Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số giải pháp hướng dẫn học sinh học tốt phân môn tập đọc lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 23 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2.

Mục đích nghiên cứu

1

1.3.

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4.

Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


2

2.1.

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2.

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3

2.3.

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

4

2.3.1

Điều tra cấu trúc, chương trình phân mơn tập đọc lớp 3

5

2.3.2

Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh


5

2.3.3

Rèn học sinh đọc kết hợp với giải nghĩa của từ

8

Rèn đọc thầm, đọc hiểu để tìm hiểu nội dung văn bản
2.3.5 Rèn đọc diễn cảm dựa trên từng đối tượng học sinh
2.3.4

8
10

2.3.6

Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm với từng thể loại

12

2.3.7

Áp dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực theo
hướng phát huy năng lực của học sinh

18

2.3.8


Kết hợp rèn đọc ở tất cả các môn học

19

2.4.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

19

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

20

3.1.

Kết luận

20

3.2.

Kiến nghị

20

Tài liệu tham khảo

1. MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, Nghị quyết của Đảng và các văn kiện của Nhà
nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo đều đưa ra mục đích là giáo dục học sinh trở
thành con người toàn diện. Thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày


2

04/11/2013 của BCHTW về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”.[1]
Mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho
học sinh, được thể hiện ở bốn dạng hoạt động tương ứng với bốn kỹ năng “nghe,
nói, đọc, viết”. Trong đó phân mơn Tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục
học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, trong xã hội và
trong văn chương. Thông qua môn Tập đọc rèn luyện cho học sinh tư duy trừu
tượng và cả tư duy logic. Học sinh được hiểu thêm về các vùng miền của đất
nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý báu của dân tộc.
Trong quá trình dạy học phân môn Tập đọc tôi nhận thấy đa số học sinh
chỉ dừng lại ở mức độ đọc to, đọc trôi chảy, đọc trơn câu, số lượng học sinh đọc
đúng và diễn cảm cịn rất hữu hạn. Ít học sinh biết nhấn giọng ở các từ ngữ quan
trọng và thay đổi ngữ điệu cho phù hợp với nội dung câu văn, đoạn văn. Vì thế
dẫn đến chất lượng đọc của học sinh chưa đáp ứng với mục tiêu môn học, học
sinh chưa biết thể hiện tình cảm của mình qua bài đọc. Bên cạnh đó phụ huynh
chưa quan tâm đến việc rèn đọc của các em, chỉ chú trọng vào việc đọc nhanh và
không sai lỗi là được. Thực tế trong giảng dạy những năm qua, bản thân tôi nhận
thấy khả năng thể hiện giọng đọc của học sinh còn ở mức đơn giản, một số em
đọc còn chậm, nên trong giao tiếp cịn gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt phần
đọc diễn cảm cịn rất hạn chế, khơng hiểu ý nghĩa của bài và phát hiện được giá

trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ.
Vì thế, trong khi dạy phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 3, bản thân tơi
đã tìm tịi nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo, dự giờ
đồng nghiệp, thiết kế các hình thức tổ chức dạy học phù hợp để tạo hứng thú cho
học sinh. Đồng thời góp phần giúp học sinh tích cực trong việc học tập các mơn
học khác và là nền tảng để học tốt môn Tiếng Việt ở các lớp trên. Chính vì vậy
mà tơi chọn nội dung “Một số giải pháp hướng dẫn học sinh học tốt phân môn
Tập đọc lớp 3” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Củng cố các cách đọc cho học sinh, từ đó hình thành cho học sinh lịng
ham đọc sách, thói quen làm việc với các văn bản và thường xun đọc nhiều
văn bản để có ích cho cuộc sống.
- Tìm ra các phương pháp giúp học sinh đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu
lốt, trơi chảy), đọc có ý thức (thơng hiểu được nội dung những điều mình đọc
hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm nhằm giúp học sinh học tốt phân môn
Tập đọc và từng bước góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Nhằm thu hút học sinh thêm yêu quý tiếng Việt, hứng thú tham gia vào
các hoạt động học tập, đồng thời giúp học sinh sử dụng tiếng Việt thành thạo
trong mọi tình huống.


3

- Để trao đổi với đồng chí, đồng nghiệp, nhằm mục đích góp phần nâng
cao chất lượng phân mơn Tập đọc cho học sinh lớp 3 nói riêng và mơn Tiếng
Việt nói chung ở trường Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số phương pháp và hình thức tổ chức trong dạy học phân môn Tập
đọc, các hoạt động học tập rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh trong phân môn
Tập đọc ở lớp 3.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết và trao đổi kinh nghiệm.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp trò chuyện.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
“Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.”[2]
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là bậc học nền
tảng. Mỗi mơn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển
những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam.
Dạy tốt phân mơn Tập đọc cịn tạo cho học sinh một nền tảng vững chắc
để học tốt môn Tiếng Việt và tất cả các phân mơn khác. Có đọc đúng, đọc trôi
chảy mới cảm thụ được bài văn và đọc đúng sẽ hiểu tất cả các văn bản khác.
Nhưng năng lực này khơng phải tự nhiên mà có. Năng lực này phải từng bước
hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên.
Tập đọc là một phân môn thực hành, nhiệm vụ quan trọng nhất là hình
thành những năng lực đọc cho học sinh từ 4 yêu cầu về chất lượng “đọc”: Đọc
đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc diễn cảm. Cụ thể:
+ Đọc đúng, đọc nhanh là đọc lưu lốt, trơi chảy.
+ Đọc có ý thức là đọc thơng, hiểu được nội dung.
+ Đọc diễn cảm là ngắt, nghỉ hợp lí, giọng đọc phù hợp với từng nội dung,
câu đọc, bài đọc, thể hiện nội tâm trong từng lời nói nhân vật hay nội tâm toàn

bộ bài đọc. Các kĩ năng đọc tác động tích cực qua lại lẫn nhau, vì vậy trong dạy
học không thể xem nhẹ yếu tố nào.
- Phân môn Tập đọc cịn hình thành ở các em phương pháp và thói quen
làm việc với văn bản, giúp các em thấy được lợi ích của việc đọc trong học tập
và cuộc sống.
- Ngồi ra, phân mơn Tập đọc cịn có nhiệm vụ:
+ Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học
sinh.


4

+ Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.
+ Giáo dục tư tưởng, đạo đức, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong giai đoạn đổi mới và phát triển
giáo dục hiện nay, bản thân tôi là giáo viên giảng dạy lớp 3 nhiều năm tại trường
Tiểu học Hợp Thành, tôi nhận thấy: Trong phân môn Tập đọc của môn Tiếng
Việt lớp 3 có nhiều dạng bài, mỗi dạng bài là một tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy,
hướng dẫn học sinh học tốt các văn bản đó cần phải chú ý đến tính nghệ thuật
của từng văn bản. Ngồi chức năng hướng dẫn cho học sinh học tốt các văn bản,
còn trau dồi cho học sinh kiến thức tiếng Việt (ngữ pháp), kiến thức văn học (cái
hay, cái đẹp), kiến thức đời sống (kĩ năng sống).
2.2. Thực trạng.
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của Ban lãnh đạo địa phương về cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đồ dùng dạy học trang bị khá đồng bộ, đảm bảo cho việc giảng dạy. Ban
giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện để cho cán bộ giáo viên nỗ lực phấn
đấu không ngừng đã từng bước góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh.
Các em học sinh đều rất ngoan, thực hiện tốt theo Năm điều Bác Hồ dạy, có

