Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp dạy học phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa ở phân môn luyện từ và câu lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.5 KB, 21 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Kế thừa tinh thần các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng rất quan tâm
đến phát triển giáo dục và đào tạo. Văn kiện Đại hội XIII có những điểm mới nổi
bật so với Đại hội XII không chỉ về hình thức mà cả nội dung về giáo dục và đào
tạo. Nghị quyết Đại hội XIII định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030
là “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”.
Với nhiệm vụ của nền giáo dục quốc dân nói chung và giáo dục học sinh
Tiểu học nói riêng là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có đủ phẩm chất
đạo đức, năng lực và trí tuệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới.
Trong đó giáo dục Tiểu học giữ vai trị vơ cùng quan trọng. Giáo dục học sinh ở
Tiểu học là đặt nền móng, là tạo tiền đề cho sự phát triển trí tuệ và phẩm chất ở
giai đoạn tiếp theo.
Tiếng Việt là một trong những môn học chiếm nhiều thời lượng nhất ở bậc
Tiểu học. Việc học Tiếng Việt sẽ giúp học sinh hình và phát triển tư duy ngơn
ngữ. Qua đó, các em sẽ được học cách giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu
cảm. Bởi vậy, dạy Tiếng Việt có vai trị rất quan trọng. Những thay đổi trong đời
sống kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục địi hỏi những u cầu đổi mới trong dạy
mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Luyện từ và câu nói riêng.
Chương trình mơn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập trung
biên soạn có hệ thống trong phân môn Luyện từ và câu, nhằm cung cấp cho học
sinh những kiến thức cơ bản về tiếng Việt; về xã hội, tự nhiên, con người, văn
hóa, văn học của Việt Nam; Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói
quen giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của tiếng Việt; Góp phần hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với kiến thức LTVC về từ vựng,
học sinh hiểu và vận dụng được kiến thức về nghĩa của từ (các hiện tượng đồng
nghĩa, trái nghĩa, nhiều nghĩa, đồng âm) vào việc hiểu văn bản văn học và thực
hành nói, viết.
Qua cơng tác chỉ đạo chun mơn và có nhiều năm liền dạy học lớp 5, tơi


thường nhận thấy học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ
đồng nghĩa cũng khơng mấy khó khăn. Tuy nhiên, khi học sang từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa, các em bắt đầu có sự nhầm lẫn, và khả năng phân biệt từ đồng
âm, từ nhiều nghĩa không được như mong đợi. Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là
hai mảng kiến thức mới, quan trọng trong phân môn Luyện từ và câu - chương
trình Tiếng Việt lớp 5. Trong thực tế đa số học sinh, kể cả khơng ít giáo viên
nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Cụ thể một số tồn tại như: GV
hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa còn máy
móc, rập khn và sơ sài, lấy ví dụ mà đơi khi chưa hiểu bản chất của nó; Trong
tiết học, giáo viên chưa quan tâm hết các đối tượng học sinh, đặc biệt đối tượng
học sinh tiếp thu chậm, không khí lớp học trầm; giáo viên ít tham khảo tài liệu,
trao đổi chuyên môn và từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
1


Trăn trở về vấn đề này, qua nhiều năm dạy học lớp 5 cùng đồng nghiệp và
công tác chỉ đạo chuyên môn, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm về cách hướng
dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tơi đã chọn đề tài:
“Một số giải pháp dạy học phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa ở phân môn
Luyện từ và câu lớp 5.”
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đề ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt được từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa góp phần nâng cao chất lượng dạy học nói chung và chất lượng
giảng dạy mơn Tiếng Việt nói riêng.
- Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa hiện tượng từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa; Hiểu lý thuyết về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa một cách chắc chắn,
tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng, khắc sâu kiến thức; góp phần làm giàu
thêm vốn từ cho học sinh, góp phần tạo hứng thú trong học tập.
- Giúp học sinh vận dụng vào các bài tập để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa, có năng lực sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong văn bản bằng hình

