Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Một số biện phapsgiups học sinh lớp 4a trường TH đông sơn xác định tốt các thành phần chủ ngữ, vị ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 23 trang )

MỤC LỤC
STT

Nội dung

Trang

1

A. Mở đầu

1

2

I. Lý do chọn đề tài

1

3

II. Mục đích nghiên cứu

1

4

III. Đối tượng nghiên cứu

1


5

IV. Phương pháp nghiên cứu

1

6

B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

7

I. Cơ sở lý luận

2

8

II. Thực trạng dạy học về xác định chủ ngữ, vị ngữ khối 4,
trường Tiểu học Đông Sơn.
III. Các giải pháp giúp học sinh lớp 4A thực hiện tốt các bài
tập về xác định chủ ngữ, vị ngữ.

4

10

IV. Kết quả.


18

11

C. Kết luận, kiến nghị

19

12

I. Kết luận

19

13

II. Kiến nghị

20

9

6


2
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là một kỹ năng vô cùng quan trọng của con người. Kỹ năng ấy

không những biểu lộ trong lĩnh vực giao tiếp hằng ngày mà còn được biểu lộ
trong các lĩnh vực giao tiếp về chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa giáo dục,
ngoại giao… Với xã hội ngày càng hiện đại như ngày nay thì kỹ năng giao tiếp
hơn bao giờ hết càng được coi trọng. Để giao tiếp tốt, ngồi việc có một vốn từ
phong phú, học sinh cần có những kiến thức nhất định về câu, từ và cách sử
dụng ngơn ngữ. Chính vì vậy, trong chương trình Tiểu học, mơn Tiếng Việt ln
là mơn học chiếm nhiều thời lượng nhất.
Luyện từ và câu là một phân mơn của mơn Tiếng Việt. Trong chương
trình lớp 4, mơn Luyện từ và câu chiếm thời lượng 2 tiết/tuần với nhiều mảng
kiến thức khó và quan trọng. Trong đó, mảng kiến thức về xác định thành phần
câu, đặc biệt là xác định chủ ngữ, vị ngữ luôn làm cho học sinh lúng túng. Các
em thường khơng thích học, thậm chí cịn sợ học những kiến thức này. Chính vì
thế mà các giờ học luôn khiến các em căng thẳng, mệt mỏi.
Mặt khác, mảng kiến thức về các thành phần câu thường được ra trong
các đề kiểm tra định kỳ, các đề thi vào các trường năng khiếu, các đề giao lưu
học sinh có năng khiếu mơn Tiếng Việt. Điều này đòi hỏi các em phải nắm vững
kiến thức ngữ pháp cơ bản trong sách giáo khoa cũng như kiến thức mở rộng,
nâng cao. Mà “Phong ba bão táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam.”, những kiến
thức về ngữ pháp nói chung và những kiểu bài về xác định chủ ngữ, vị ngữ nói
riêng ln khiến các em khó thực hiện đúng. Từ đó, dẫn đến tâm lý ngại học
mơn Tiếng Việt. Hơn nữa, sách giáo khoa Tiếng Việt 4 chỉ đưa ra những mẫu
bài đơn giản nên khi gặp bài khó, phức tạp một chút là các em thường khơng
biết làm và lười suy nghĩ.
Từ thực tế đó, là một người giáo viên đã nhiều năm giảng dạy lớp 4, tơi
đã tự nghiên cứu, tìm tịi và đúc kết được một số giải pháp giúp các em học sinh
biết cách thực hiện tốt các bài tập về chủ ngữ, vị ngữ từ đơn giản đến phức tạp.
Từ đó cũng giúp các em có thêm vốn từ vựng, kỹ năng giao tiếp và u thích
mơn Tiếng Việt cũng như phân mơn Luyện từ và câu. Vì vậy, tơi đã mạnh dạn
nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4A, trường tiểu học
Đông Sơn xác định tốt các thành phần chủ ngữ, vị ngữ”.

II. Mục đích nghiên cứu
- Giúp học sinh nắm vững cách xác định chủ ngữ, vị ngữ trong các bài tập
từ dễ đến khó. Rèn kỹ năng dùng từ, đặt câu, tạo hứng thú học tập và khơi gợi
tâm hồn yêu tiếng Việt cho học sinh.
III. Đối tượng nghiên cứu
- 37 học sinh lớp 4A trường tiểu học Đông Sơn.
- Thực trạng và các giải pháp giúp học sinh lớp 4A, trường Tiểu học
Đông Sơn thực hiện tốt các dạng bài tập về xác định chủ ngữ, vị ngữ trong câu.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành được đề tài này, tơi đã sử dụng các phương pháp sau:


3
- Nghiên cứu tài liệu (Các tài liệu được trình bày tại phần: Tài liệu tham
khảo).
- Phương pháp khảo sát, phân tích thực trạng:
+ Dự giờ đồng nghiệp.
+ Khảo sát bài kiểm tra cuối kì 1 năm học 2020 - 2021 của khối 4.
+ Ra bài kiểm tra khảo sát.
- Tổng hợp số liệu.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận
1. Khái niệm về thành phần câu
Lý thuyết ngữ pháp cổ điển phân thành phần câu thành hai loại là thành
phần chính và thành phần phụ. Thành phần chính gồm chủ ngữ và vị ngữ (CN,
VN). Thành phần phụ là trạng ngữ, bổ ngữ và định ngữ (TN, BN, ĐN). Về sau
do sự hiểu biết thêm nhiều ngơn ngữ mới, ngồi các ngơn ngữ Châu Âu, do
thành tựu của ngôn ngữ học, ngữ pháp học và của những khoa học liên ngành, lí
thuyết thành phần câu ln được điều chỉnh.
Theo lý thuyết của ngữ học hiện đại, nhiều tác giả cho rằng thành phần

câu có thể là một từ hoặc là cả một cụm từ và phân biệt thành phần câu với
thành phần cụm từ. Do đó theo lý thuyết này, bổ ngữ, định ngữ là thành phần
phụ của cụm từ chính phụ chứ khơng phải là thành phần câu.
Ví dụ: Xét câu “Hơm qua, em gái tôi đi chùa Hương.”, lý thuyết cổ điển
về thành phần câu phân tích:
Hơm qua, em gái tơi đi chùa Hương.
TN ĐN CN ĐN ĐN VN BN ĐN
Còn lý thuyết thành phần câu của ngữ học hiện đại phân tích:
Hơm qua, em gái tôi/ đi chùa Hương.
TN
CN
VN
Đề tài này nghiên cứu và phân tích thành phần chính của câu theo quan
điểm của lý thuyết ngữ học hiện đại. Thành phần chính (thành phần nòng cốt) là
bộ khung ngữ pháp của câu đảm bảo cho câu độc lập về nội dung và hồn chỉnh
về hình thức. Đặc điểm độc lập về nội dung của câu được thể hiện ở chỗ câu có
thể được hiểu đúng mà không cần dựa vào chu cảnh (các câu trước và sau nó)
hay tình huống nói năng. Đặc điểm hồn chỉnh về hình thức được thể hiện ở chỗ
không thể chỉ ra các thành phần cú pháp bị lược bỏ và khơi phục chúng một
cách có căn cứ. Nội dung thông tin của câu đều tập trung trong bộ phận chính –
bộ phận khơng thể lược bỏ. Tuy nhiên, có những trường hợp câu chỉ gồm một
hoặc hai yếu tố kiểu như A! Mẹ ơi! Chao ôi!... Những trường hợp này được xem
là những nòng cốt đặc biệt
2. Các bộ phận của nòng cốt câu
a. Chủ ngữ: Trong các tài liệu ngữ pháp Tiếng Việt, khái niệm chủ ngữ
thường được định nghĩa là thành phần chính của câu biểu thị đối tượng mà hành
động, tính chất, trạng thái của nó độc lập với các thành phần khác của câu và
được xác định bởi vị ngữ.