ý thức học tập chăm chỉ, sách vở, đồ dùng học tập tương đối đầy đủ.
* Khó khăn:
Trong năm học 2020 - 2021 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy
lớp 3B với tổng số 42 học sinh. Đa số các em đều là con em có bố mẹ làm nơng
nghiệp và làm cơng nhân ở xa, ít có thời gian quan tâm đến việc học tập của con
em mình. Vì vậy khơng có thời gian hướng dẫn các con việc học ở nhà.
Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trong đầu tháng 10 bằng cách cho các
em đọc các bài tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 và một số bài văn
bài thơ hay trong các sách tham khảo như: Hai bàn tay em; Khi mẹ vắng nhà;
Đơn xin vào Đội; Cơ giáo tí hon.
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm
Thời gian
Số
Mức độ chất lượng phân môn Tập đọc
Đọc to,
học
Đọc diễn
Đọc đúng,
Đọc chậm,đọc
nhưng
đọc
sinh
cảm
rõ ràng, lưu
nhỏ, đọc cịn
cịn
thêm,
tham
lốt
phải đánh vần

bớt
gia
Tuần 5
SL
TL SL
TL
SL
TL
SL
TL
( Tháng10) 42
3 7.1% 9 21.4% 18 42.9% 12
28.6 %

Từ kết quả khảo sát tôi nhận thấy học sinh thường mắc một số lỗi khi đọc:
+ Lỗi phát âm


5

- Tiếng có phụ âm đầu: l- n; ch -tr; d -r – gi... Học sinh rất hay đọc nhầm
các tiếng có phụ âm đầu như: “long lanh” thì đọc là “nong nanh”
- Các lỗi về vần như: “con hươu” thì đọc là “con hiêu”, “xe buýt" thì đọc
là “xe být”.
- Các lỗi về thanh còn đọc nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh hỏi như:
“nghỉ ngơi” thì đọc là “nghĩ ngơi”, “dũng cảm” thì đọc là “dủng cảm”.
+ Học sinh đọc ê a, ngắc ngứ chưa lưu loát:
Trong quá trình dạy học sinh đọc tơi thấy các em mắc lỗi này khá nhiều.
Các em đọc vấp và ngắc ngứ.
+ Học sinh đọc thiếu từ hoặc thêm từ khơng có trong văn bản, đọc

ngắt, nghỉ hơi khi đọc câu chưa hợp lí:
Ví dụ: Trong bài “Cửa Tùng” - SGK Tiếng Việt lớp 3 - Tập 1- Trang 109
học sinh đọc câu ngắt, nghỉ hơi sai như sau: “Thuyền chúng tôi/ đang xi dịng
Bến Hải/ con sơng in đậm dấu ấn/ lịch sử một thời chống Mĩ cứu nước.// Đôi bờ
thôn xóm/ mướt màu xanh/ lũy tre làng và những rặng phi lao/ rì rào gió thổi.//”
+ Học sinh đọc vẹt, không hiểu văn bản:
Chúng ta đều biết đọc vẹt là cách nói ẩn dụ, ví cách đọc của học sinh với
con vẹt - bắt chước nói nhại lại nhưng khơng hiểu gì. Trong lớp tơi có khá nhiều
học sinh đọc như vậy. Học sinh đọc rất trôi chảy nhưng không hiểu là mình đọc
gì, khơng nắm chắc nội dung bài, đọc một cách máy móc thụ động.
+ Học sinh đọc đúng văn bản mà chưa hay.
Một số em chưa biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Ngồi ra
học sinh cịn chưa xác định đúng giọng đọc trong bài.
Bên cạnh đó cịn nhiều học sinh đọc bài với tốc độ chưa phù hợp, có em
đọc quá nhanh nhưng có em lại đọc q chậm. Chính vì vậy mà tôi áp dụng một
số giải pháp hướng dẫn học sinh học tốt phân mơn Tập đọc góp phần nâng cao
kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3B tôi đang giảng dạy.
* Nguyên nhân:
Thứ nhất: Tính năng động, linh hoạt, sáng tạo của một số học sinh còn
hạn chế nên khi giáo viên tổ chức các hoạt động học tập thì những em đó rất
ngại tham gia nên ảnh hưởng đến việc lĩnh hội kiến thức.
Thứ hai: Kĩ năng diễn đạt trong giao tiếp bằng lời nói của các em cịn dập
khn máy móc, nên các em chưa đáp ứng nhu cầu “học mà chơi, chơi mà học”.
Cuối cùng là việc các em đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu loát, trơi chảy, diễn
cảm văn bản cịn gặp nhiều khó khăn, nên khi các em được tham gia vào các
hoạt động học tập đạt kết quả chưa cao, ảnh hưởng nhiều đến việc học tốt phân
mơn Tập đọc nói riêng và chất lượng giáo dục tồn diện nói chung.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
* Mục tiêu của biện pháp:
Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe,

nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi.
Cung cấp cho học sinh những hiểu biết về cách thức sử dụng Tiếng Việt
như một công cụ giao tiếp tư duy.


6

Tổ chức thực hiện tốt các hoạt động học tập, nhằm giảm bớt số lượng học
sinh đọc chậm, đọc nhỏ, đọc sai (thêm, bớt), đọc ngọng, ... trong lớp và từng
bước góp phần nâng cao chất lượng học tốt phân môn tập đọc.
Bồi dưỡng kĩ năng sống để các em thêm yêu cuộc sống, yêu quý tiếng
Việt, yêu quý các mơn học và đặc biệt góp phần hình thành, phát triển kĩ năng sử
dụng tiếng Việt thành thạo.
Để biến mục tiêu trên thành kết quả, trước hết bản thân tôi xác định được
trách nhiệm của mình. Từ đó xác định nhu cầu học tập của học sinh để tìm
phương pháp đổi mới trong việc hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập đọc
sao cho phù hợp, tránh đơn điệu, nhàm chán, đáp ứng nhu cầu “học mà chơi,
chơi mà học” của các em.
* Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
2.3.1. Giải pháp 1: Điều tra cấu trúc, chương trình phân mơn tập đọc
lớp 3.
Qua điều tra cấu trúc, chương trình sách giáo khoa thì tồn bộ phần tập
đọc ở lớp 3 gồm 93 bài, trong đó có 30 bài thơ, 63 bài văn xi. Các bài học này
được bố trí theo từng chủ điểm trong sách giáo khoa và được trình bày rõ ràng,
chính xác, khoa học; các tranh ảnh minh họa màu sắc đẹp, bắt mắt. Riêng phân
môn Tập đọc chiếm 3 tiết/tuần. Các văn bản mở đầu mỗi tuần thường là truyện
kể, các văn bản sau là thơ hoặc văn bản khoa học, văn bản miêu tả, nghị luận và
văn bản hành chính; các bài tập đọc này được chia làm 2 dạng:
Dạng 1: Tập đọc - Kể chuyện (Tập đọc học 1,5 tiết, kể chuyện 0,5 tiết):

Dạng bài này vừa rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu lốt, trơi
chảy, diễn cảm văn bản, lại vừa giúp học sinh mạnh dạn, tự tin thể hiện giọng
đọc của nhiều nhân vật trong một bài học và còn làm cho tiết học trở nên sinh
động, hấp dẫn, thu hút người học.
Dạng 2: Tập đọc (Học thuộc lòng): Dạng bài này học trong 1 tiết vừa rèn
kĩ năng đọc cho học sinh vừa giúp học sinh thuộc lòng được một số bài văn, bài
thơ trong chương trình học.
2.3.2. Giải pháp 2: Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh.
Chức năng của môn Tập đọc là luyện đọc nên rèn cho học sinh đọc đúng,
đọc trôi chảy là mục tiêu đầu tiên của tiết học. Vì vậy đây là giải pháp đầu tiên
mà tôi áp dụng và áp dụng trong tất cả các giờ học trên lớp.
2.3.2.1. Rèn phát âm đúng từ chứa tiếng khó.
- Để học sinh phát âm đúng từ chứa tiếng khó thì việc đầu tiên là việc đọc
mẫu của giáo viên. Giáo viên đọc mẫu là phương pháp hiệu quả nhất, là trực
quan sinh động tác động trực tiếp đến học sinh. Khi đọc mẫu tôi yêu cầu tất cả
học sinh cùng theo dõi vào sách giáo khoa và lắng nghe giáo viên đọc, xem cô
nhấn giọng ở từ ngữ nào, cô ngắt, nghỉ hơi ở đâu, giọng của từng nhân vật cô
đọc thế nào?...
- Muốn luyện cho học sinh phát âm chuẩn thì giáo viên đọc mẫu phải
chuẩn, khi học sinh đọc bài phải theo dõi và phát hiện lỗi và sửa lỗi ngay cho
học sinh. Giáo viên cần nắm được cụ thể từng lỗi của học sinh để kịp thời sửa
chữa.