thức nói hoặc viết, góp phần rèn kĩ năng sử dụng vốn từ, nâng cao năng lực sử
dụng Tiếng Việt làm công cụ giao tiếp tư duy, biết trình bày một vấn đề gãy gọn,
chính xác, mạnh dạn, tự tin.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng việc dạy học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5
trường Tiểu học Quảng Hòa
- Từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu, lớp 5 và
một số tài liệu hướng dẫn có liên quan.
- Một số giải pháp, kinh nghiệm giúp học sinh phân biệt từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
- Phân biệt hiện tượng “sự chuyển loại” của từ
(mục 2.3.1.3)
- Linh hoạt tổ chức trò chơi học tập
(mục 2.3.7)
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, hội thảo chuyên đề
(mục 2.3.8)
2. PHẦN NỘI DUNG
1.2. Cơ sở lý luận
Từ là đơn vị trung tâm của ngơn ngữ, vai trị của từ trong hệ thống ngôn
ngữ quy định tầm quan trọng của việc dạy học từ ngữ ở Tiểu học. Không mở
rộng, trau dồi vốn từ thì việc sử dụng ngơn ngữ là cơng cụ giao tiếp khơng thể
khả thi. Vì vậy việc cung cấp kiến thức lí thuyết về từ cũng như kĩ năng nắm
nghĩa, sử dụng từ cho học sinh Tiểu học hết sức quan trọng, đảm bảo những

nguyên tắc cơ bản trong quá trình dạy học.
2


Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông
qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công
cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ
tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong môn Tiếng
Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta
thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó là phần nghĩa
của từ. Dân gian có câu: ‘‘Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”.
Tạp chí Thế giới trong ta - Chuyên đề 62 + 63 số ra trong tháng 4 + 5 năm
2007 có đăng bài viết đề cập đến nội dung “Giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa. Đây là một vấn đề không bao giờ được coi là cũ, là
thừa trong “Kho tri thức nghiệp vụ dạy học”.
Trong dạy học Tiếng Việt, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn
luyện tư duy đảm bảo quá trình người học nhận thức các khái niệm và quy tắc
của ngơn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp
cũng chính là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một định
hướng. Q trình này khơng chỉ hình thành các kỹ năng ngơn ngữ mà cịn hình
thành các kỹ năng và phẩm chất tư duy. Quá trình hoạt động tư duy và hoạt động
ngôn ngữ là hai quá trình có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ tới mức “Tuy hai
mà một, tuy một mà hai”. Nói một cách khác, muốn rèn luyện ngơn ngữ thì phải
rèn luyện tư duy và ngược lại. Để hai quá trình được thực hiện một cách có ý
thức, có kế hoạch, có tính tốn, ngun tắc rèn luyện ngơn ngữ gắn liền với tư
duy được cụ thể hoá thành các yêu cầu sau đây:
Dạy học tiếng phải gắn liền với phương pháp rèn luyện tư duy; gắn liền
với bồi dưỡng phẩm chất tư duy, tư duy hình tượng và tư duy logic.
Dạy học tiếng phải làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn
ngữ gắn chúng với nội dung hiện thực mà chúng phản ánh, đồng thời phải thấy