4
- Về phương diện chức năng, có thể nói chủ ngữ biểu thị đối tượng là chủ
thể của hành động, của quá trình, của trạng thái, của đặc trưng hoặc quan hệ
được miêu tả ở vị ngữ.
Ví dụ:
Họ/ đang xây nhà. (Chủ ngữ là chủ thể của hành động)
Trái bóng/ đang lăn trên sân. (Chủ ngữ là chủ thể của quá trình)
Nơi đây, đời đời yên nghỉ/ những liệt sĩ vô danh. (Chủ ngữ là chủ thể của
trạng thái)
Cái áo này/ rất đẹp. (Chủ ngữ là chủ thể của đặc trưng)
Sách này/ của thư viện. (Chủ ngữ là chủ thể của quan hệ)
- Về phương diện tổ chức cấu trúc, chủ ngữ có thể là một từ, một cụm từ,
một kết cấu chủ vị.
Ví dụ: Thời cơ/ đã đến. (Chủ ngữ là một từ)
Những chú chim non/ đang tìm mẹ. (Chủ ngữ là một cụm từ)
Cách mạng tháng tám thành công/ đã mang lại độc lập, tự do cho dân tộc.
(Chủ ngữ là một kết cấu chủ vị)
- Về phương diện từ loại: Chủ ngữ thường là danh từ, cụm danh từ, đại
từ. Ngồi ra, cũng có thể có chủ ngữ là một động từ, cụm động từ, tính từ, cụm
tính từ, một kết cấu chủ vị, thậm chí chủ ngữ là một số từ, dạng này gặp ở
những cách diễn đạt có tính mệnh đề của tốn học.
Ví dụ: Ve/ nhởn nhơ ca hát suốt cả mùa hè. (chủ ngữ là danh từ)
Bạn Lan lớp em/ rất thông minh. (chủ ngữ là cụm danh từ)
Tơi/ thích đọc sách. (chủ ngữ là đại từ)
Thi đua/ là yêu nước. (chủ ngữ là động từ)
Nói chuyện với Hồng/ rất thú vị. (chủ ngữ là cụm động từ)
Dịu dàng/ là đặc điểm nổi bật của hắn. (chủ ngữ là cụm tính từ)
Chú bị đang ăn cỏ/ là bị nhà tơi. (chủ ngữ là một kết cấu chủ vị)
Chín/ là số lớn nhất có một chữ số. (chủ ngữ là một số từ)
Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Đây là vị trí thuận của nó. Khi cần

nhấn mạnh vào nội dung thơng báo, có thể đảo vị ngữ đứng trước chủ ngữ.
b. Vị ngữ: Vị ngữ là thành phần biểu thị hành động, q trình, trạng thái,
tính chất hoặc quan hệ của sự vật (chủ thể) được thể hiện ở chủ ngữ.
- Về phương diện tổ chức cấu trúc, vị ngữ thể là từ hoặc cụm từ hay một
kết cấu chủ vị.
Ví dụ: Mặt trời/ mọc. (vị ngữ là một từ)
Chim/ hót líu lo. (vị ngữ là một cụm từ)
Trường này/ sân rất rộng. (vị ngữ là một kết cấu chủ vị)
- Về phương diện từ loại: Vị ngữ thường do động từ, tính từ, cụm động
từ, cụm tính từ đảm nhận. Ngồi ra, vị ngữ cũng có thể là một danh từ, cụm
danh từ, thậm chí là đại từ.
Ví dụ: Gió/ thổi. Mây/ bay. (vị ngữ là động từ)
Hoa bưởi/ nồng nàn. Hoa nhãn/ ngọt. (vị ngữ là tính từ)
Thỏ/ chạy rất nhanh. (vị ngữ là cụm động từ)
Bà cụ/ hiền lành như bà tiên trong truyện cổ tích. (vị ngữ là cụm tính từ)


5
Người/ là Cha, là Bác, là Anh. (vị ngữ là danh từ)
Sách này/ của thầy Cao Xuân Hạo. (vị ngữ là cụm danh từ)
Chúng nó/ là vậy. (vị ngữ là đại từ)
Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ, trừ những trường hợp cần nhấn mạnh
vào nội dung thơng báo thì có thể đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ.
II. Thực trạng dạy học về xác định chủ ngữ, vị ngữ khối 4, trường
Tiểu học Đông Sơn.
1. Thực trạng chung của vấn đề
Nội dung kiến thức về chủ ngữ, vị ngữ chiếm nhiều thời lượng nhất trong
phân môn Luyện từ và câu lớp 4 với 11 tiết (ở các tuần 17, 19, 20, 21, 22, 24,
25, 26). Thực ra, nội dung này học sinh đã được làm quen từ lớp hai với cách
gọi là “bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?, Con gì?, Cái gì?, Cây gì?, …” hay “bộ

phận trả lời cho câu hỏi Là gì?, Làm gì?, Thế nào?”. Nhưng mãi lên lớp 4 thì
mới được gọi thành tên là chủ ngữ và vị ngữ. Các câu được sách giáo khoa đưa
ra để xác định chủ ngữ, vị ngữ thường rất đơn giản, dễ xác định. Trên thực tế có
nhiều kiểu câu phức tạp mà sách giáo khoa khơng thể đưa ra hết được. Vì vậy,
học sinh thường lúng túng khi gặp các kiểu câu này. Đồng thời, những dạng câu
mà sách giáo khoa đưa ra chưa đủ để kích thích trí tị mị, ham học hỏi của
những học sinh học tốt môn Tiếng Việt.
2. Thực trạng về tình hình học sinh của lớp đang thực nghiệm:
Năm học 2020 - 2021, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 4A. Khi
dạy đến phần xác định chủ ngữ, vị ngữ, tơi nhận thấy có những thuận lợi và khó
khăn như sau:
a. Thuận lợi:
Về phía nhà trường:
- Giáo viên được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo, chun mơn
Phịng Giáo dục và Đào tạo Thị xã; Ban giám hiệu nhà trường và các tổ chuyên
môn khối lớp 4, 5.
- Đội ngũ giáo viên trong trường có năng lực chun mơn tốt, u nghề,
nhiệt tình trong cơng tác; tích cực tiếp thu kinh nghiệm, đóng góp ý kiến trong
thao giảng, dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm và ln tạo điều kiện tốt để tơi học
hỏi.
Về phía phụ huynh và học sinh:
- Đa số học sinh đều chăm ngoan, biết vâng lời thầy cô, cha mẹ.
- Trong lớp có một số học sinh có năng lực tốt về môn Tiếng Việt.
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm sát sao đến việc học của con em
mình.
b. Khó khăn:
Về học sinh: Lớp 4A có 37 học sinh, đa số là con em cơng nhân, viên
chức. Tuy nhiên, có nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa nên các em ở nhà với
ông bà. Một số là con em các gia đình thuần nơng. Chính vì vậy mà sự quan
tâm, sát sao đến việc học tập của các em khơng nhiều. Trình độ và năng lực học

sinh trong lớp khơng đồng đều. Đặc biệt lớp có cả học sinh khuyết tật và học
sinh có trí tuệ chậm phát triển. Số học sinh có khả năng suy luận sáng tạo không