7

- Ln rèn cho học sinh có ý thức nói và đọc thật đúng, thật chuẩn để các
em hình thành kỹ năng. Luôn luôn nhắc nhở các em rèn đọc đúng không chỉ
trong các tiết học mà cả trong cách giao tiếp hàng ngày.
- Trong giờ Tập đọc, giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh kèm cặp nhau

đọc, đọc trong nhóm, yêu cầu học sinh đọc tốt kèm cho học sinh đọc chưa tốt.
Nhắc nhở các em cùng bảo nhau có ý thức phát âm đúng trong mọi tình huống.
Tập cho học sinh quan sát lời nói, cử chỉ, điệu bộ và sắc thái của giáo viên khi
đọc mẫu từng thể loại bài Tập đọc, để học tập và thực hành cho bản thân mình.
Trong các giờ Tập đọc giáo viên yêu cầu các em đọc thầm tìm những tiếng khó
đọc, các phụ âm hay đọc nhầm, sau đó cho học sinh phát hiện và hướng dẫn lại
cách phát âm cho các em.
Ví dụ: Trong lớp có nhiều em khi đọc luôn phát âm sai âm “d/r/gi”. Trường
hợp này tôi gọi học sinh phát âm chuẩn đọc trước, các em phát âm sai nghe, đọc
lại, đọc nhiều lần cho đến khi đọc đúng. Trong những tiết học tiếp theo, tơi cho
các em đó đọc nội dung hoặc u cầu của bài, chú ý xem các em đó có mắc lỗi
nữa không để kịp thời uốn nắn hoặc sửa chữa.
2.3.2.2. Rèn đọc đúng câu, đoạn văn.
Để đọc đúng, đọc hay các câu văn dài, đoạn văn tiêu biểu,... giáo viên
phải nói đến tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc lưu loát.
Cho học sinh biết khi mình đọc thành tiếng là người đọc có thể đọc cho mình
hoặc cho người khác hoặc cho cả hai.
Trong các giờ Tập đọc, Kể chuyện giáo viên chú ý nhận xét, sửa cho học
sinh về cách đọc, cách kể chuyện thật tỉ mỉ để làm cơ sở cho việc đọc bài mới
được tốt hơn. Khi đọc nối tiếp câu phát hiện ra học sinh nào chưa đúng cần sửa
chữa ngay. Khi đọc phải diễn tả được sắc thái và diễn đạt được ý trọn vẹn,
không được bỏ ngỏ.
Khi đọc nối tiếp đoạn, theo tôi nên cho các em một số câu hỏi gợi mở để các
em thảo luận tìm ra cách đọc cho mỗi đoạn (hoặc giọng đọc của các nhân vật)
sau đó giáo viên sẽ là người chốt lại cách đọc. Khi đọc đoạn gọi một học sinh
đọc, gọi học sinh nhận xét bạn và đọc lại, chú ý đọc ngắt, nghỉ và nhấn giọng ở
các từ ngữ gợi tả, gợi cảm cho phù hợp.
Ví dụ 1: Bài “Cậu bé thông minh” - SKG Tiếng Việt 3 - Tập 1 - Trang 4.
Sau đây là cách đọc một số câu:
Ngày xưa,/ có một ơng vua muốn tìm người tài ra giúp nước.// Vua hạ lệnh

cho mỗi làng trong vùng nọ/ nộp một con gà trống biết đẻ trứng,/ nếu khơng có
thì cả làng phải chịu tội.// ( giọng đọc chậm rãi).
Cậu bé kia,/ sao dám đến đây làm ầm ĩ ?// (đọc với giọng oai nghiêm).
Thằng bé này láo,/ dám đùa với trẫm!/ Bố ngươi là đàn ơng thì đẻ sao được?//
(giọng bực tức, lên giọng ở cuối câu).
Muôn tâu,/ vậy sao Đức vua lại hạ lệnh cho làng con/ phải nộp gà trống
biết đẻ trứng ạ // (Đọc với giọng thể hiện sự lễ phép, bình tĩnh, tự tin).
- Giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp đoạn, yêu cầu cả lớp lắng nghe và tìm
câu dài, khó đọc.


8

- Sau khi học sinh phát hiện được câu dài, khó đọc giáo viên ghi vào bảng
phụ rồi gọi 1, 2 học sinh đọc.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét thông qua hệ thống câu hỏi gợi ý:
Em nào có ý kiến khác? Bạn đọc như thế nào? ... Mời một vài em đọc lại.
- Học sinh đọc và ngắt hoặc nghỉ hơi để các bạn khác nhận xét bổ sung và
giáo viên thống nhất cách đọc.
Nhằm luyện kĩ năng đọc thầm và tập trung theo dõi người khác đọc và
phối hợp nhịp nhàng khi đọc lời nhân vật tôi cho học sinh thi đọc phân vai. Với
bài Tập đọc có lời nhân vật tơi thường dành 2 - 3 phút cho các em thi đọc.
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “Người liên lạc nhỏ” - Tiếng Việt 3 – tập 1.
Tôi hướng dẫn cụ thể như để học sinh biết đọc lời của nhân vật, cho học
sinh đọc thầm 1 lượt. Tơi hỏi:
- Bài có mấy nhận vật? Đó là những nhân vật nào?
- Lời của từng nhân vật đọc như thế nào?
- Giáo viên đọc mẫu đúng lời của các nhân vật.
+ Lời của ông Ké thân mật, vui vẻ: Nào, bác cháu ta lên đường !
+ Lời của anh Kim Đồng trong đoạn đóng kịch để lừa lũ giặc: bình tĩnh,

thản nhiên, khơng hề tỏ ra bối rối, sợ sệt khi trả lời bọn lính (Đón thầy mo về
cúng cho mẹ ốm); tự nhiên, thân tình khi gọi ơng Ké (Già ơi! Ta đi thơi! Về nhà
cháu cịn xa đấy!)
+ Giọng bọn lính hống hách.
Sau khi hướng dẫn và đọc mẫu, giáo viên cho học sinh đọc phân vai
(người dẫn chuyện, anh Kim Đồng, ông Ké, bọn giặc).
Đọc phân vai, giúp học sinh xác định đúng giọng đọc của từng nhân vật,
xác định mình đọc ở vai nhân vật nào. Đọc phân vai đòi hỏi sự hợp tác nhóm tốt,
đọc có sự liên kết giữa các nhân vật trong nhóm. Quan trọng là các em học hỏi
từ bạn bè về cách đọc, về cách biểu cảm nhân vật mình đảm nhiệm đọc. Trong
giờ dạy giáo viên cũng đừng quên nhận xét, tuyên dương, khen ngợi những em
đọc tốt để khuyến khích các em đọc tốt hơn nữa ở những tiết học sau. Hình thức
tuyên dương là những tràng pháo tay, là những nhãn dán stike. Học sinh rất phấn
khởi, hào hứng tham gia học tập.
2.3.2.3. Rèn đọc lưu lốt, trơi chảy tồn bài.
Đọc lưu lốt là nói đến kỹ năng đọc về mặt tốc độ, đọc không ê a, ngắc
ngứ. Tốc độ đọc nhanh chỉ thực hiện được khi đã đọc đúng. Khi đọc phải chú ý
xác định tốc độ để cho người nghe hiểu kịp được. Nhưng đọc nhanh không phải
là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng
trùng với tốc độ của lời nói.
Tơi hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học
sinh đọc thầm theo. Ngồi ra, tơi còn dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc
nhẩm có sự kiểm tra của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Ví dụ: Khi học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc đọc một khổ thơ, một đoạn
văn tơi đều nhắc cả lớp đọc thầm theo. Tơi cịn gây hứng thú cho học sinh bằng
những trò chơi cuối giờ như: Thi đọc tiếp sức, đọc thơ truyền điện...... Kết thúc


