệ giữ vai trị quan trọng và thường xuyên làm quản trò, giáo viên chỉ
đóng vai trị tư vấn, ghi chép lại kết quả và góp ý cho các em ở cuối giờ chơi,
giờ sinh hoạt.Trong giờ học, tơi thường xun tạo tình huống và đưa ra các câu
hỏi để học sinh mạnh dạn bày tỏ ý kiến cá nhân, tôi không bao giờ bác bỏ ngay
nhưng ý kiến chưa hợp lý của các em mà ln lắng nghe, ghi nhận, phân tích để
các em tự rút ra cái đúng. Từ đó khích lệ sự tự tin ở trẻ.

Ví dụ: Tơi nêu tình huống cần xử lí kèm theo câu hỏi: Trong trường hợp
tương tự, em sẽ làm gì? Tơi gọi một em trả lời, sau đó em học sinh đó sẽ là
người giúp tôi điều hành hoạt động này bằng cách đặt câu hỏi tiếp theo cho các
bạn với cụm từ: Tớ sẽ giải quyết như vậy, còn các cậu nghĩ thế nào? Tôi sẽ ghi
chép lại tất cả các câu trả lời và sẽ cùng học sinh thống nhất phương án phù hợp
nhất.
Bên cạnh đó, tơi tổ chức các trị chơi lồng ghép trong các giờ học như: “
Em làm hướng dẫn viên du lịch, Ơ cửa bí mật, Làm theo tơi nói,… Các hoạt
động chia sẻ kinh nghiệm học tập, giới thiệu sách báo trong ngày hội đọc sách
21/4 hàng năm do Đội thiếu niên tổ chức để các em có cơ hội, có mơi trường rèn
luyện sự tự tin.
Với cách làm trên, tôi nhận thấy các em đã tự tin hơn rất nhiều. Có thể có
những suy nghĩ, những câu trả lời đúng hoặc chưa đúng nhưng các em đều mạnh
dạn phát biểu. Trong công việc chung của lớp, các em tự giác, sáng tạo, không ỷ
lại và biết hỗ trợ nhau, thay nhau làm việc.
+ Kỹ năng sống hợp tác: Tơi thường xun thay đổi hình thức dạy học
để phù hợp với sự đổi mới phương pháp dạy học hiện nay của ngành giáo dục.
Tổ chức học nhóm, đây là hình thức tốt nhất để các em rèn luyện sự hợp tác,
đoàn kết, tự chủ trong các hoạt động nhóm,… Trong các hoạt động học tập trên
lớp các em ln có những nhiệm vụ, bài tập được u cầu hồn thành theo
nhóm. Ở đây, nhóm trưởng là người có vai trò rất quan trọng – điều khiển các
thành viên khác trong nhóm hoạt động theo u cầu của mình.Vì vậy, tơi hướng
dẫn cho các nhóm trưởng có được những kĩ năng điều hành cơ bản, dân chủ và
khách quan. Mỗi tháng các em thường xuyên thay đổi nhóm trưởng và liên tục
đưa những “nội quy” hoạt động riêng cho nhóm mình.


12
Tơi khích lệ giúp các em học cách cùng làm việc với bạn. Khi hợp tác sẽ
giúp các em biết cảm thơng, biết chia sẻ, biết tơn trọng lẫn nhau.