6
nhiều. Vì vậy, đa phần các em chưa thực sự đam mê và u thích học mơn
Tiếng Việt, chưa biết tự tìm tịi ra những kiến thức mở rộng mà chỉ biết tiếp thu
một cách thụ động. Một số học sinh lười suy nghĩ, lười vận động dẫn đến kết
quả học tập chưa cao.
Khi dạy đến các bài “Câu kể Ai làm gì?” và “Chủ ngữ trong câu kể Ai
làm gì?” (tiết Luyện từ và câu tuần 27), tơi nhận thấy rằng, các em nắm kiến
thức về các bộ phận trong câu thực sự rất mơ hồ mặc dù các bộ phận này lẽ ra
các em đã có thể xác định được từ khi học lớp 2, lớp 3. Ví dụ: Khi xác định chủ
ngữ, vị ngữ trong câu “Cha tôi làm cho tôi chiếc chổi cọ để quét nhà, quét sân.”
hay câu “Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ.” thì đa số các em xác định như sau:
Cha tôi làm cho tôi chiếc chổi cọ để quét nhà, quét sân.
CN
CN
VN
Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ.
CN
VN
CN
Như vậy có thể thấy được rằng, các em đã vận dụng để xác định các bộ
phận chủ ngữ, vị ngữ một cách máy móc. Các em cho rằng trong câu cứ có từ
chỉ người sẽ trả lời cho câu hỏi Ai? và đó sẽ là chủ ngữ (cha tơi, tơi, các em bé,
mẹ). Cịn các từ chỉ hoạt động thì trả lời cho câu hỏi làm gì? và đó sẽ là bộ phận
vị ngữ. Thậm chí có nhiều học sinh cịn không nắm rõ bộ phận nào trả lời cho
câu hỏi Ai?, bộ phận nào trả lời cho câu hỏi làm gì? Lỗi này các em mắc phải là
do một số nguyên nhân sau:

- Các em không xác định được đúng nghĩa chủ đạo của câu.
- Các em thường cho rằng chủ ngữ, vị ngữ là một từ chứ không phải là
một bộ phận.
- Các em không xác định được từ loại giữ chức vụ ngữ pháp trong câu
hoặc xác định được từ loại nhưng không biết các từ ngữ đi kèm bổ nghĩa cho từ
loại nào.
Về giáo viên:
Qua thực tế giảng dạy của bản thân và dự giờ của ba đồng chí giáo viên
lớp 4B, 4C và 4D tại trường tiểu học Đông Sơn, tôi nhận thấy việc dạy các bài
về chủ ngữ, vị ngữ còn nhiều tồn tại: Trong quá trình dạy học các bài học này,
mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tiếp cận
kiến thức trong SGK. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn nên giáo viên
chưa tổng hợp hết các dạng bài về xác định chủ ngữ, vị ngữ. Do đó, sau các bài
học, học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách sơ lược. Nhiều
học sinh có năng lực tốt chưa phát huy được hết khả năng.
3. Kết quả của thực trạng.
Sau khi học sinh lớp 4A của tôi làm bài kiểm tra cuối học kỳ I, tôi tổng
hợp và phát hiện ra rằng rất ít các em hồn thành được câu hỏi về xác định chủ
ngữ, vị ngữ trong tờ kiểm tra số 1 (Kiểm tra đọc hiểu và Luyện từ và câu). Ngay
lập tức, tôi đã cho các em làm đề khảo sát về nội dung này với đề bài như sau:
Bài 1: Gạch một gạch dưới chủ ngữ, hai gạch dưới vị ngữ trong các câu
sau:
a. Bố em vừa đi làm về.


7
b. Quốc Toản ngồi trên mình con ngựa trắng phau.
c. Trên cành cây, chim hót líu lo.
Bài 2: Dịng nào sau đây chưa thành câu? Vì sao?
a. Những mảng mây trắng ấy

b. Bóng núi lung linh
c. Đi đến lớp
Bài 3: Dùng gạch chéo (/) tách bộ phận chủ ngữ và vị ngữ trong các câu
sau:
a. Những em bé quần áo đủ màu sắc đang đùa trên sân trường.
b. Những con dế bị sặc nước bò ra khỏi tổ.
c. Từ chân trời xa, bỗng bay lên cao một làn khói trắng.
Kết quả thu được:
Sĩ số
37

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

3


8,1%

22

59,5%

12

32,4%

Với kết quả như trên, tôi nhận thấy rằng, việc xác định đúng chủ ngữ, vị ngữ
thực sự đang là một vấn đề khó khăn đối với các em. Vì vậy, tơi đã nghiên cứu và
tìm biện pháp giải quyết những khó khăn trên.
III. Các giải pháp giúp học sinh lớp 4A thực hiện tốt các bài tập về
xác định chủ ngữ, vị ngữ
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Tiếng Việt nói chung và
nâng cao chất lượng phân môn Luyện từ và câu cụ thể là mảng kiến thức về chủ
ngữ, vị ngữ của lớp 4, tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
1. Biện pháp 1: Nghiên cứu kĩ nội dung, cấu trúc chương trình sách
giáo khoa của mảng kiến thức về chủ ngữ, vị ngữ.
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung, cấu trúc chương trình của mảng
kiến thức này, bám sát yêu cầu của chuẩn kiến thức kĩ năng và công văn
5842/BGDĐT ngày 1/9/2011 về giảm tải chương trình Tiểu học để thiết kế bài
dạy sao cho việc dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học
sinh ở địa phương, giúp các em tự tin trong học tập.
1.1. Nắm vững kiến thức về các bộ phận chủ ngữ và vị ngữ.
a. Nắm vững về các kiến thức và cấu trúc trong sách giáo khoa
Trong chương trình phân mơn Luyện từ và câu ở tiểu học, có ba kiểu câu
kể đó là các câu kiểu Ai làm gì?, Ai thế nào? và Ai là gì?. Các kiểu câu này học

sinh bắt đầu làm quen từ chường trình lớp 2, được củng cố thêm ở chương trình
lớp 3 và lên lớp 4 các em được học sâu hơn. Trong chương trình lớp 2, 3 ,việc
xác định chủ ngữ được cho dưới hình thức đặt và trả lời cho câu hỏi Ai?,(Cái
gì?, Con gì?) Cịn vị ngữ được xác định dưới hình thức đặt và trả lời cho câu
hỏi Là gì?, Làm gì? Thế nào? Lên lớp 4, chủ ngữ được xác định là bộ phận trả
lời cho câu hỏi Ai?,(Cái gì?, Con gì?) cịn vị ngữ trả lời cho câu hỏi Là gì?,
Làm gì? Thế nào?