9


trị chơi bao giờ tơi cũng cho học sinh chọn và tuyên dương nhóm đọc nhanh
nhất, giỏi nhất và gợi ý rút kinh nghiệm cho lần chơi sau.
Muốn học sinh đọc nhanh, đúng tốc độ cần có sự chuẩn bị bài ở nhà tốt,
học sinh phải được đọc trước nhiều.
Đối với những học sinh đọc chưa lưu loát giáo viên nên cho học sinh
luyện đọc cá nhân nhiều lần, đọc cả yêu cầu bài tập hoặc nội dung ở những mơn
học khác như: Tốn, Tập làm văn, Luyện từ và câu,...Qua mỗi lần các em đọc
tiến bộ, giáo viên đừng quên dành những lời khen, động viên khích lệ các em dù
đó chỉ là kết quả nhỏ, vì đó là những thành công ban đầu của các em mà mỗi
giáo viên cần trân trọng.
2.3.3. Giải pháp 3: Rèn học sinh đọc kết hợp với giải nghĩa của từ.
Ở lớp 3, phần giải nghĩa từ khó được giải nghĩa song song cùng với bước
luyện đọc hoặc đan xen vào phần tìm hiểu nội dung bài. Việc các em hiểu nghĩa
của từ cũng là biện pháp giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm và cảm thụ được các
văn bản.
Có rất nhiều cách để giáo viên giải nghĩa từ cho học sinh vừa dễ nhớ, vừa
dễ hiểu và luyện đọc đúng sau khi đã hiểu nghĩa của từ. Giáo viên có thể chọn
nhiều cách để giải nghĩa: giải nghĩa bằng từ đồng nghĩa, bằng từ trái nghĩa, bằng
tranh minh họa, bằng cách mô tả hoặc bằng cách đặt câu với từ cần giải nghĩa.
Ví dụ: Khi tơi muốn giải nghĩa từ “nhà Rơng” và “già làng” trong bài
“Nhà Rông ở Tây Nguyên” tôi cho học sinh xem 2 bức tranh:

Thông qua quan sát tranh cụ thể học sinh sẽ hiểu được nghĩa của 2 từ này
rõ nhất.

2.3.4. Giải pháp 4: Rèn đọc thầm, đọc hiểu để tìm hiểu nội dung văn
bản.
Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn bản, hiểu văn bản thì khi dạy Tập đọc
phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề cần thiết,



10

quan trọng đối với học sinh lớp 3. Có hiểu nội dung bài văn, bài thơ thì mới có
cách đọc đúng, đọc hay và diễn cảm được. Việc luyện đọc hiểu thường được
thực hiện trong bước đọc thầm. Sự thực thì đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc
thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn
hẳn để tiếp nhận, thơng hiểu nội dung văn bản vì người ta khơng phải chú ý đến
việc phát âm mà chỉ tập trung để hiểu nội dung điều mình đọc. Hiệu quả của đọc
thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc
thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả đọc thầm phải giúp học sinh
hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là tồn bộ những gì đọc được.
Đọc thầm, đọc hiểu là kỹ năng đọc được chuyển từ ngoài vào trong, từ
đọc to đến đọc nhỏ, đọc mấp máy môi đến đọc bằng mắt không mấp máy môi.
Khi tổ chức đọc thầm, đọc hiểu muốn các em đọc thầm, đọc hiểu tốt thì giáo
viên phải là người đọc mẫu chuẩn, hay, diễn cảm để lôi cuốn học sinh tích cực
tham gia vào các hoạt động học tập. Vì vậy, đối với bất kì bài học nào, bản thân
tơi cũng đọc trước nhiều lần để nắm vững nội dung bài để giảng bài hay, lơi
cuốn học sinh. Chính vì thế, khi học sinh đọc thầm, đọc hiểu tôi đã kiểm sốt
q trình đọc của học sinh bằng cách xác định từng đoạn cho học sinh đọc. Khi
học sinh đọc, tôi theo dõi và yêu cầu vài học sinh chỉ vào sách giáo khoa xem
em đọc tới chữ nào để phát hiện những em khơng đọc thầm mà ngồi chơi.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Người con của Tây Nguyên (Tiếng Việt 3 - Tập 1 Trang 103).
Tôi yêu cầu học sinh nhìn vào sách giáo khoa đọc thầm đoạn 3 của bài và
dùng bút chì gạch dưới những từ chỉ sự vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kông
Hoa: “Một cái ảnh Bok Hồ vác cuốc đi làm rẫy, một bộ quần áo bằng lụa của
Bok Hồ, một cây cờ có thêu chữ, một huân chương cho cả làng, một huân
chương cho Núp”. Khi tôi kiểm tra nếu học sinh đã gạch đúng những từ chỉ sự
vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kơng Hoa thì có nghĩa là học sinh đã đọc thầm
tốt đoạn văn và nắm được nội dung đoạn đọc; còn nếu học sinh chưa gạch đúng

những từ chỉ sự vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kơng Hoa thì có nghĩa là học
sinh đọc thầm chưa tốt đoạn văn và như vậy học sinh sẽ không nắm được nội
dung đoạn đọc. Lúc này tôi yêu cầu học sinh đọc thầm lại đoạn 3 để gạch đúng
những từ chỉ sự vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kông Hoa.
Bên cạnh việc học sinh biết đọc thầm tốt để hiểu văn bản thì bản thân tơi
cịn kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học phong phú, đa dạng nhằm giúp học sinh
vừa nắm vững nội dung bài, vừa khắc sâu kiến thức và làm cho giờ học trở nên
sinh động, thu hút học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động của mơn học.
Ví dụ 2: Bài Nắng phương Nam (Tiếng Việt 3 - Tập 1- Trang 94)


11

Tôi yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn một, nếu thấy học sinh đọc q
nhanh thì tơi đưa ra câu hỏi ở đoạn một để hỏi học sinh “Uyên và các bạn đi
đâu, vào dịp nào?”. Nếu học sinh trả lời được có nghĩa là học sinh đã đọc thầm
tốt đoạn văn đó, cịn học sinh chưa trả lời được có nghĩa là học sinh đọc thầm
chưa tốt đoạn văn đó. Khi đó tơi cần u cầu học sinh đọc thầm lại đoạn 1 và
quan sát tranh để trả lời câu hỏi cho đúng.
Với biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải chú ý đọc thầm đoạn văn
cho tốt để trả lời đúng các câu hỏi về nội dung bài. Từ đó giúp các em tích cực,
tự giác hơn trong học tập. Đối với học sinh đọc chậm, tôi ln quan tâm, động
viên, khuyến khích các em kịp thời và thường dành những câu hỏi dễ, câu hỏi
gợi mở để các em có cơ hội trả lời giao lưu cùng các bạn, từ đó giúp các em
ngày càng học tốt phân môn Tập đọc hơn.
2.3.5. Giải pháp 5: Rèn đọc diễn cảm dựa trên từng đối tượng học
sinh.
Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ ngữ điệu để bộc lộ cảm xúc đối với bài
đọc. Đọc diễn cảm không những học sinh đã đạt được yêu cầu đọc đúng, đọc rõ
ràng, lưu lốt, trơi chảy văn bản mà cịn thể hiện được giọng đọc về cao độ,

trường độ và kèm theo cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt để góp phần diễn tả nội
dung bài.
Để học sinh luyện đọc diễn cảm tốt thì tơi dựa vào khả năng đọc của từng
đối tượng học sinh trong lớp. Trong dạy học nói chung, phân hóa từng đối tượng
học sinh là việc làm hết sức cần thiết để có phương pháp và hình thức dạy học
hợp lí. Đối với việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh cũng vậy, có những em đọc
chưa thành thạo, chưa trơi chảy thì u cầu đối với các em lại khác, có những
em đọc khá tốt, trơi chảy thì lại u cầu ở mức cao hơn.
2.3.5.1. Đối với học sinh đọc chưa thành thạo, phát âm chưa đúng.
- Giáo viên xếp học sinh ngồi đầu bàn để tiện việc rèn đọc cho học sinh.
- Giáo viên cần hướng dẫn các em đọc theo hình thức cá nhân; luyện đọc
tiếng khó, từ khó nhiều lần để học sinh đọc đúng. Hướng dẫn rèn luyện đọc
nhiều lần để các em làm quen với mặt chữ.
- Ngoài việc đọc đúng giáo viên cần xây dựng nề nếp học, thói quen đọc
tiếp sức câu, đoạn.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh học tốt kèm thêm học sinh đọc chưa
thành thạo, chưa phát âm đúng trong giờ Tập đọc (hoặc trong khi đọc sách ở
Thư viện).
- Vận dụng phương pháp luyện đọc theo mẫu, yêu cầu học sinh nghe và
nhìn; giáo viên đọc mẫu thật chuẩn, học sinh chú ý nghe và nhìn miệng giáo
viên để đọc theo.