Ví dụ: Khi học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 tập II, bài Mở rộng vốn
từ: Du lịch – Thám hiểm, sau khi các em tìm hiểu đề bài hướng dẫn học, tôi giao
nhiệm vụ: Ở hoạt động này, cơ giáo đánh giá kết quả chung của cả nhóm, bao
gồm đáp án, sự hợp tác và cách điều hành của nhóm trưởng. Sau đó giới hạn
thời gian để các em hoạt động. Tôi theo dõi cách làm việc của các em và có
phần đánh giá khách quan, cơng bằng theo tiêu chí tơi đưa ra từ đầu.
Hoặc trong các buổi sinh hoạt tập thể Vì nụ cười trẻ thơ, chăm sóc vườn
trường, tơi thường xun giao nhiệm vụ nhóm, quan sát cách các em phối kết
hợp và có sự ghi chép. Khi đánh giá, tơi cho các nhóm nhận xét chéo nhau rồi
mới đưa ra ý kiến sau cùng. Tôi nhận thấy học sinh hoạt động rất hào hứng, có
hiệu quả cao.
Sau một thời gian tiến hành cách làm trên, tôi nhận thấy ở một vài hoạt
động, học sinh có bất đồng quan điểm khi nêu ý kiến, có em ít hoạt động, có
nhóm vì muốn nhanh, muốn được cô khen nên thường để một bạn học tốt, viết
nhanh thường xuyên làm thư kí hoặc lấy nguyên đáp án của em đó...Khi phát
hiện ra tình trạng này, tơi đến nhóm đó, yêu cầu nhóm trưởng điều hành nghiêm
túc, biết lắng nghe nhau, quy định mỗi một em đều phải có ý kiến, nếu khơng sẽ
ghi vào sổ theo dõi hoạt động của lớp,lớp trưởng đánh giá thi đua giữa các
nhóm, trao cờ thi đua và phần thưởng cho nhóm xuất sắc. Chính vì vậy, học sinh
lớp tơi có sự tiến bộ rõ rệt, khả năng điều hành nhóm của các em rất tốt, các em
biết cách hợp tác, chia sẻ và lắng nghe.
Ví dụ: Buổi sinh hoạt tập thể: Vì nụ cười trẻ thơ học sinh cùng học theo
nhóm, cùng nhau chia sẻ những điều mà học sinh biết cùng bạn bè tại trường.

Học sinh học nhóm“Vì nụ cười trẻ thơ” tại trường tháng 3/2021
+ Kỹ năng tự phục vụ: Giáo dục cho các em từ những việc nhỏ nhất
như: biết làm một số công việc nhỏ phù hợp với độ tuổi của các em như vệ sinh
cá nhân, đánh răng, rửa mặt, tắm rửa hàng ngày, vệ sinh xong phải rửa tay, trước



13
khi ăn cơm phải rửa tay. Ngoài ra các em biết quét nhà, quét lớp, rửa ấm chén,
như mắc màn trước khi đi ngủ, gấp chăn màn gọn gàng vào buổi sáng mỗi ngày,
chăm sóc cây xanh thân thiện với mơi trường hay vui chơi giải trí giảm căng
thẳng. Sinh hoạt cuối tháng tôi hướng cho học sinh phải biết tự nhận cơng việc
vừa sức mình để làm giúp đỡ bố mẹ như: tự pha mì để ăn sáng, ăn xong cất bát
đũa, cấm không được sờ vào các thiết bị điện bị hở trong nhà, biết phải làm gì
khi bị trầy xước da, khơng ra ngồi đường hay ban cơng nhà,…để tránh các tình
huống sảy ra đáng tiếc.
+ Kỹ năng khám phá, thích học hỏi: Cụ thể là học sinh thích tị mị,
ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng
nhất cần có ở các em vào giai đoạn này. Là sự khát khao được học, được khám
phá, được tìm hiểu, được giải thích, phát hiện trí thơng minh, nhanh trí trong các
hoạt động học tập,…
Để giúp các em có các kĩ năng này, ngoài việc dạy bài học trong sách đặc
biệt là mơn Khoa học, thực hành các tình huống có sẵn trong tài liệu học là chủ
yếu, còn sử dụng thêm các đoạn video, clip trong các tiết thao giảng giáo viên
giỏi, thao giảng định kì chun mơn cấp trường, có chủ đề và nội dung phù hợp
để khêu gợi tính tị mị của các em như: Tìm hiểu về thiên nhiên, về đại dương,
về vũ trụ,… Ngồi ra tơi đưa ra các tình huống cụ thể để các em tự thảo luận và
thực hành đóng vai giải quyết chính tình huống đó.
Thực tế cho tơi thấy rằng bằng những hình thức này các em có khả năng
thấu hiểu người khác, biết tự đặt mình vào vị trí của người khác để cảm nhận
nên học sinh lớp tôi giảm hẳn được thói chỉ trích, chê bai lẫn nhau. Các em ham
thích đọc sách hơn, thậm chí có em cịn chủ động đến chia sẻ những hiểu biết
của mình về những điều các em khám phá được trong cuộc sống thường ngày
hay những kiến thức khoa học mới lạ.
+ Kĩ năng tự kiểm sốt: Cụ thể là kĩ năng ứng phó với các tình huống
trong cuộc sống: Đây là một trong những kĩ năng quan trọng cần phải giáo dục
cho các em, đặc biệt là trong xã hội và môi trường sống hiện tại. Tôi tập trung