8
Ở câu kể Ai làm gì?, chủ ngữ chỉ sự vật (người, con vật hay đồ vật, cây
cối được nhân hóa) có hoạt động được nói đến ở vị ngữ. Chủ ngữ thường do
danh từ (hoặc cụm danh từ) tạo thành. Còn vị ngữ nêu lên hoạt động của người,
con vật (hoặc đồ vật, cây cối được nhân hóa). Vị ngữ có thể là động từ hoặc
động từ kèm theo một số từ phụ thuộc khác (cụm động từ).
Ví dụ:
- Trong rừng, chim chóc/ hót véo von. (chủ ngữ là danh từ chỉ con vật
“chim chóc”, vị ngữ là cụm động từ “hót véo von”) (SGK tiếng Việt 4, tập 1
trang171)
- Em nhỏ/ đùa vui trước nhà sàn. (chủ ngữ là cụm danh từ chỉ người “em
nhỏ”, vị ngữ là cụm động từ “đùa vui trước nhà sàn”) (SGK tiếng Việt 4, tập 1
trang 171)
Trong câu kể Ai thế nào?, chủ ngữ chỉ những sự vật có đặc điểm tính chất
hoặc trạng thái được nêu ở vị ngữ, trả lời cho câu hỏi Ai?,(Cái gì?, Con gì?).
Chủ ngữ thường do danh từ (hoặc cụm danh từ) tạo thành. Vị ngữ chỉ đặc điểm,
tính chất hoặc trạng thái của sự vật được nói đến ở chủ ngữ, trả lời cho câu hỏi
Thế nào? Vị ngữ thường do tính từ, động từ (hoặc cụm tính từ, cụm động từ)
tạo thành.
Ví dụ:
- Cánh đại bàng/ rất khỏe. (chủ ngữ là cụm danh từ chỉ bộ phận của con

vật “cánh đại bàng”, vị ngữ là cụm tính từ “rất khỏe”) (SGK tiếng Việt 4, tập 2
trang 30)
- Rồi những con người/ cũng lớn lên và lần lượt lên đường. (chủ ngữ là
cụm danh từ chỉ người “những con người”, vị ngữ là cụm động từ chỉ trạng thái
“cũng lớn lên” và cụm động từ chỉ hoạt động “lần lượt lên đường”) (SGK tiếng
Việt 4, tập 2 trang 24)
Câu kể Ai là gì? được dùng để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một
người, một vật nào đó. Trong câu kể Ai là gì? Chủ ngữ chỉ sự vật được giới
thiệu, nhận định vị ngữ. Chủ ngữ thường do danh từ (hoặc cụm danh từ) tạo
thành. Vị ngữ trả lời cho câu hỏi Là gì? (Là ai? Là con gì?) và thường do danh
từ (hoặc cụm danh từ) tạo thành. Chủ ngữ và vị ngữ được nối với nhau bằng từ
“là”.
Ví dụ: Bạn Diệu Chi/ là học sinh cũ của Trường Tiểu học Thành Công.
(chủ ngữ là cụm danh từ, vị ngữ là cụm danh từ)
b. Nắm vững các kiến thức mở rộng, nâng cao.
Kiến thức sách giáo khoa đưa ra là vậy nhưng thực tế có nhiều bài, nhiều
câu khơng theo cái lập luận, nhận xét chung đó. Chẳng hạn, ngay trong bài “Câu
kể Ai là gì?” (Sgk Tiếng Việt 4, tập 2, trang 57, 58), ở bài tập 1, có một số câu
chủ ngữ không phải do danh từ hay cụm danh từ tạo thành: “Thì ra đó/ là một
thứ máy cộng trừ mà Pa-xcan đã đặt hết tình cảm của người con vào việc chế
tạo. Đó /chính là chiếc máy tính đầu tiên trên thế giới, tổ tiên của những chiếc
máy tính điện tử hiện đại”; hay “Trăng lặn rồi lại mọc/ Là lịch của bầu trời”,...
Vì vậy, để giúp học sinh xác định đúng chủ ngữ, vị ngữ trong câu thì đòi hỏi
người giáo viên phải nắm được tất cả các dạng câu.


9
Các dạng câu thường gặp trong các đề giao lưu học sinh năng khiếu hoặc
các đề thi vào các trường chun:
b1. Câu có đủ hai thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ:

- Chủ ngữ là động từ, cụm động từ hoặc tính từ, cụm tính từ: Chủ ngữ
trong câu thường do danh từ hoặc cụm danh từ đảm nhận. Nhưng có nhiều
trường hợp chủ ngã lại do động từ hoặc tính từ tạo thành.
Ví dụ: Đồn kết/ là sức mạnh. (chủ ngữ là tính từ)
Cười/ mà như khóc. (chủ ngữ là động từ)
Đi đêm lắm/ có ngày gặp ma. (Tục ngữ - chủ ngữ là cụm động từ)
Nhanh nhẹn quá/ thường vất vả. (chủ ngữ là cụm tính từ)
- Chủ ngữ là một cụm danh từ trong đó bổ nghĩa cho danh từ chính là một
cụm chủ - vị.
Ví dụ: Ngoài đường, tiếng mưa rơi/ lộp bộp, tiếng chân người chạy/ lép
nhép.
Tiếng suối chảy/ róc rách.
Tiếng thùng nước va vào nhau/ loảng xoảng.
- Vị ngữ là cụm danh từ: Trong các câu kiểu Ai làm gì? Ai thế nào? chủ
ngữ thường do động từ hay tính từ đảm nhận. Nhưng trên thực tế có rất nhiều
câu vị ngữ lại do cụm danh từ đảm nhận.
Ví dụ: Những quyển sách này/ của thư viện. (vị ngữ là cụm danh từ)
Xoài cát Hòa Lộc/ ba mươi ngàn đồng. (vị ngữ là cụm danh từ)
(Theo Ngữ pháp Tiếng Việt của Nguyễn Thị Ly Kha)
- Chủ ngữ, vị ngữ là một kết cấu chủ - vị: Đây là kiểu câu học sinh rất hay
nhầm khi xác định thành phần câu.
Ví dụ: Những con bò béo mập/ bước đi đủng đỉnh. (chủ ngữ là kết cấu
chủ - vị)
Cờ bay/ đỏ những mái nhà, đó những cành cây, đỏ những góc phố. (chủ
ngữ là kết cấu chủ-vị)
Vải này/ khổ rất hẹp. (vị ngữ là kết cấu chủ - vị)
(Theo Ngữ pháp Tiếng Việt của Nguyễn Thị Ly Kha)
Tiếng trống buổi sáng trong trẻo ấy / là tiếng trống trường đầu tiên, âm
vang mãi trong đời đi học của tôi sau này. (cả chủ ngữ, vị ngữ đều là kết cấu
chủ vị)