được giá trị của chúng trong hệ thống tiếng Việt. Phải chuẩn bị tốt nội dung các
đề tài cho các bài tập luyện nói, viết, liên kết gần gũi với đời thường, phát huy
tích cực sống của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Thuận lợi, khó khăn
Thuận lợi:
Khi thực hiện đề tài này bản thân tơi có những thuận lợi chiếm ưu thế. Đó là
nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 5 và đã trải nghiệm thực tế, sự quan tâm của các bậc
phụ huynh và đặc biệt được sự trong ban lãnh đạo nhà trường cùng với đội ngũ giáo
viên nhiệt tình. Chất lượng học sinh đại trà tương đối cao, mang tính ổn định. Trường
đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, đã nhiều năm đạt tập thể Lao động Tiên tiến.
* Trong dạy học môn Tiếng Việt ở trường, các thầy giáo, cô giáo đã quan
tâm tới nhiệm vụ bồi dưỡng và nâng cao năng lực sử dụng từ ngữ, cách nói, viết
câu chính xác qua giờ Luyện từ và câu. Từ đó kiến thức của các em sẽ làm cơ sở
cho kĩ năng giao tiếp. Học sinh đã biết cách vận dụng khi viết văn, có ý thức yêu
quý tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
* Trong những năm gần đây, chất lượng giáo dục của nhà trường luôn ổn
định và đem lại những hiệu qua thiết thực. Học sinh biết sử dụng từ ngữ có chọn
3


lọc trong nói, viết, vận dụng dùng từ đặt câu trong bài Tập làm văn tương đối
tốt, đặc biệt là những HS tham gia Câu lạc bộ Tiếng Việt ở trường.
* Khó khăn:
- Về phía nhà trường: Trường thuộc địa phương vùng đồng, rất nhiều bậc
CMHS ở độ tuổi lao động đi làm ăn xa, gửi con ở nhà với ông bà để đi học, đó cũng
là điểm khó khăn trong phối hợp hướng dẫn HS tự học và ôn luyện kiến thức.
- Về cấu trúc chương trình SGK:
Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5 (học khái niệm về từ đồng
âm); 1 tiết ở tuần 6 (Dùng từ đồng âm để chới chữ). Các bài tập về từ đồng âm

chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các từ
đồng âm bài luyện tập về từ đồng âm đã được giảm tải, vì thế thời lượng cịn ít.
Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8: 1 tiết học khái
niệm; 2 tiết luyện tập về từ đồng nghĩa). Và thêm 1 bài tập của tiết ôn tập GK1.
Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đặt câu
phân biệt nghĩa, nêu các nét nghĩa khác nhau của một từ, trong khi đó khả năng
tư duy trừu tượng của các em cịn hạn chế.
Ngồi ra, đến cuối học kì 1, ở phần ơn tập có 2 bài tập nhắc đến yêu cầu
xác định từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
2.2.2. Thực trạng vấn đề dạy học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa ở trường
Tiểu học.
* Việc dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của giáo viên
Trong quá trình dạy học các bài học này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai
trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn
nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
trong các bài học. Do đó, sau bài học, học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội
dung học một cách tách bạch, hời hợp, chưa có chiều sâu. Đơi khi giảng dạy nội
dung này, giáo viên cịn khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài sách
giáo khoa để minh hoạ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, có khi “bị động”
khi HS lấy những ví dụ lạ.
* Về việc học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của học sinh
Trong thực tế, học sinh làm các bài tập về từ đồng âm nhanh hơn và ít sai hơn
khi học các bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể do từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn.
Đặc biệt khi cho học sinh lồng ghép phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các
nghĩa của từ nhiều nghĩa trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm
bài chưa đạt yêu cầu. Ban đầu, khi học từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì
phần đa các em làm được bài, song khi làm các bài tập lồng ghép để phân biệt từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa thì chất lượng bài làm yếu hơn.
Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn:

- Học sinh cịn giải nghĩa từ sai, lúng túng...
- Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa còn nhiều hạn chế, mơ hồ, định tính
- Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa
hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
4