hướng cho các em biết cách ứng phó trong các trường hợp cụ thể như: tham gia
giao thơng như thế nào là an tồn, ứng phó trước các tình huống bị xâm hại, bắt
cóc, tai nạn đuối nước, phòng trống Covit – 19,...bằng cách tổ chức các cuộc thi
tuyên truyền kĩ năng chấp hành đúng luật khi tham gia giao thơng, cuộc giao lưu
phịng chống dịch Covit – 19 do huyện và nhà trường tổ chức, đưa ra các tình
huống cho các em tham khảo, thảo luận và đưa ra cách xử lí.
Ví dụ:Vào ngày nghỉ, bố mẹ đi vắng, Lan ở nhà một mình, bỗng có người
đàn ơng gọi cửa ngõ, hỏi bố mẹ Lan và bảo Lan mở cửa cho vào nhà. Nếu em là
Lan em sẽ làm thế nào?
Hoặc: Trên đường đi học về, em thấy các bạn cùng khối lớp em đi xe đạp,
dàn hàng ba hàng 4 trên đường, vừa đi vừa cười nói, lạng lách. Em sẽ làm gì
lúc đó?


14

Hội thi lồng ghép hoạt động trải Hội thi giáo dục kĩ năng sống, giá trị
nghiệm và truyền thông về phòng sống cho học sinh tiểu học
chống Covid-19 tháng 9/2020
2.3.3. Giải pháp 3: Đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc giáo dục kỹ
năng sống:
Kỹ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có
được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Vì thế, khi rèn kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên cần đảm bảo thực
hiện 5 nguyên tắc về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đó là:
+ Tương tác: Các kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề …
được hình thành tốt trong quá trình học sinh tương tác với bạn bè và những
người xung quanh. Tạo điều kiện để các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và
xem xét ý kiến của người khác...
Ví dụ: Ở bài Con sẻ – Tập đọc 4 (trang 90), học sinh thực hiện hoạt

động Giới thiệu bài : học sinh cùng tơi tìm hiểu các bức tranh, nêu ý kiến của
mình, tôi cùng cả lớp lắng nghe và chia sẻ. Đây là các hoạt động tạo điều kiện
cho học sinh biết cách tương tác và rèn được kĩ năng lắng nghe, thấu hiểu
người khác.
+ Trải nghiệm: Kỹ năng sống chỉ được hình thành khi người học được trải
nghiệm qua thực tế. Vì vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho các em có cơ hội
được trải nghiệm. Bản thân tơi đã được tập huấn về chương trình Nụ cười trẻ thơ
do Dự án tầm nhìn thế giới kết hợp thực hiện tại huyện.
Ví dụ:Khi giáo dục cho học sinh kĩ năng tham gia giao thông đúng cách,
tôi cùng học sinh tham gia giao thơng trên mơ hình ở sân trường, hướng dẫn học
sinh đội mũ bảo hiểm đúng cách. Hoặc khi tham gia giao thơng trên đường các
tình huống giả định, tơi giao bài tập: “Hãy ghi lại những tình huống em gặp khi
tham gia thực tế và cách em xử lí”. Sau đó chia sẻ với thầy cơ và các bạn trên
lớp. Hoặc tơi nhận phần việc chăm sóc vườn trường cho lớp, lên kế hoạch chăm
sóc cụ thể để các em thực hành, trải nghiệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên.