12

- Khi học sinh đọc đã có tiến bộ thì giáo viên hướng dẫn học sinh đọc
đúng ngữ điệu, giọng đọc, nhấn giọng ở các từ ngữ... thì mới có thể đọc diễn
cảm tốt.
2.3.5.2. Đối với học sinh ngắt nghỉ hơi chưa hợp lí.
Thực tế trong lớp vẫn cịn có một số học sinh vẫn còn hiểu sai nghĩa nên

ngắt sai thì giáo viên có định hướng cho các em đọc đúng bằng cách hỏi câu hỏi
gợi mở: Tại sao các em ngắt nhịp như vậy? Nếu ta ngắt nhịp như vậy thì nghĩa
của nó thế nào? Em có hiểu nghĩa của câu đó khơng? Vậy ta phải ngắt như thế
nào?
Khi đọc ngắt nhịp đúng câu thơ, giáo viên gọi một số em đọc câu đó, giáo
viên nhận xét, sửa sai. Có thể cho các em kí hiệu và sách cho dễ nhớ như:
Ví dụ 1:
Em về quê ngoại/ nghỉ hè,
Gặp đầm sen nở/ mà mê hương trời.
Gặp bà/ tuổi đã tám mươi,
Quên quên/ nhớ nhớ/ những lời ngày xưa.
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc ngắt hơi sau dấu phẩy hoặc sau
các cụm từ, nghỉ hơi sau dấu chấm thì chú ý giọng đọc rõ ràng, phát âm chuẩn.
Ví dụ 2: Bài “Nhớ lại buổi đầu đi học” - SGK Tiếng Việt lớp 3 - Tập l Trang 51. Hướng dẫn học sinh ngắt, nghỉ hơi như sau:
Hằng năm,/ cứ vào cuối thu,/ lá ngoài đường rụng nhiều,/ lịng tơi
lại náo nức/ những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.// Tôi quên thế nào
được những cảm giác trong sáng ấy/ nảy nở trong lịng tơi/ như mấy cánh hoa
tươi/ mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.//
- Với các bài thơ giáo viên lưu ý học sinh cách ngắt hơi, nghỉ hơi theo
nhịp thơ.
Ví dụ 3: Trong bài thơ “Bận”- SGK Tiếng Việt lớp 3 - Tập 1 - Trang 59
Ngồi việc đọc đúng, chính xác, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh
cách nhấn giọng và ngắt nhịp giữa các dòng thơ đúng chỗ và thể hiện giọng đọc
đúng với nội dung.
Trời thu/ bận xanh/
Còn con/ bận bú/
Sông Hồng/ bận chảy/
Bận ngủ/ bận chơi/
Cái xe/ bận chạy/
Bận/ tập khóc cười/

Lịch bận tính ngày.//
Bận/ nhìn ánh sáng.//
Với bài này đọc với giọng vui, khẩn trương, thể hiện sự bận rộn của mọi
vật, mọi người.
2.3.5.3. Đối với học sinh đọc lưu lốt, trơi chảy.
- Bên cạnh việc rèn học sinh đọc chưa tốt, giáo viên không thể quên các
em đã đọc được mà cần nâng từ mức độ đọc khá lên đọc tốt.
- Ngoài việc đọc đúng, giáo viên cần phải xây dựng cho học sinh có thói
quen đọc tiếp sức đoạn và tự giác học tập, phát huy tính tích cực trong học tập.
Tạo mọi điều kiện để học sinh được tham gia vào tiết học (trả lời câu hỏi, phát
biểu về nghĩa của từ, mở rộng từ, tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa, đặt câu,...). Đề
xuất cách đọc diễn cảm sau khi hiểu từ, hiểu nghĩa; biết lắng nghe và nhận xét ý


13

kiến của bạn, được rèn đọc đúng và diễn cảm, tham gia các trò chơi, luyện đọc,
đọc theo cách phân vai.
Ví dụ: Bài “Người liên lạc nhỏ”- SGK Tiếng Việt lớp 3 - Tập l - Trang
112.
Tôi hướng dẫn cho học sinh đọc diễn cảm:
- Thể hiện giọng đọc qua từng đoạn:
- Hướng dẫn học sinh đọc phân biệt lời người dẫn chuyện, bọn giặc, Kim
Đồng, ông Ké, nhằm luyện đọc diễn cảm cho học sinh.
- Lời ông Ké thân mật, vui vẻ: Nào bác cháu ta lên đường!
- Lời Kim Đồng trong đoạn đóng kịch để lừa lũ giặc: bình tĩnh, thản
nhiên, khơng hề tỏ ra bối rối, sợ sệt khi trả lời bọn lính (Đón thầy mo về cúng
cho mẹ ốm); tự nhiên, thân tình khi gặp ơng Ké (Già ơi! Ta đi thơi! Về nhà cháu
cịn xa đấy!)
Đọc câu văn: Mắt giặc tráo trưng mà hóa thong manh (giọng giễu cợt bọn

giặc; đọc câu miêu tả “Những tảng đá ven đường sáng hẳn lên như vui trong
nắng sớm”, với giọng vui.
- Trong tiết học, giáo viên giữ vai trò tổ chức hướng dẫn học sinh luyện
đọc và tìm hiểu bài; giáo viên nghe và sửa chữa cách đọc của từng học sinh
nhưng khơng áp đặt và gị ép.
2.3.6. Giải pháp 6: Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm với từng thể loại
Đọc diễn cảm là một yêu cầu được đặt ra khi đọc những văn bản có những
yếu tố nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện kỹ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng
giọng, cường độ giọng... để thể hiện đúng tư tưởng, tình cảm mà tác giả đã gửi
gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của người
đọc qua bài đọc. Để đọc diễn cảm thì người đọc phải làm chủ được tốc độ đọc,
chỗ ngắt giọng, biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi cảm, gợi tả, biết đọc đúng
ngữ điệu khi gặp câu hỏi, câu cảm... Sau khi học sinh hiểu nội dung bài đọc thì
các em sẽ biết cách diễn đạt thích hợp dưới sự hướng dẫn của giáo viên để hình
thành kỹ năng đọc theo các bước:
- Tập lấy hơi và tập thở: Biết thở sâu ở chỗ ngưng nghỉ để lấy hơi khi đọc.
- Rèn cường độ giọng đọc.
- Luyện đọc to (bắt đầu từ lớp 1).
- Luyện đọc chính âm (đã trình bày ở phần đọc đúng).
- Luyện đọc diễn cảm:
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận vì sao đọc như vậy. Có
thể đọc phân vai để làm sống lại nhân vật của bài đọc.
Trong chương trình Tập đọc lớp 3, phần lớn các bài tập đọc là các bài văn
xuôi hay các câu chuyện. Để giúp học sinh đọc hay được những văn bản này
trước hết giáo viên cần tìm hiểu kĩ nội dung bài để xác định giọng đọc cho phù
hợp.
2.3.6.1. Đối với các bài văn xuôi:
- Giáo viên muốn tạo cho học sinh đọc diễn cảm, diễn tả được cảm xúc thì
cần chú ý đến những yếu tố cơ bản như nhấn giọng những từ ngữ nào hay đọc
với giọng ra sao thì phù hợp với cảm xúc trong bài.