2.2.3. Nguyên nhân
Việc dạy học tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và việc dạy học phân mơn
Luyện từ và câu ở lớp 5 nói riêng, bên cạnh những điểm tốt, mang lại những kết
quả nhất định còn khá nhiều khiếm khuyết. Khuyết điểm lớn nhất, dễ thấy nhất
là bệnh rập khn, máy móc, thiếu tính chân thực trong cả cách dạy và cách học .
Đôi khi quan niệm “Từ đồng âm”, “Từ nhiều nghĩa” chỉ học có vài bài, thống
qua rồi thơi.
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau:
đọc, viết giống nhau, chỉ khác nhau về ý nghĩa, khó phân biệt nếu khơng tìm
hiểu, để ý kĩ.
- Vốn sống, vốn từ vựng của HS còn hạn chế, khả năng diễn đạt chưa tốt.
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề khó kể cả giáo viên thậm chí đối
với các nhà ngơn ngữ học vẫn cịn nhiều bàn cãi.
Từ thực trạng, nguyên nhân, làm thế nào để học sinh phân biệt được từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa? Căn cứ tình hình thực tế, tơi đã sử dụng một số giải
pháp từ góc độ người dạy, giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 như sau:
2.3. Giải pháp thực hiện
2.3.1. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; phân biệt
hiện tượng “sự chuyển loại” của từ.
2.3.1.1. Từ đồng âm:
Khái niệm: Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn

nhau về nghĩa. (SGK TV5 - tập 1 - trang 51) [4]
Như vậy, các từ đồng âm không bị chi phối bởi các quy luật ngữ nghĩa.
Hiện tượng đồng âm là hiện tượng mang tính phổ qt, xuất hiện trong nhiều
ngơn ngữ trên thế giới. Ví dụ:
 Hình thức ngữ âm đá trong hai văn cảnh dưới đây là những từ đồng âm:
- Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
(Bà Huyện Thanh Quan)
- Trăng trịn như quả bóng/ Bạn nào đá lên trời
(Trần Đăng Khoa)
 Hai từ đường trong những dòng thơ dưới đây của Tố Hữu cũng là hai
từ đồng âm:
- Đường ta rộng thênh thang tám thước
- Em ạ, Cu-ba ngọt lịm đường
Mía xanh đồng bãi, biếc đồi nương
 Các từ “bò”, “đầm” trong các trường hợp sau là từ đồng âm
bò(1) trong kiến bò: chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền
bằng cử động của tồn thân hoặc những cái chân ngắn.
bị(2) trong trâu bị: chỉ lồi động vật nhai lại, sừng ngắn, lơng thường có
màu vàng, được ni để lấy sức kéo, thịt, sữa...
đầm(1) trong đầm sen: chỉ vùng trũng to và sâu giữa đồng để giữ nước.
đầm(2) trong bà đầm: chỉ đàn bà, con gái phương Tây.
đầm(3) trong cái đầm đất: chỉ vật nặng, có cán dùng để nện đất cho chặt.
5


Đây là kiến thức cơ đọng, súc tích nhất dành cho học sinh Tiểu học ghi
nhớ, vận dụng khi làm bài tập, thực hành.
Song, đối với GV, cần biết được từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế:
- Do trùng hợp ngẫu nhiên (gió bay, bọn bay, cái bay),
- Do từ vay mượn trùng với từ có sẵn (đầm sen, bà đầm; la mắng, nốt la),