15

Học sinh thực hành đội mũ bảo hiểm đúng cách
+ Nguyên tắc tiến trình và nguyên tắc thay đổi hành vi: Giáo viên không thể
giáo dục kỹ năng sống trong một lần mà kỹ năng sống là một quá trình từ nhận
thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Thay đổi hành vi của một con người
đặc biệt hành vi tốt là q trình khó khăn. Do vậy giáo dục kỹ năng sống không
thể là ngày một ngày hai mà phải là cả một q trình.
Ví dụ: Muốn sửa thói quen dùng từ ngữ chưa đẹp trong giao tiếp (học
sinh hay nói tục, chửi thề) trước hết tơi phân tích cho các em thấy ý nghĩa của
lời nói trong giao tiếp – cái chưa hay khi các em sử dụng từ ngữ chưa đẹp cũng
như những điều thuận lợi khi sử dụng lời nói đẹp trong giao tiếp với người khác
– Giúp các em có vốn từ - Đưa ra các tình huống cụ thể - Quan sát và theo dõi

trên thực tế, có nhắc nhở, khích lệ kịp thời. Quá trình này phải diễn ra thường
xuyên, liên tục thì mới có thể sửa được.
+ Thời gian và môi trường giáo dục: Giáo dục giáo dục kỹ năng sống được
thực hiện mọi lúc mọi nơi; giáo dục kỹ năng sống được giáo dục trong mọi môi
trường như gia đình, nhà trường, xã hội; cần phải tạo điều kiện tối đa cho học
sinh tham gia vào các tình huống thật trong cuộc sống. Khi tiến hành tuân thủ
các ngun tắc trên, tơi nhận thấy một số em có sự tiến bộ rõ rệt, học sinh tự
nhận thấy được rèn luyện và tự thay đổi. Điều đó tác động rất tốt đến hiệu quả
chung của cả thầy và trò.


16

Học sinh vẽ tranh cổ động phòng chống Covid-19 tại nhà
2.3.4. Giải pháp 4:Phối kết hợp tốt giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo
viên Tổng phụ trách Đội trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Trước hết, là giáo viên chủ nhiệm lớp, tơi xác định mình cần làm tốt
những cơng việc sau:
- Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên
cần, tích cực của học sinh, biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng
tạo ở mỗi học sinh. Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học
sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc
sống.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục chăm sóc giáo dục các
em một cách thích hợp, tuân theo một số quan điểm: giúp các em phát triển
đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm
mỹ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám
phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình
huống khác nhau.
Ví dụ: Để hình thành và rèn luyện tốt kĩ năng hợp tác, tự giải quyết vấn

đề, ngoài bài tập thực hành trên lớp, tôi kết hợp với cha mẹ học sinh, giáo
viênbộ môn, giáo viên TPT, xây dựng nhiều bài tập, tình huống để các em rèn
luyện. Tôi cũng chia sẻ với gia đình học sinh để có một mơi trường tốt, khơng
những các em được hợp tác với bạn bè, thầy cô mà cịn hợp tác tốt với những
người trong gia đình, mạnh dạn nêu ý kiến cá nhân, chịu trách nhiệm trước việc
làm của mình.
- Giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác,
các em biết chia sẻ chăm sóc, học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và
diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các
em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Thường xuyên liên hệ


17
với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh
những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách
giải quyết những khó khăn gặp phải.
Bên cạnh đó, bản thân giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với giáo
viên Tổng phụ trách Đội, xây dựng kế hoạch hoạt động theo từng tháng, từng kì,
từng chủ điểm để có các hoạt động ngồi giờ lên lớp thú vị, hấp dẫn và phát huy
khả năng của các em.
Ví dụ: Tháng 3: Sinh hoạt, học tập, rèn luyện theo chủ đề: Tiến bước lên
Đồn.
Tơi đã cùng các giáo viên khác trong khối 4, kết hợp cùng với giáo viên
Tổng phụ trách Đội lập kế hoạch, tổ chức phát động một số phong trào như vẽ
tranh thể hiện “Ước mơ của em”, viết thư Upu lần thứ 50 do Đoàn Thanh niên tổ
chức,… sưu tầm những bài văn hay, bài viết chữ đẹp để xây dựng các góc học
tập, cuối tháng chúng tôi tổ chức cho các em giới thiệu sản phẩm của mỗi lớp,
bình chọn lớp có sản phẩm đẹp nhất, lời giới thiệu hay nhất.