14

- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt gợi
mở để học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh
cảm xúc trong bài.
- Giáo viên viết đoạn văn ra băng giấy hoặc bảng phụ (chuẩn bị sẵn) gắn
lên bảng để học sinh tìm ra cách đọc. Gọi 1, 2 em đọc tốt đọc diễn cảm. Nếu học
sinh chưa đọc được thì giáo viên đọc mẫu cho các em.
Ví dụ: Trong bài “Ơng ngoại” cần nhấn giọng các từ ngữ được gạch chân
nhằm nêu bật được vẻ đẹp của bầu trời sắp vào thu:
“Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dịng sơng trong trơi lặng lẽ giữa
những ngọn cây hè phố.”
Hay trong câu: “Trước ngưỡng cửa của trường tiểu học tơi đã may
mắn có ơng ngoại - Thầy giáo đầu tiên của tôi.”
Cần nhấn giọng ở các từ ngữ được gạch chân để thể hiện tình cảm biết ơn
của bạn nhỏ đối với ông ngoại - người thầy giáo đầu tiên của bạn.
2.3.6.2. Đối với câu chuyện xuất hiện những nhân vật:
Thể loại văn này thường có nhiều nhân vật, mỗi nhân vật mang một tính
cách khác nhau, nên khi luyện đọc thường đọc diễn cảm với nhiều giọng đọc
khác nhau như:
- Nhân vật là hiện thân của cái ác đọc với giọng hăm doạ, dữ dằn, hách
dịch, vu vạ, thiếu thật thà, ...
- Nhân vật là hiện thân của cái thiện đọc với giọng nhẹ nhàng, rõ ràng, lễ
phép, thản nhiên.
- Giọng buồn đọc thong thả, chậm rãi, xúc động.
- Giọng của các anh hùng dân tộc đọc dứt khoát, rành mạch, hào hùng.
- Người dẫn chuyện đọc với giọng chậm rãi, rõ ràng, khách quan, ...
- Giọng đọc của người tri thức khoan thai, nhẹ nhàng, khiêm tốn và thể

hiện thái độ tôn trọng, lễ phép.
- Những người nông dân nghèo khổ đọc với giọng thật thà, phân trần,
ngạc nhiên nhưng cương quyết.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Mồ Côi xử kiện (Tiếng Việt 3 - Tập 1 - Trang 139)
Tơi đọc mẫu tồn bài xong, hướng dẫn học sinh đọc bài với các giọng đọc như:
Người dẫn chuyện: đọc với giọng rõ ràng, khách quan.
Giọng chủ quán: vu vạ, thiếu thật thà.
Giọng bác nông dân: phân trần, thật thà (khi kể lại sự việc), ngạc nhiên,
giãy nảy lên (khi nghe lời phán của Mồ Côi địi bác phải trả tiền cho chủ qn).
Giọng Mồ Cơi: nhẹ nhàng, thản nhiên (khi hỏi han chủ quán và bác nông
dân); nghiêm nghị khi yêu cầu bác nông dân phải xóc bạc, chủ quán phải chú ý
nghe), riêng lời phán cuối cùng rất oai, giấu một nụ cười hóm hỉnh.
Sau khi hướng dẫn học sinh phân biệt giọng đọc của các nhân vật, đến
phần luyện đọc lại tôi yêu cầu học sinh thi đọc diễn cảm một câu văn hoặc một
đoạn văn theo cặp trước, sau đó tơi gắn tranh yêu cầu học sinh quan sát kĩ hình
ảnh các nhân vật trong tranh như chủ quán, bác nông dân, Mồ Cơi để tham gia
vào trị chơi “Thi đọc diễn cảm câu văn, đoạn văn mà mình u thích” và nêu lí
do vì sao lại thích.


15

Một hơm,/ có người chủ qn/ đưa một bác nơng dân đến công đường.//
Chủ quán thưa:
- Bác này vào quán của tơi/ hít hết mùi thơm lợn quay,/ gà luộc,/ vịt rán
mà không trả tiền.// Nhờ ngài xét cho.// (giọng chủ qn vu vạ, thiếu thật thà)

Nghe nói,/ bác nơng dân giãy nảy://
- Tơi có đụng chạm gì đến thức ăn trong quán đâu/ mà phải trả tiền?//
(giọng bác nông dân ngạc nhiên, giãy nảy lên)

- Nhưng tơi chỉ có hai đồng.//

- Bác hãy xóc lên cho đủ mười lần.// Cịn ơng chủ qn,/ ơng hãy chịu
khó mà nghe.//
Mồ Cơi phán:
- Bác này đã bồi thường cho chủ quán đủ số tiền.// Một bên/ “hít mùi
thịt”,/ một bên/ “nghe tiếng bạc”.// thế là cơng bằng.//
Nói xong,/ Mồ cơi trả hai đồng bạc cho bác nông dân/ rồi tuyên bố kết
thúc phiên xử.// (giọng người dẫn chuyện khách quan, vui vẻ)
Sau khi học sinh tham gia thi đọc xong, tôi hỏi học sinh “Em thích nhất
câu nói của nhân vật nào trong bài? Vì sao?” rồi yêu cầu lớp nhận xét cách thể


16

hiện giọng đọc diễn cảm của từng bạn về các nhân vật. Sau đó gọi một nhóm
học sinh khác thi đọc diễn cảm và yêu cầu học sinh phối hợp giọng đọc với cử
chỉ, ánh mắt, nét mặt, điệu bộ để phù hợp nội dung từng tranh của đoạn đọc.
Cuối cùng tôi chốt thêm một số cách đọc và tuyên dương những học sinh có
giọng đọc hay, khuyến khích những học sinh này giúp đỡ bạn đọc chậm để bạn
đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu lốt, trơi chảy văn bản và từng bước thể hiện được
giọng đọc diễn cảm ở một số câu văn ngắn và dễ đọc.
* Đối với các câu cảm, câu hỏi:
Đối với các câu cảm, câu hỏi trong bài giáo viên cần hướng dẫn các em
đọc đúng thì mới bộc lộ được cảm xúc của từng nhân vật và của tác giả.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cần đọc đúng ngữ điệu khi đọc câu hỏi
như nhấn giọng từ để hỏi, cao giọng ở cuối câu.
Ví dụ 2: Trong bài “Các em nhỏ và cụ già” có câu:
“Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ khơng ạ?” cần đọc nhấn giọng từ
ngữ giúp gì cụ và đọc cao giọng ở cuối câu.

- Đối với câu cảm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc giọng phù hợp
để biểu lộ sắc thái tình cảm trong câu đó.
Ví dụ 3: Trong bài “Cuộc chạy đua trong rừng” có lời của nhân vật
Ngựa Con: “Cha yên tâm đi. Móng của con chắc chắn lắm. Con nhất định sẽ
thắng mà!”. Cần nhấn giọng khi đọc các từ ngữ: yên tâm đi, chắc chắn lắm,
nhất định và thể hiện giọng tự tin.
Nếu học sinh đọc chưa hay giáo viên có thể đọc mẫu cho học sinh để các
em nghe giọng đọc và tự điều chỉnh.
2.3.6.3. Thể loại văn tả phong cảnh:
Ở thể loại văn này, tôi hướng dẫn học sinh đọc với giọng rõ ràng, rành
mạch, nhấn giọng ở những từ chỉ đặc điểm của phong cảnh được tả.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Nhà Rông ở Tây Nguyên (Tiếng Việt 3 tập 1, trang
127). Sau khi đọc mẫu, tôi gắn tranh cho học sinh quan sát kĩ về nhà rơng và
hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm tồn bài, thể hiện giọng đọc rõ ràng, làm toát
lên được đặc điểm của nhà Rông và những nét sinh hoạt cộng đồng của họ.
Nhà Rông thường được làm bằng các loại gỗ bền chắc/ như lim,/ gụ,/
sến,/ táu.// Nó phải cao để đàn voi đi qua không đụng sàn/ và khi múa rông
chiêng trên sàn,/ ngọn giáo không vướng mái.// (đọc giọng tả rõ ràng, chậm rãi,
nhấn giọng ở các từ tả đặc điểm của nhà Rông).
Ở thể loại văn miêu tả để học sinh thể hiện tốt giọng đọc, tôi hướng dẫn
học sinh tùy vào từng bài để thể hiện giọng đọc nhẹ nhàng, chậm rãi, giàu cảm
xúc và chú ý nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm.