(Theo Vở bài tập Tiếng Việt nâng cao 4, tập 2 – Nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam)
- Chủ ngữ, vị ngữ là một thành ngữ, tục ngữ:
Ví dụ: Chỉ tay năm ngón/ là thái độ khơng tốt. (chủ ngữ là một thành ngữ)
Đưa nó vào đây/ là cõng rắn cắn gà nhà. (vị ngữ là một thành ngữ)
- Chủ ngữ, vị ngữ đảo vị trí cho nhau (hay cịn gọi là đảo ngữ): Trong
trường hợp này người nói hay viết muốn nhấn mạnh một nội dung thông báo
nên đã đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ.
Ví dụ: Nơi đây, đời đời yên nghỉ/ những liệt sĩ vô danh. (vị ngữ được đảo
lên trước chủ ngữ)
(Theo Ngữ pháp Tiếng Việt của Nguyễn Thị Ly Kha)


10
Trên nền cát trắng tinh, nơi ngực cơ Mai tì xuống đón đường bay của
giặc, mọc lên/ những bơng hoa tím.
b2. Câu chỉ do một thành phần chính tạo thành.
Đây là loại câu đặc biệt mà ở đó câu văn chỉ do một yếu tố là chủ ngữ
hoặc vị ngữ tạo thành. Tuy chỉ một thành phần chính nhưng câu văn vẫn truyền
tải đầy đủ nội dung thông tin mà người nói hay người viết muốn biểu đạt. Thậm
chí, những câu văn này cịn giúp người nói, người viết biểu thị cảm xúc một
cách rõ nhất.
Ví dụ: - Mưa!
- A! Mẹ!
1.2. Nắm vững phương pháp dạy học cách xác định chủ ngữ, vị ngữ
Cách xác định chủ ngữ vị ngữ dựa trên nền tảng là cách đặt và trả lời cho
các câu hỏi Ai? (con gì?, cái gì?); Làm gì? Là gì? Thế nào? Tuy nhiên, trong
khi đặt câu hỏi và tìm câu trả lời, học sinh hay bị nhầm lẫn giữa từ ngữ và và
các bộ phận của câu. Vì vậy, để các em thực hiện tốt các bài tập về chủ ngữ vị
ngữ, bản thân tôi đã kết hợp nhiều phương pháp và hình thức dạy học khác

nhau. Cụ thể là tôi thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kỹ câu văn, đoạn văn
Trước khi xác định chủ ngữ, vị ngữ thì việc đầu tiên cần làm đó là cho
các em đọc kỹ câu văn, đoạn văn đề các em nắm được nội dung mà câu văn,
đoạn văn đó muốn phản ánh.
Bước 2: Tìm chủ thế được nói đến trong câu.
Giáo viên u cầu học sinh xác định xem chủ thể chính đang được nói
đến trong câu văn là ai? (hay là con gì?, cái gì?). Chủ thế đó chính là chủ ngữ.
Bước 3: Tìm hoạt động hoặc đặc điểm của chủ thể
Khi các em đã xác định đúng chủ thể của câu, giáo viên có thể hỏi chủ thể
đó làm gì?, là gì? hay thế nào? hoặc yêu cầu học sinh nêu hoạt động hay đặc
điểm của chủ thể. Những đặc điểm, hoạt động đó chính là vị ngữ.
Bước 4: Giúp học sinh hiểu ý nghĩa của câu.
Nhiều học sinh xác định đúng chủ thế hay hoạt động, đặc điểm của chủ
thế nhưng khi trong câu có xuất hiện thêm những từ ngữ bổ sung ý nghĩa thì
lúng túng khơng biết các từ đó thuộc bộ phận nào. Vì vậy, giáo viên cần giúp
học sinh hiểu ý nghĩa của câu văn để các em biết cách xếp các từ đó vào đúng
bộ phận của nó. Việc giúp học sinh hiểu ý nghĩa của câu có thể dùng lời nói,
hành động hoặc cũng có thể dùng tranh minh họa
Ví dụ: Để giúp học sinh xác định chủ ngữ, vị ngữ trong câu “Tàu chúng
tôi buông neo trong vùng biển Trường Sa” (Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu
“Luyện tập về câu kể Ai làm gì?”, sgk Tiếng Việt 4, tập 2, trang 16), tôi đã thực
hiện như sau:
-Yêu cầu học sinh đọc kỹ câu văn. (Bước 1). (Học sinh đọc thầm).
- Hỏi: Câu văn đang nói về cái gì? (Bước 2)
Ở bước 2 học sinh có thể trả lời “Tàu” hoặc “Tàu chúng tơi”. Nếu học
sinh trả lời là “tàu” thì giáo viên giải thích ln từ “chúng tơi” bổ nghĩa làm rõ
hơn về chủ sở hữu con tàu là chúng nên “Tàu chúng tôi” là một cụm danh từ.



11
- Giáo viên hỏi: Hoạt động của “Tàu chúng tôi” là gì? Hoặc Tàu chúng tơi
làm gì? (Tàu chúng tơi đã được nhân hóa) (Bước 3)
Học sinh trả lời “bng neo trên vùng biển Trường Sa”. Giáo viên khẳng
định “buông neo trên vùng biển Trường Sa” là vị ngữ của câu.
Giáo viên giúp học sinh hiểu nội dung của câu “Tàu chúng tôi buông neo
trong vùng biển Trường Sa” bằng cách cho các em xem tranh minh họa về hình
ảnh con tàu đang buông neo hoặc diễn tả từ “buông” bằng hành động để các em
hiểu hoạt động “buông neo” là như thế nào. (Bước 4)

Hình ảnh tàu bng neo
Ngồi 4 bước nêu trên, tùy theo từng dạng bài, giáo viên cịn cần phải kết
hợp đa dạng các hình thức lên lớp để học sinh phát hiện và xử lý vấn đề hiệu
quả hơn.
Chẳng hạn như, khi dạy các bài luyện tập về xác định chủ ngữ, vị ngữ tôi
thường cho học sinh rèn kỹ năng từ xác định và thêm các thành phần câu bằng
cách tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Đối đáp”. Nội dung trò chơi như sau:
Lớp cử 2 đội, mỗi đội 5, 6 người. Các đội sẽ đối đáp nhau bằng cách đội
này nêu thành phần chủ ngữ thì đội kia phải nêu được thành phần vị ngữ phù
hợp để tạo thành một câu có nghĩa. Các thành viên của đội xen kẽ nhau nêu. Đội
nào đưa các thành phần câu đúng nhiều hơn, nhanh hơn thì đội đó thắng cuộc.
2. Biện pháp 2: Tổ chức dạy học trên lớp phù hợp với chuẩn kiến
thức kỹ năng kết hợp với mở rộng kiến thức.
Chuẩn kiến thức kỹ năng là yêu cầu cần đạt dành cho học sinh cả lớp.
Tuy nhiên, đối với những học sinh có năng lực tốt thì những kiến thức trong
sách giáo khoa đơi khi chưa đủ thỏa mãn tính ham tìm hiểu, khám phá của các
em. Vì vậy, khi lên lớp, tôi thường đan xen những kiến thức mở rộng, nâng cao
để kích thích tính tị mị của các em.