Viết thư Quốc tế UPU lần thứ 50 tháng 3/2021

2.3.5. Giải pháp 5: Phối hợp với cha mẹ cách dạy học sinh kỹ năng
sống trong gia đình.
Thực tế cho thấy, cha mẹ là người có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm
xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Vì vậy, tơi
phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh. Động viên các bậc cha mẹ thường xuyên
gần gũi, trao đổi với các em.
Ví dụ:Con thích chơi với bạn nào? Nhóm bạn của con có điều gì thú vị?
Con muốn mời ai về nhà chơi?...Điều này giúp cha mẹ hiểu các em hơn, dạy
được các em kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lựa chọn, ứng phó…


18
Tôi tuyên truyền để cha mẹ các em không nên bực bội khi các em về đến
nhà hoặc cho rằng các em chỉ biết chơi suốt ngày mà thay vào đó cần có niềm
tin ở các em. Tơi phối hợp một cách chặt chẽ và hợp lý với phụ huynh bằng
việc động viên cha mẹ các em tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong
nhà trường, tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp
của nhà trường và tham gia một số hoạt động ngoại khố; chỉ bằng cách đó thơi
cha mẹ đó giúp các em hiểu rằng học là phải học cả đời.
Trong gia đình, cha mẹ cần cho các em những mẫu hành vi văn hóa,
những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung
quanh các em. Vì vậy, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em.Tạo điều kiện tốt nhất cho
các em vui chơi, giải trí lành mạnh.
Tơi chia sẻ để cha mẹ tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng
ngày của các em như các trò chơi thư giãn, trò chơi rèn luyện, trò chơi vận
động… Thường xuyên động viên các em đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho
các em nghe, qua đó rèn luyện đạo đức cho các em, giúp các em hồn thiện
mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho
các em qua các câu truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tìm tòi, ham

học hỏi, phátt triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Cha mẹ nên khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện
với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn
của mình, cố gắng khơng chỉ trích các quyết định của các em.Việc này sẽ hình
thành kỹ năng tự kiểm sốt bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham
gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Cha mẹ nên giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích
đó.Ví dụ như một số học sinh thích vẽ, ngồi việc cho các em học trên lớp thì
cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em cách lưu
giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em hoặc
triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà.
Cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử
dụng các đồ dùng ăn uống; Có thói quen với sự sạch sẽ, gọn gàng, những cuộc
trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói
quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập
sau này.
2.3.6. Giải pháp 6: Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ
chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong lớp, trong trường.
Nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh.
Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác
phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế
hoạch và thực hiện nhiều hoạt động cho lớp mình một cách thiết thực, khuyến
khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh.Cụ thể như sau:


19
- Khuyến khích các em phát huy tính sáng tạo, óc thẩm mĩ, thực hiện

trang trí lớp học, góc học tập của mình.
- Xây dựng kế hoạch hoạt động của mỗi ban, mỗi nhóm, cùng thi đua
học tập và rèn luyện. sách thư viện.
- Xây dựng thư viện lớp học với nhiều nhóm sách như: “sách Bác Hồ”,
“sách Lịch sử”, “câu đố vui”; “những con vật đáng yêu”;“hoa trái bốn
mùa”; …thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ,
vừa tầm các em.
Năm học 2020 -2021 khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cường tổ
chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực
khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học của huyện với cương vị là giáo
viên chủ nhiệm, tôi đã phối hợp tốt với giáo viên dạy Thể dục, giáo viên Tổng
phụ trách Đội tổ chức nhiều trò chơi dân gian trong các giờ học và sinh hoạt tập
thể. Đồng thời, tôi đã phát động phong trào sưu tầm các bài hát dân ca và các
điệu múa để tập luyện cho các em và thành công trong cuộc thi văn nghệ cấp
trường nhân dịp 20/11, thi múa hát sân trường nhân dịp 22/12, thi các trị chơi
dân gian nhân ngày 26/3. Trong đó thành tích của lớp 4A do tơi chủ nhiệm rất
đáng tuyên dương: Giải nhì thi văn nghệ, giải nhất múa hất sân trường, giải nhất
thi đấu các trò chơi dân gian. Song song đó, Đồn - Đội phối hợp duy trì việc
sinh hoạt ngồi giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học được chơi. Huy
động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của
cha mẹ các em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo dục văn
hóa, truyền thống, giáo dục lịng u nước cho học sinh .