17

Ở thể loại văn miêu tả để học sinh thể hiện tốt giọng đọc, tôi hướng dẫn
học sinh tùy vào từng bài để thể hiện giọng đọc nhẹ nhàng, chậm rãi, giàu cảm
xúc và chú ý nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm.
Ví dụ 2: Bài Cửa Tùng (Tiếng Việt 3 - Tập 1- Trang 109). Trước khi cho

học sinh đọc diễn cảm tôi cho quan sát vẻ đẹp của nước biển Cửa Tùng qua bức
tranh:

Học sinh quan sát tranh và nắm được vẻ đẹp diệu kì của nước biển Cửa
Tùng được thể hiện qua một số từ gợi tả, gợi cảm để học sinh nắm vững và vận
dụng đọc bài tốt hơn.
“Diệu kì thay,/ trong một ngày,/ Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển.//
Bình minh/ mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối/ chiếu xuống mặt biển,/ nước
biển nhuộm màu hồng nhạt.// Trưa,/ nước biển xanh lơ/ và khi chiều tà thì đổi
sang màu xanh lục.//” (GV hướng dẫn học sinh giọng đọc nhẹ nhàng, tràn đầy
cảm xúc ngưỡng mộ vẻ đẹp kì diệu của Cửa Tùng, nhấn giọng ở các từ gợi tả,
gợi cảm).
2.3.6.4. Thể loại thơ ca:
Thể loại thơ ca là tùy thuộc vào từng bài ở từng thể loại để hướng dẫn học
sinh đọc với giọng vui tươi, hồn nhiên hay dịu dàng, tình cảm hoặc nhẹ nhàng,
tha thiết. Nhịp thơ khi đọc tuỳ thuộc vào từng thể thơ.
Ví dụ 1: Như bài Chú ở bên Bác Hồ (Tiếng Việt 3 - Tập 2 - Trang 16)
Đây là bài thơ thuộc thể thơ tự do, ở bài này 2 khổ thơ đầu tôi hướng dẫn học
sinh đọc với giọng ngây thơ, hồn nhiên thể hiện được sự băn khoăn, thắc mắc rất
đáng yêu của bé Nga, khổ thơ cuối hướng dẫn học sinh đọc với nhịp chậm, trầm
lắng thể hiện sự xúc động nghẹn ngào của ba mẹ Nga khi nhớ đến người chú đã
hy sinh.
Chú ở đâu,/ ở đâu?//
Trường Sơn dài dằng dặc?//
Trường Sa đảo nổi,/chìm? //


18

Hay Kon Tum, / Đăk Lăk?//

Ở những bài dạy có u cầu luyện đọc thuộc lịng, tơi chú ý kết hợp luyện
đọc thành tiếng bằng cách tổ chức đọc cá nhân riêng lẻ, hoặc nối tiếp đọc đồng
thanh theo nhóm, tổ, cả lớp, thi đọc thuộc lòng từng khổ thơ hoặc cả bài thơ, đọc
phối hợp với nhiều học sinh.
Ví dụ 2: Dạy bài Hai bàn tay em (SGK Tiếng Việt 3 - Tập 1- Trang7)
Tôi đã tổ chức cho học sinh luyện đọc thuộc lịng bài thơ với hình thức trị
chơi “Nhìn tranh thi đọc thuộc lịng khổ thơ mình thích” theo cặp, rồi từng cặp
thi đọc trước lớp và nêu nội dung bài, nêu nội dung khổ thơ nhóm mình đọc.
Hai bàn tay em/
Như hoa đầu cành/
Hoa hồng hồng nụ/
Cánh trịn ngón
xinh./

Với hình thức thi đọc như trên đã tạo được khơng khí thoải mái, vui tươi
trong giờ học, làm cho học sinh hăng hái, chủ động tham gia vào q trình luyện
đọc; giúp học sinh thuộc lịng bài thơ nhanh hơn đồng thời lại khắc sâu kiến thức
hơn.
2.3.6.5. Đối với văn bản khác:
Một số văn bản khác trong chương trình như: “Báo cáo kết quả tháng thi
đua noi gương chú bộ đội”, “Đơn xin vào Đội”, “Chương trình xiếc đặc sắc”,...
Các văn bản này thường là cung cấp thông tin, mẫu, nội dung báo cáo hay quảng
cáo. Đối với thể loại văn bản này, không những giáo viên hướng dẫn học sinh
ngắt nghỉ đúng sau các dấu chấm, dấu phẩy và nghỉ hơi lâu hơn sau mỗi phần
mà cần xác định giọng đọc sao cho phù hợp với nội dung thông báo, làm rõ
thông tin cơ bản giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay
nổi bật trong văn bản.
Ví dụ 1: Trong bài “Chương trình xiếc đặc sắc”, Khi đọc đoạn giới thiệu
các tiết mục mới:
Nhiều tiết mục mới ra mắt lần đầu//

Xiếc thú vui nhộn,/ dí dỏm.//
Ảo thuật biến hóa bất ngờ,/ thú vị.//
Xiếc nhào lộn khéo léo,/ dẻo dai.//


19

Giọng đọc đoạn này vui nhộn, rõ từng từ ngữ, từng câu, ngắt giọng ngắn,
rành rọt. Chú ý nhấn giọng các từ ngữ nêu bật sự hấp dẫn của các tiết mục mới.
* Luyện đọc về tốc độ đọc:
* Luyện đọc về tốc độ đọc:
- Khi đọc văn bản có nội dung miêu tả một sự việc dồn dập khẩn trương
thì phải đọc nhanh. Nhưng khơng có nghĩa là các em phải đọc một cách liến
thoắng mà đọc với tốc độ nhanh hơn bình thường để người nghe có thể theo dõi
được.
Ví dụ 2: Bài “Hội đua voi ở Tây Nguyên” giáo viên hướng dẫn học sinh
đọc với tốc độ nhanh, khẩn trương:
“Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu
chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy
hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. ”
2.3.7. Giải pháp 7: Áp dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học
tích cực theo hướng phát huy năng lực của học sinh
2.3.7.1. Kĩ thuật khăn trải bàn
Ví dụ: Bài “Người lính dũng cảm” - SGK Tiếng Việt lớp 3 - Tập 1
Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc các đoạn giáo viên sử dụng kĩ thuật
khăn trải bàn. Giáo viên chia lớp thành các nhóm 4. Các nhóm 4 của Tổ 1 nêu
cách đọc của đoạn l, các nhóm 4 của Tổ 2 nêu cách đọc của đoạn 2, các nhóm 4
của Tổ 3 nêu cách đọc của đoạn 3, các nhóm 4 của Tổ 4 nêu cách đọc của đoạn
4. Các nhóm dùng bảng phụ, chia bảng phụ làm 5 phần, các thành viên của từng
nhóm ghi nhanh ý kiến của cá nhân mình vào ơ của mình trên bảng phụ này. Sau