12
Chẳng hạn, khi dạy các bài về chủ ngữ, sách giáo khoa nêu “Chủ ngữ trả
lời cho câu hỏi Ai? và thường do danh từ (hoặc cụm danh từ) tạo thành”. Tôi
mở rộng và đưa thêm cho học sinh một số ví dụ về chủ ngữ khơng phải do danh
từ đảm nhận và yêu cầu các em xác định:
Ví dụ:
a. Họ/ chiến đấu rất dũng cảm.(Chủ ngữ là đại từ)
b. Ở đời, mất cái nọ được cái kia/ là lẽ thường tình. (Chủ ngữ là một
thành ngữ)
c. Sản xuất/ phải gắn với nhu cầu tiêu thụ. (Chủ ngữ là động từ)
d. Đẹp nhất/ là hoa hồng. (Chủ ngữ là cụm tính từ)
e. Anh về muộn/ làm cả nhà lo lắng. (Chủ ngữ là cụm chủ - vị)
g. Nhất/ nước, nhì/ phân, tam/ cần, tứ/ giống. (Chủ ngữ là số từ)
h. Trong thùng/ đầy nước. (Chủ ngữ là cụm từ chỉ nơi chốn)
i. Bên phải/ là dãy núi Thiên nhẫn. (Chủ ngữ là cụm từ chỉ nơi chốn)
k. Gần sáng/ là lúc người ta ngủ say. (Chủ ngữ là cụm từ chỉ thời gian)
Ở câu h, g, e học sinh sẽ khó xác định được bộ phận chủ ngữ vì chủ ngữ
trong các câu này trả lời cho các câu hỏi Ở đâu? và câu hỏi Khi nào? (Sau này
khi học đến thành phần trạng ngữ các em sẽ dễ nhầm lẫn với thành phần này).
Vì vậy, tơi đã phân tích kỹ để học sinh thấy được các cụm từ này mặc dù không
trả lời cho câu hỏi Ai? nhưng chúng vẫn là chủ ngữ vì ta khơng thể lược bỏ
chúng. Khi ta lược bỏ các thành phần này đi, câu sẽ khơng trọn ý. Vì vậy, chúng
là chủ ngữ chỉ nơi chốn hay chủ ngữ chỉ thời gian trong câu.
Khi dạy bài về vị ngữ, ngoài kiến thức trong sách giáo khoa, tơi cịn đưa
thêm một số câu cho học sinh xác định như:
Số báo danh của tôi/ là tám. (vị ngữ là từ chỉ số lượng hay còn gọi là số
từ)
a. Nó/ vuốt mặt khơng nể mũi. (vị ngữ là một thành ngữ)
b. Quyển sách này/ tôi đã ký tên. (vị ngữ là một cụm chủ - vị)
c. Trước mặt chúng tôi, sừng sững/ một dãy núi đá. (vị ngữ được đảo lên

trước chủ ngữ)
d. Dừng lại ở ngoài cổng,/ chị/ nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ
nhại.
Ở câu d học sinh rất khó để xác định được “Dừng lại ở ngoài cổng” là
thành phần vị ngữ vì thành phần này đứng ở đầu câu và ngăn cách với chủ ngữ
bằng dấu phẩy. Vì vậy, tơi đã phân tích cho các em thấy được rằng ở câu này,
“chị” có hai hoạt động là “dừng lại ở ngồi cổng” và “nâng vạt áo lau những
giọt mồ hôi nhễ nhại” nên hai hoạt động này đều trả lời cho câu hỏi Làm gì? Đó
là hai bộ phận vị ngữ trong câu. Ta cũng có thể chuyển thành câu “Chị dừng lại
ở ngoài cổng, nâng vạt áo lau những giọt mồ hơi nhễ nhại”.
3. Biện pháp 3: Tìm ra dấu hiệu để giúp học sinh thực hiện tốt các bài
tập về xác định chủ ngữ, vị ngữ trong câu.
Sau khi hướng dẫn cho học sinh các cách xác định chủ ngữ, vị ngữ cụ thể
của từng dạng, tôi đã hệ thống hóa lại kiến thức như sau:
3.1. Lập bảng tổng hợp về chủ ngữ, vị ngữ để giúp các em dễ hiểu.


13
Từ ngữ tạo thành
Chủ ngữ
Danh từ
Lan/ rất xinh đẹp
Chị gái tôi/ vừa chăm chỉ, lại
Cụm danh từ
giỏi giang.
Động từ
Cụm động từ
Tính từ
Cụm tính từ
Từ chỉ số lượng

Đại từ
Cụm chủ - vị

Đi bộ/ tốt cho sức khỏe.

Vị ngữ
Đây là Lan
Người mà bà thương
nhất/ là chị gái tôi
Hôm ấy, tôi và Mai/ đi
bộ.

Chạy nhanh/ là đặc tính của
Thỏ/ chạy nhanh.
thỏ.
Xinh đẹp/ giúp cô ấy tự tin.
Cô ấy/ xinh đẹp.
Rất chăm chỉ/ là đức tính nổi
Chị/ rất chăm chỉ.
bật của chị.
Ba mươi/ chưa phải là Tết.
Tuổi của mẹ/ là ba mươi.
Nó/ thích đọc sách.
Giỏi nhất lớp tơi/ là nó.
Phượng đã nở hoa/ làm tơi
Trường tơi/ phượng đã
nhớ tuổi học trị.
nở hoa.
Cõng rắn cắn gà nhà/ bị xử là Hắn/ cõng rắn cắn gà
đúng.

nhà.
Trong hộp/ là chìa khóa.
Chìa khóa/ trong hộp.
Gần trưa / là chúng tơi đi.
Lúc ấy/ là gần trưa.
Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thống / một mái chùa
cổ kính.

Thành ngữ, tục
ngữ
Từ chỉ nơi chốn
Từ chỉ thời gian
Đảo chủ ngữ lên
trước vị ngữ
Đào chủ ngữ vào
Vừa đi, chị/ vừa khóc.
giữa các vị ngữ
Từ bảng tổng hợp trên cho thấy, cùng một từ loại nhưng ở văn cảnh khác
nhau chúng sẽ giữ các chức vụ ngữ pháp khác nhau. Vì vậy, khi xác định chủ
ngữ, vị ngữ, điều cốt lõi nhất là chúng ta phải dựa vào nghĩa và ngữ cảnh của
câu văn.
3.2. Giúp học sinh hiểu nội dung câu văn cần xác định.
Hiểu nội dung câu văn là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định thành
phần câu. Trong một câu có thể có nhiều từ ngữ làm cho học sinh bị rối. Vì vây,
việc hiểu đúng nội dung mà câu văn đang đề cập đến sẽ giúp các em xác định
đúng các thành phần trong câu.
Ví dụ1: Mặt trời vừa thức dậy đang gieo những tia nắng xuống cánh đồng
lúa xanh rờn. (Vở bài tập Tiếng Việt nâng cao 4, tập 2, trang 5)
Ở câu trên, nếu không dựa vào nội dung câu, học sinh rất xác định dễ
nhầm lẫn như sau:

Mặt trời / vừa thức dậy đang gieo những tia nắng xuống cánh đồng lúa xanh rờn.
CN
VN
Chính vì vậy, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được nội dung chính mà
câu văn đang nói đến: sự vật được nói đến là “mặt trời”, hoạt động chính là
“đang gieo những tia nắng xuống”. Còn hoạt động “vừa thức dậy” chỉ là bổ
nghĩa cho “mặt trời” và “cánh đồng lúa xanh rờn” bổ nghĩa cho “đang gieo những
tia nắng xuống”. Từ cách hiểu như vậy, các em sẽ xác định được:


14
Mặt trời vừa thức dậy/ đang gieo những tia nắng xuống cánh đồng lúa xanh rờn.
CN
VN
Ví dụ 2: Tiếng suối chảy róc rách.
Ở câu trên, nếu khơng dựa vào nghĩa, học sinh rất dễ xác định nhầm
“Tiếng suối” là chủ ngữ cịn “chảy róc rách” là vị ngữ. Vì vậy, giáo viên cần
giải thích cho học sinh hiểu rằng “tiếng suối” không thể chảy mà “tiếng suối
chảy” ở đây là một loại âm thanh được tạo ra khi suối chảy. Nội dung của câu
muốn thông báo là âm thanh khi suối chảy nghe róc rách. Vì vậy, thành phần
chính trong câu phải được xác định như sau: Tiếng suối chảy/ róc rách.
CN
VN
3.3. Dựa vào dấu phẩy để xác định.
Giữa chủ ngữ, vị ngữ khơng có dấu phấy. Đây là một trong những dấu
hiệu dễ ghi nhớ nhất, giúp các em phân biệt thành phần câu.
Chẳng hạn, giáo viên cho học sinh so sánh hai câu sau:
(1) Những con dế bị sặc nước bò ra khỏi tổ.
(2) Những con dế bị sặc nước, bò ra khỏi tổ.
(Vở bài tập Tiếng Việt nâng cao 4, tập 2, trang 5)

Hai câu trên khác nhau ở chỗ một câu có dấu phấy ngăn cách giữa “bị sặc
nước” và “bò ra khỏi tổ” còn một câu khơng có dấu phẩy. Điều đó chứng tỏ nội
dung muốn diến đạt của hai câu khác nhau. Ở cả hai câu, sự vật được nói đến
đều là “Những con dế”. Nhưng câu (1) muốn nói lên hoạt động của “Những con
dế” đó là “bị ra khỏi tổ” cịn “bị sặc nước” có vai trị bổ nghĩa cho “những con
dế”. Vì vậy, “Những con dế bị sặc nước” là chủ ngữ và “bò ra khỏi tổ” là vị
ngữ. Còn ở câu (2) lại muốn nhấn mạnh “Những con dế” vừa “bị sặc nước”, vừa
“bò ra khỏi tổ” nên
“Những con dế” là chủ ngữ, “bị sặc nước” và “bò ra khỏi tổ” là hai vị
ngữ.
(1) Những con dế bị sặc nước/ bò ra khỏi tổ.
CN
VN
(2) Những con dế/ bị sặc nước, bị ra khỏi tổ.
CN
VN
VN
Từ phân tích trên, giáo viên hướng cho học sinh ghi nhớ: Đối với những
câu mà một chủ thế đang có hai hay nhiều đặc điểm, hoạt động, nếu giữa các
đặc điểm, hoạt động đó có dấy phẩy thì chúng cùng giữ chức vụ ngữ pháp giống
nhau.
Từ cách nhận diện đó các em dễ dàng xác định được chủ ngữ, vị ngữ
trong các câu sau:
(3) Ánh trăng trong/ chảy khắp các cành cây kẽ lá, tràn ngập con đường
CN
VN
VN
trắng xóa.
(4) Ánh trăng/ trong, chảy khắp các cành cây kẽ lá, tràn ngập con đường
CN

VN
VN
VN
trắng xóa.


15
4. Biện pháp 4: Khuyến khích học sinh sưu tầm, đặt câu theo các
dạng như trong bảng tổng hợp.
Để phát huy khả năng sáng tạo, ham tìm tịi của học sinh, tôi đã yêu cầu
các em tự sưu tầm và đặt câu theo từng dạng như bảng tổng hợp mà tôi đưa ra.
Sau đây là một số bài làm của các em:


16


17


18


19
IV. Kết quả.
Trên đây là một thử nghiệm của bản thân tôi trong năm học 2020 - 2021.
Kết quả tuy chưa thực sự cao, song so với chất lượng học sinh cuối kì I đã có sự
chuyển biến rõ rệt. Cụ thể là sau khi học hết tuần 23, tôi đã cho các em làm một
bài kiểm tra để khảo sát chất lượng. Nội dung đề kiểm tra như sau:
Bài 1: Gạch một gạch dưới chủ ngữ, hai gạch dưới vị ngữ trong các câu

sau:
a. Trên trời, mây trắng như bông.
Ở dưới cánh đồng, bông trằng như mây.
b. Năm 1945, cầu được đổi tên thành cầu Long Biên.
c. Cứ mỗi lần ngẩng lên nhìn bầu trời Hà Nội trong xanh, lịng tơi lại nhớ
những năm tháng chống đế quốc Mĩ oanh liệt và oai hùng.
Bài 2: Hãy chỉ ra chỗ sai trong các câu sau:
a. Giữa hồ, nơi có một tịa tháp cổ kính.
b. Trải qua mấy nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta,
một dân tộc anh hùng.
c. Nhằm ghi lại những chiến công lịch sử của quân và dân Hà Nội bảo vệ
cây cầu trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.
Bài 3: Hãy viết thêm chủ ngữ và vị ngữ thích hợp vào những chỗ trống
dưới đây để tạo thành những câu hoàn chỉnh:
a. Mỗi khi tan trường, …
b. Ngoài cánh đồng, …
c. Giữa cánh đồng lúa chín, …
d. Khi chiếc ơ tơ về đến đầu làng, ….
Kết quả tuần 23 thu được như sau:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Sĩ số
SL
TL
SL
TL
SL
TL
37

13
35,1%
24
64,9%
0
0
Đến giữa học kỳ II của năm học, tôi lại tiếp tục cho các em làm một đề
khảo sát với mức độ khó hơn. Nội dung đề như sau:
Bài 1: Gạch một gạch dưới chủ ngữ, hai gạch dưới vị ngữ trong các câu
sau:
a. Những tàu lá chuối vàng ối xõa xuống như những đuôi áo, vạt áo.
b. Ngày qua, trong sương thu ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông, những
chùm hoa khép miệng bắt đầu kết trái.
c. Qua khe dậu, ló ra mấy quả đỏ chót.
Bài 2: Các dịng sau sai như thể nào? Em hãy sửa lại cho đúng:
a. Hình ảnh Thánh Gióng mặc áo giáp sắt, cầm gậy sắt, cưỡi ngựa sắt.
b. Đứng trên cầu, nhìn dịng sơng Hồng đỏ rực nước cuồn cuộn chảy với
sức mạnh khơng gì ngăn nổi, nhấn chìm bao màu xanh thân thương, bao làng
mạc trù phú đôi bờ.
c. Vừa đi học về, mẹ đã bảo Thúy sang đón em. Thúy cất vội cặp sách rồi
đi ngay.


20
d. Khi em đến cổng trường thì Tuấn gọi em và được bạn ấy cho một cây
bút mới.
Bài 3: Em hãy đặt câu theo yêu cầu sau:
a. Chủ ngữ là một động từ hoặc cụm động từ
b. Vị ngữ là một thành ngữ.
c. Vị ngữ được đảo lên trước chủ ngữ.