- Do từ rút gọn trùng với từ có sẵn (đo hụt mất hai ly, cái ly; hai ký, chữ ký...)
....
Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của
từ hoặc dùng với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
2.3.1.2. Từ nhiều nghĩa:
Khái niệm: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc (nghĩa đen) và một
hay một số nghĩa chuyển (nghĩa bóng). Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ
cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5, tập 1 - trang 67) [4]
“Từ nhiều nghĩa (còn gọi là từ đa nghĩa) là một từ nhưng có nhiều nghĩa;
nói cách khác, một hình thức ngữ âm nhưng có khả năng gọi tên nhiều sự vật,
hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm. Điều đáng lưu ý ở đây là, trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, các nghĩa khác nhau của một từ nhiều nghĩa có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau và khơng thốt li nghĩa chính.” [2]
Ví dụ 1: từ ăn, theo Từ điển tiếng Việt (Hồng Phê chủ biên), có các nghĩa sau:
(1) Tự cho vào cơ thể thức ăn nuôi sống. Ăn cơm.
(2) Ăn uống nhân dịp gì. Ăn cưới, ăn tết.
(3) Tiếp nhận. Tàu đang ăn hàng.
(4) Nhận lấy để hưởng. Ăn hoa hồng.
(5) Phải chịu lấy. Ăn đòn, ăn đạn.
(6) Hấp thu. Da ăn nắng. Cá không ăn muối.
(7) Hủy hoại. Sơn ăn mặt.
(8) Lan ra. Rễ tre ăn ra tới ruộng.
- Trong các nghĩa nêu trên của từ ăn, nghĩa 1 được coi là nghĩa chính (nghĩa
gốc, nghĩa đen). Các nghĩa còn lại là nghĩa chuyển (nghĩa bóng).
- Trong các nghĩa chuyển từ 2 đến 8, có thể nhận biết, xác lập được mối quan
hệ về nghĩa giữa các nghĩa chuyển với nghĩa chính (ở các mức độ khác nhau) nghĩa là có thể giải thích được từng nghĩa chuyển được hình thành từ nét nghĩa
nào trong cấu trúc nghĩa của từ ăn mang nghĩa chính (Có thể là nét nghĩa
thường trực hoặc nét nghĩa tiềm tàng).
Ví dụ 2: (BT1a, trang 67) Từ “mắt” trong mỗi câu sau: [4]
Đôi mắt bé mở to. (mắt - bộ phận quan sát của con người mọc ở trên mặt- nghĩa gốc)

Quả na mở mắt. (mắt - bộ phận múi vỏ của quả na, có dạng hình trịn, nhơ
ra, mang nghĩa chuyển.)
Đối với GV có thể hiểu: Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng,
biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách
quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Tuy nhiên các nghĩa trong nhóm từ
nhiều nghĩa ấy có mối liên hệ mật thiết với nhau xoay quanh nghĩa gốc.
Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương đồng (ẩn dụ) và tương cận (hoán dụ)
người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng,
6


tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vật ấy. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính
chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động
khác nghĩa (nghĩa 2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó.
Ví dụ 3: Nghĩa của từ “chín”:
(1) Chỉ quả đã qua một q trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao nhất,
hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng, đến độ thu
hoạch, ... (cam chín, mít chín) => nghĩa gốc
(2) Chỉ quá trình vận động, rèn luyện đạt đến sự phát triển cao nhất. (Suy nghĩ
chín; Tình thế cách mạng đã chín; Tài năng đã chín.) => nghĩa chuyển
(3) Sự thay đổi màu sắc nước da (ngượng chín cả mặt)=> nghĩa chuyển
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải, miêu
tả thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa
của những từ có liên quan.
Tóm lại: Hiểu một cách cô đọng về nghĩa: Từ đồng âm thì nghĩa của các
từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc (cịn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Cịn
từ nhiều nghĩa, chỉ có một từ mang một nghĩa gốc còn các nghĩa khác mang
nghĩa chuyển được hiểu rộng ra từ nghĩa gốc.
Các từ đồng âm khơng có quan hệ gì với nhau về nghĩa. Trong khi đó, các
nghĩa của từ nhiều nghĩa lại có mối liên hệ mật thiết với nhau và bị chi phối bởi