Múa hát sân trườngThi văn nghệ chào mừng 20/11/2020
Tổ chức hoạt động mang tính chất giáo dục sự đồng cảm, chia sẻ như:
“Áo ấm tặng bạn”, “Vòng tay yêu thương”, “Vẽ những điều mơ ước cho mẹ”
nhằm huy động sự tham gia của cha mẹ học sinh, các tổ chức, lực lượng xã hội,
cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lịng u nước cho
trẻ và qua đó tuyên truyền về việc giáo dục các em những hành vi kĩ năng sống.



20
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
đối với bản thân, đối với đồng nghiệp.
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân qua nhiều năm
giảng dạy, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của
các bậc cha mẹ nên lớp tơi đã đạt được một số kết quả trong việc giáo dục các
kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
2.4.1.Đối với hoạt động giáo dục của nhà trường:
- Sau một năm thực hiện sáng kiến thực sự đã tác động rõ ràng đến chất
lượng chung của nhà trường. Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên thực hành
các tiết dạy thực hành ngoài trời tốt, thường xuyên tổ chức các hội thi giao lưu
trong trường vào các ngày lễ, có kế hoạch cụ thể cho từng khối lớp để giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh.
- Phụ huynh ln coi trọng học sinh và tích cực tham gia vào các hoạt
động giáo dục học sinh ở nhà trường. Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết
phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với
giáo viên bằng nhiều hình thức thơng qua sổ liên lạc, bảng đánh giá học sinh ở
lớp; bằng điện thoại hay hộp thư điện tử của giáo viên chủ nhiệm,…Giao tiếp
giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, bớt la mắng học sinh,
thay đổi trong cách giáo dục kỹ năng cho các em, phân việc cho các em , không
cung phụng thái quá,…Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của học
sinh, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, không chê bai chỉ trách cô
giáo ngược lại cha mẹ thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cơ giáo, cung cấp
vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp và các hoạt động khác.
Sau một năm học thực hiện từ tháng 9/2020 đến tháng 4/2021 tôi áp dụng
các giải pháp trên cho học sinh lớp 4A, tôi tiến hành khảo sát đã thu được kết
quả như sau:
* Bảng 1: Bảng khảo sát được thực hiện vào thời điểm cuối tháng 9 năm 2020.
Kĩ năng


Lớp

Kĩ năng
giao tiếp

Kĩ năng
hợp tác

Kĩ năng tự
phục vụ

HTT HT

HTT HT

HTT HT

Kĩ năng
Kĩ năng
thích
kiểm sốt
khám phá, bản thân
học hỏi
HTT HT HTT HT

4A 30
5
25
7

23
8
22
5
25
* Bảng 2: Bảng khảo sát được thực hiện vào đầu tháng 4 năm 2021
Kĩ năng
Kĩ năng
Kĩ năng
Kĩ năng tự
Kĩ năng
giai tiếp
hợp tác
phục vụ
thích
khám phá,
học hỏi
Lớp
HTT HT HTT HT HTT HT HTT HT

4

4A

27

30

22


8

22

8

28

2

25

5

26

Kĩ năng
kiểm soát
bản thân
HTT HT
3


21
Nhìn vào bảng khảo sát kết quả trên cho thấy được những ưu điểm của
các biện pháp giáo dục kĩ năng sống mà tôi đã áp dụng cho học sinh lớp 4A thật
sự hiệu quả, các kĩ năng sống của học sinh được nâng lên rõ rệt so với thời điểm
khảo sát đầu năm. Điều đó đã mang lại niềm vui cho cả thầy và trị trong suốt
q trình thực hiện, góp phần hình thành và phát triển tồn diện phẩm chất và
năng lực cần đạt cho học sinh lớp 4A nói riêng. Đồng thời tạo tiền đề cho học