đó ý tổng hợp được ghi ở giữa bảng. Nhóm trưởng sẽ nêu ý chung của cả nhóm,
các nhóm khác bổ sung và giáo viên sẽ chốt lại cách đọc đúng cho từng đoạn.
2.3.7.2. Kĩ thuật tia chớp.
Sử dụng kĩ thuật tia chớp trong rèn đọc cho học sinh tôi thấy rất hiệu quả
thông qua việc các thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như
tia chớp) ý kiến của mình. Mặt khác kĩ thuật dạy học này cịn cải thiện tình trạng
giao tiếp của các em.
Ví dụ: Khi cho học sinh đọc bài “Nhớ lại buổi đầu đi học”, “Chương
trình xiếc đặc sắc” bằng kĩ thuật tia chớp giáo viên tung ra câu hỏi: Để đọc
được tốt các câu văn trên con cần ngắt nghỉ hơi ở đâu và nhấn giọng vào những
từ ngữ nào? Nhanh như tia chớp nhiều học sinh nêu được ý kiến của mình để có
thể đưa ra cách đọc đúng.
Hằng năm,/ cứ vào cuối thu,/ lá ngoài đường rụng nhiều,/ lịng tơi
lại náo nức/ những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.// Tôi quên thế nào
được những cảm giác trong sáng ấy/ nảy nở trong lòng tôi/ như mấy cánh hoa
tươi/ mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.//
Nhiều tiết mục mới ra mắt lần đầu//
Xiếc thú vui nhộn,/ dí dỏm.//
Ảo thuật biến hóa bất ngờ,/ thú vị.//
Xiếc nhào lộn khéo léo,/ dẻo dai.//
2.3.7.3. Phương pháp Bàn tay nặn bột.


20

Khi dạy luyện đọc cho học sinh tôi chọn lựa để áp dụng phương pháp bàn
tay nặn bột. Tuy nhiên tôi không áp dụng cả 5 bước của phương pháp này mà tôi
chỉ áp dụng một vài bước nhỏ của phương pháp và tơi thấy có hiệu quả rõ rệt.
Ví dụ: Sau khi tơi đọc mẫu bài “ Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử” tôi đặt
câu hỏi nêu vấn đề theo hướng mở cho học sinh:

“Con thấy câu chuyện cơ vừa đọc có hay khơng? Vậy chúng ta cần đọc
thế nào để người nghe thấy được cái hay và ý nghĩa của câu chuyện?”
Sau đó tơi cho học sinh bộc lộ quan điểm ban đầu của mình và tơi viết các
ý kiến của em lên một góc bảng. Tơi nói với các em rằng chúng ta sẽ cùng nhau
tháo gỡ và giải đáp các ý kiến của các em trong tồn bộ tiết học.
Kết thúc tiết học tơi nêu kết luận của mình về cách đọc tồn bài và đối
chiếu với ý kiến ban đầu của các em.
Như vậy tôi đã áp dụng 3 bước của phương pháp bàn tay nặn bột đó là:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh.
Bước 3: Giáo viên nêu kết luận.
Áp dụng phương pháp này tôi thấy học sinh học tập rất hứng thú, các em
thấy mình là chủ thể, là nhân vật không thể thiếu của tiết học. Suy nghĩ đó giúp
các em sáng tạo và rất chủ động trong tiết học.
2.3.8. Giải pháp 8: Kết hợp rèn đọc ở tất cả các môn học.
Bên cạnh việc rèn đọc cho học sinh trong phân môn Tập đọc, giáo viên
cần linh hoạt và chú trọng quan điểm “tích hợp”, rèn đọc cho các em ở tất cả các
môn học khác. Tập cho học sinh lướt qua văn bản để phân loại được thể loại văn
bản, từ đó có phong cách, giọng đọc phù hợp với nội dung.
Khi dạy môn Tập đọc nói riêng và các mơn học khác nói chung, tôi đều
chú trọng rèn đọc cho học sinh: rèn mọi lúc, mọi nơi, mọi tiết học.
Ví dụ: Trong giờ Tốn tơi cho các em rèn đọc bằng hình thức đọc đề bài
của các bài tập đặc biệt là các bài tốn có lời văn.
- Trong giờ Chính tả tơi cho các em đọc bài chính tả mà các em sẽ viết
trong tiết học để rèn đọc cho các em.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng nội dung: “Một số giải pháp
hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 3” ở lớp tôi đang chủ
nhiệm, tôi nhận thấy chất lượng của học sinh được nâng lên rõ rệt. Học sinh

củng cố được các kỹ năng đọc bài và đọc tương đối lưu loát diễn cảm, ham thích
mơn học Tiếng Việt. Điều đó được kiểm chứng qua 3 lần tôi tiến hành khảo sát
sau đây:
Bảng 2: Kết quả đối chứng sau thực nghiệm giải pháp.
Các đợt
Số
Mức độ chất lượng phân môn Tập đọc
KT Chất học Đọc diễn
Đọc đúng, rõ Đọc to nhưng Đọc chậm,
lượng
sinh cảm
ràng, lưu
ngọng, đọc
đọc nhỏ, đọc
tham
lốt
cịn thêm, bớt cịn phải
gia
đánh vần


21

SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL

TL
7.1%
21.4%
42.9% 12 28.6 %
Đầu năm
42
3
9
18
19%
16.7%
Cuối kỳ 1
42
8
26 61.9%
7
1 2.4%
7.2%
Giữa kỳ 2
42
14 33.3% 25 59.5%
3
0
0
Với học sinh tôi nhận thấy các em hứng thú, tích cực tham gia các hoạt
động học tập trên lớp cũng như các bài tập tôi giao ở nhà. Học sinh chủ động
hơn trong việc luyện đọc và cảm thấy u thích phân mơn này. Số học sinh đọc
chưa đạt đầu năm đã giảm rất nhiều, số học sinh đọc đúng, lưu lốt, trơi chảy và
diễn cảm đã được nâng lên.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.

3.1. Kết luận.
Muốn nâng cao chất lượng hiệu quả của các giờ dạy Tập đọc để học sinh
đọc đúng đọc hay, bước đầu cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ
thì khâu luyện đọc, rèn đọc đúng có vai trị rất quan trọng. Học sinh có đọc đúng
mới hiểu đúng nội dung, mới diễn tả được cảm xúc của mình. Để làm tốt việc
rèn đọc cho học sinh lớp 3 trong phân môn Tập đọc người giáo viên cần phải
làm những việc sau:
- Phải ln nghiên cứu tìm hiểu về nội dung kiến thức, phương pháp bộ
môn, nắm chắc hệ thống chương trình. Thường xuyên học hỏi kinh nghiệm và tự
bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, ln cập nhật những thông tin, những
đổi mới về phương pháp giảng dạy.
- Giáo viên phải nhận thức đúng vai trò chức năng của phân môn Tập đọc.
Trước hết phải rèn cho mình đọc đúng, đọc chuẩn, đọc hay, đọc diễn cảm mọi
bài Tập đọc trong cấp học nói chung, các bài tập đọc lớp 3 nói riêng. Phải đầu tư
thời gian cho khâu chuẩn bị bài, xây dựng tổ chức các hoạt động cho học sinh
trên lớp học.
- Giáo viên phải kiên trì, thường xuyên rèn cho học sinh theo các bước:
Luyện cho học sinh phát âm đúng các phụ âm khó đọc hay lẫn lộn; Luyện đọc
đúng các cụm từ, ngắt nghỉ đúng câu; Ngắt nghỉ đúng ở các câu văn, khổ thơ;
Luyện đọc mức độ từ thấp đến cao với học sinh còn chậm; Nhiều học sinh được
tham gia luyện đọc.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường:
- Cần có các buổi sinh hoạt chun mơn có chất lượng để giáo viên có
thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ.
* Đối với giáo viên:
- Khi dạy phân môn Tập đọc người giáo viên cần chú ý coi trọng quan
điểm dạy học “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, lấy học
sinh làm trung tâm”.
- Thường xuyên nghiên cứu và tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn bản có

liên quan đến chun mơn để nâng cao hiệu quả năng lực chuyên môn trong
giảng dạy và chất lượng giáo dục học sinh.


22

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 08/4/2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Nguyễn Thị Diệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 3.
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
3. Sách giáo khoa Tiếng Việt 3
4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3
5. Tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục.


23

PHỤ LỤC
[1]: Trích Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 của BCHTW
[2]: Trích Mục tiêu giáo dục tiểu học




×