Kết quả giữa học kì II:
Hồn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành
Sĩ số
SL
TL
SL
TL
SL
TL
37
25
67,6%
12
32,4%
0
0
Ngoài kết quả thu được trên bài kiểm tra, tơi nhận thấy đa số các em đã
có kỹ năng giao tiếp tốt hơn, biết sử dụng các thành ngữ, tục ngữ và trong giao
tiếp hằng ngày. Các em biết cách dùng từ, đặt câu một cách linh hoạt. Việc xác
định chủ ngữ, vị ngữ khơng cịn là vấn đề quá khó đối với các em. Đặc biệt, giờ
đây các em khơng cịn ngại học mơn Tiếng Việt nữa. Minh chứng rõ nhất đó là
lớp đã có nhiều học sinh hào hứng tham gia cuộc thi “Trạng nguyên Tiếng Việt”
do Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức trên mạng internet và đạt kết quả tương đối
cao.
* Bài học kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng một số biện pháp giúp học sinh xác định tốt các thành
phần chủ ngữ, vị ngữ vào thực tế đạt kết quả khả quan, tôi nhận thấy giáo viên
cần:

- Coi trọng việc dạy các tiết học về thành phần câu. Học sinh cần nắm
vững kiến thức về chủ ngữ, vị ngữ thông qua các bài học, muốn vậy giáo viên
cần nắm sâu kiến thức về các thành phần của câu, lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp, chú trọng đến đồ dùng trực quan.
- Tổ chức dạy trên lớp dựa vào chuẩn kiến thức kỹ năng, đồng thời có sự
lồng ghép, gợi mở và nâng cao kiến thức.
- Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh xác định đúng chủ ngữ, vị ngữ.
- Giáo viên cần giúp học sinh tự tìm ra dấu hiệu chung, dễ nhận biết nhất
để xác định chủ ngữ, vị ngữ một cách nhanh và chính xác.
- Tìm hiểu nghiên cứu, thống kê các dạng bài tập về chủ ngữ, vị ngữ.
- Giáo viên cần khuyến khích, khơi gợi đức tính ham học học hỏi của học
sinh, phát huy tối đa năng lực mà các em có.
- Các em học sinh phải thực hiện tốt nhiệm vụ của học sinh, tích cực học
tập và rèn luyện, chăm đọc sách, báo để làm giàu vốn từ giúp các em học tốt
môn Tiếng Việt.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận.
Dạy học các nội dung về ngữ pháp tiếng Việt thực sự không đơn giản.
Đặc biệt, khi dạy các nội dung về câu, học sinh phải nắm vững cách xác định cả
về từ loại và nghĩa của từ, của câu. Đây là vấn đề thực sự khó đối với các em.


21
Hơn nữa, khi học các bài về chủ ngữ, vị ngữ, có những từ loại các em chưa
được học như đại từ, số từ nên đòi hỏi người giáo viên càng cần phải khéo léo
hơn trong cách sử dụng ngôn ngữ để giúp các em dễ hiểu. Trong quá trình giảng
dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản thân tơi cũng đã cố gắng
nghiên cứu, tìm tịi, học hỏi và lựa chọn sao cho học sinh nắm kiến thức mới để
vận dụng váo quá trình học tập cũng như trong giao tiếp hằng ngày một cách
hiệu quả. Trên đây là một vài kinh nghiệm của bản thân khi dạy phân môn

Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4A trường Tiểu học Đông Sơn, chắc chắn kinh
nghiệm của bản thân tơi khơng tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các đồng chí trong ban giám hiệu, các đồng chí giáo viên
trong tổ, trong trường để tơi có thêm vốn kiến thức nhằm nâng cao nghiệp vụ,
chun mơn của mình.
II. Kiến nghị.
1. Đối với BGH nhà trường:
Do các kiến thức về ngữ pháp Tiếng Việt vơ cùng khó và phong phú nên
giáo viên và học sinh cần thêm nhiều tài liệu để tham khảo. Hiện nay, các tài
liệu về ngữ pháp tiếng Việt trong thư viện nhà trường cịn ít. Vì vậy, kính mong
ban giám hiệu nhà trường tăng cường bổ sung thêm các đầu sách về ngữ pháp
Tiếng Việt, các sách truyện cổ tích để giáo viên và học sinh tham khảo.
2. Đối với giáo viên:
Giáo viên cần phải kiên trì thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, cần
nắm bắt rõ năng lực học tập của từng đối tượng học sinh để giảng dạy có hiệu quả.
Tự học và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Thường xuyên học tập, học hỏi
những kinh nghiệm ở đồng nghiệp, linh hoạt trong cách dạy để đạt kết quả cao
hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Đông Sơn, ngày 21 tháng 3 năm 2021
Tôi xin cam đoan SKKN này là do tôi tự
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Phạm Thị Huyền



22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, 2 – Nhà
xuất bản Giáo dục.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Sách giáo viên Tiếng Việt 4, tập 1, 2 - Nhà
xuất bản Giáo dục.
3. Lê Phương Nga, Phan Phương Dung: Sách giáo viên Tiếng Việt 4, tập
1, 2 - Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hướng dẫn chuẩn kiến thức – kĩ năng các
môn học ở Tiểu học lớp 4 - Nhà xuất bản Giáo dục.
5. Nguyễn Thị Ly Kha: Ngữ pháp Tiếng Việt - Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Thiết kế bài giảng môn Tiếng Việt 4, tập 1, 2 – Nhà xuất bản Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Sách giáo khoa Ngữ văn 6 - Nhà xuất bản
Giáo dục.
8. PGS - TS Nguyễn Đức Tơn: Lí luận - Phương pháp dạy học từ ngữ
Tiếng Việt trong nhà trường.
9. Trang mạng điện tử Tailieu.vn


23
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Đông Sơn, thị xã
Bỉm Sơn.
Kết quả
Cấp đánh giá

đánh giá
Năm học
T
xếp loại
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh giá
T
(Phòng, Sở,
(A, B
xếp loại
Tỉnh,...)
hoặc C)
Rèn kỹ năng luyện nói cho
Phịng GD&ĐT
1
B
2009 - 2010
học sinh lớp 2.
Quan Sơn
Tổ chức một số trị chơi tốn
Phịng GD&ĐT
2 học lớp 2 nhằm gây hứng thú
C
2010 - 2011
Quan Sơn
học tập cho học sinh.
Một số kinh nghiệm hướng
Phòng GD&ĐT
3 dẫn giải các bài toán về tỉ số

B
2012 - 2013
Quan Sơn
phần trăm ở lớp 5
Một số kinh nghiệm hướng
dẫn giải các bài toán về tỉ số
Phòng GD&ĐT
4 phần trăm ở lớp 5, trường
B
2017 - 2018
Tĩnh Gia
Tiểu học và Trung học cơ sở
Định Hải.
Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy học môn
Sở GD&ĐT
5 Khoa học lớp 4 ở trường Tiểu
C
2019 - 2020
Thanh Hóa
học Đơng Sơn bằng phương
pháp Bàn tay nặn bột.



×