sinh hoàn thiện bản thân từ đầu cấp học.
2.4.2. Đối với bản thân
- Mạnh dạn đưa ra các ý tưởng hoạt động giao lưu trong tổ chuyên môn
hàng tháng để giáodục kĩ năng sống cho học sinh, thông qua buổi sinh hoạt
ngoại khóa, chào cờ, sinh hoạt lớp.Trong q trình giảng dạy tôi nhận thấy công
tác chủ nhiệm của tôi được nâng lên, nhẹ nhàng hơn khi lên lớp dạy, kĩ năng
sống học sinh nâng lên rõ rệt, mạnh dạn, tự tin, tự giác trong các hoạt động của
lớp của Đội của nhàtrường. Được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức;
kỹ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong
cuộc sống của học sinh; ngoài ra được rèn kỹ năng tự kiểm sốt bản thân, phát
triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục và
các môn học khác như rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống hòa bình và tuyệt đối khơng xảy ra bạo lực trẻ em ở trường cũng
như ở gia đình.
- Học sinh có kết quả cao trong học tập thơng qua các kì kiểm tra giữa kì
và cuối kì, sau mỗi giai đoạn qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi
chủ đề đối với từng học sinh ở lớp 4A đều hồn thành và hồn thành tốt, thậm
chí tỉ lệ các em hoàn thành tốt từng kĩ năng rất đáng khen ngợi.
- Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít
gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết
thương yêu bạn bè trong cùng một mái trường ,biết giúp đỡ bạn cùng tiến.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp:
- Giáo viên chịu khó gần gũi chuyện trò với học sinh, trả lời những câu
hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, cơng bằng với mọi
tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Trong giảng dạy, chú ý đến
hoạt động nhóm, kĩ năng trình bày nhiều hơn, hình thức tổ chức lớp học cũng
phong phú, cơng tác chủ nhiệm của giáo viên được nâng cao.
- Giáo viên mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh,
chuẩn bị kế hoạch chủ nhiệm rõ ràng và hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, trao đổi
thường xuyên với cha mẹ các em.

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Qua một thời gian thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tôi đã rút
ra được những bài học quý giá như sau:
Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong cơng tác trồng người.
Vì thế, bản thân luôn cố gắng trao dồi kinh nghiệm, học hỏi từ đồng nghiệp cũng
như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên
môn, luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được


22
diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một
cách tồn diện.
Để thành cơng trên con đường dạy học, người giáo viên phải luôn học tập,
rèn luyện, nêu cao khẩu hiệu là một giáo viên có tấm gương tốt cho học sinh noi
theo. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường
để xây dựng mơi trường an tồn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của
địa phương đáp ứng nhu cầu mới của xã hội .
Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của Ngành, bám sát chủ đề kế
hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh cụ thể của từng học
sinh trong lớp .
Có bước chủ động trong công việc, nắm bắt kết quả qua các bước thực
hiện một cách nhanh nhất để đưa vào việc điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng
thời điểm. Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ
phía học sinh.
Phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong nhà trường, phụ huynh học
sinh. Ln lắng nghe những ý kiến về những khó khăn của học sinh, giúp cho
các em đổi mới phương pháp, tích cực học tập, có năng lực tự học và biết tự
điều chỉnh hành vi, tự giác chấp hành tốt nội quy nhà trường.
3.2. Kiến nghị

* Về phía nhà trường.
- Chỉ đạo sát sao công tác dạy kĩ năng sống cho từng tổ chuyên môn, từng
khối lớp.
- Chỉ đạo hoạt động của thư viện, trang bị thêm tài liệu về kĩ năng sống để
có thêm nguồn tài liệu cho giáo viên và học sinh tham khảo.
- Chỉ đạo Đoàn – Đội tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp, tạo môi
trường tốt để học sinh rèn kĩ năng sống.
- Phát động và tổ chức nhiều phong trào thi đua để đẩy mạnh chất lượng
giáo dục kĩ năng sống trong đơn vị.
* Về phía giáo viên.
- Trước hết, giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ, tạo điểm tựa vững chắc để học sinh chia sẻ, bày tỏ.
- Luôn phối kết hợp với nhà trường, các tổ chức đoàn thể trong trường,
với phụ huynh học sinh trong công tác giáo dục kĩ năng sống, dõi theo mọi biểu
hiện của các em để có kế hoạch giáo dục phù hợp.
- Cố gắng áp dụng những kinh nghiệm hay của đồng nghiệp, sáng tạo
thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao những kĩ năng sống tốt cho học
sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có
năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc
sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội.
Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu một số biện
pháp giáo dụckĩ năng sống cho học sinh lớp 4A. Tôi rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để các biện pháp trên khả thi hơn.


23
Bá Thước, ngày 20 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người viết


Hà Thị Đàm
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
………………………………………….
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………




×