các quy luật ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Trong các trường hợp sử dụng khác nhau
của một từ, một khi ta không xác định được mối quan hệ về nghĩa thì nên coi đó
là các từ đồng âm.
Như vậy, dấu hiệu “mối quan hệ về nghĩa” giữa các từ có cùng hình thức
ngữ âm - là dấu hiệu để nhận biết, đồng thời là căn cứ chủ yếu dùng để phân biệt
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2.3.1.3. Phân biệt hiện tượng “sự chuyển loại” của từ (Trang 114) [2]
Hiện tượng chuyển loại (chuyển hóa từ loại) của từ là hiện tượng một từ
nào đó có khả năng đảm nhiệm vai trị của hai, ba từ loại khác nhau, ví dụ:
- Mượn chiếc cáng cứu thương để cáng người đi bệnh viện.
(cáng thứ nhất là danh từ, cáng thứ hai là động từ).
- Ôn lại những kỉ niệm (kỉ niệm là danh từ).
Mình kỉ niệm cậu cái bút này (kỉ niệm là động từ).
Như vậy, văn cảnh có tác dụng hiện thực hóa giá trị từ loại của từ. Nói
cách khác, dựa vào văn cảnh, ta có thể nhận biết được một từ nào đó, trong một
trường hợp, một hồn cảnh sử dụng cụ thể, là danh từ hay động từ, tính từ, số từ,
đại từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ.
Vấn đề đặt ra ở đây là danh từ cáng và động từ cáng, danh từ kỉ niệm và
động từ kỉ niệm có cùng hình thức ngữ âm như nhau. Vì vậy, các từ này cũng
giống các từ đồng âm (về hình thức ngữ âm của từ). Nhưng sự thực, hai loại từ
này hồn tồn khác nhau. Vì sự trùng hợp về ngữ âm - chữ viết giữa các từ chỉ là
ngẫu nhiên, nghĩa của các từ này hoàn toàn khác nhau, nhưng các từ chuyển loại
có thể xác lập mối quan hệ với nhau về nghĩa. Ví dụ:
- Lấy cưa(1) để cưa(2) gỗ: cưa(1) chỉ “công cụ”; cưa(2) chỉ “hoạt động sử dụng công cụ”.
7


- Mua muối(1) về muối(2)dưa: muối(1)chỉ “tinh thể trắng, vị mặn, dùng để ăn”;
muối(2) chỉ “ hoạt động cho muối vào thịt cá, rau quả để giữ được lâu hoặc làm
thức ăn chua”.

- Bước(1) từng bước(2) chậm rãi: bước(1) chỉ “hoạt động đặt chân tới một chỗ khác để di
chuyển thân thể tới đó”; bước(2) chỉ “khoảng cách giữa hai chân khi bước”.
- Ôn lại những kỉ niệm cũ: danh từ kỉ niệm chỉ “cái hiện lại trong trí óc về những
sự việc đáng ghi nhớ đã qua”; Mình kỉ niệm cậu cái bút này: động từ kỉ niệm chỉ
“cho, tặng để làm kỉ niệm”…
Từ sự phân tích ở trên, ta có thể khẳng định “từ chuyển loại” và “từ đồng
âm” khơng phải là một. Hai loại từ này có sự khác nhau rõ nét: giữa các “từ
chuyển loại” có thể xác lập được mối quan hệ về nghĩa, còn các “từ đồng âm”
khơng có quan hệ gì với nhau về nghĩa.
Mặt khác: hiện tượng chuyển loại và hiện tượng đồng âm còn khác nhau
về cơ chế. Trong hiện tượng chuyển loại, ở một mức độ nào đó, có thể xác lập
được cơ chế chuyển loại (chuyển hóa từ loại) của từ, cịn từ đồng âm thì khồng.
Ví dụ:
(1) - cày
cày ruộng
- cưa
cưa gỗ
Danh từ chuyển thành động từ
- muối
muối dưa
(2) – chạy
chạy thóc vào kho
- đi
đi con tốt (trên bàn cờ).
Nội động từ chuyển thành ngoại động từ
- cười Nó cười anh đấy
(3) - một cái chai nhỏ
một chai nước
- một cái thùng đựng gạo
một thùng gạo. Danh từ chỉ vật thể chuyển

- một cái tủ sách
một tủ sách
thành danh từ chỉ đơn vị
- một cái thuyền
một thuyền cá
Giữa hiện tượng chuyển loại và hiện tượng đồng âm còn khác nhau ở chỗ:
chuyển loại được coi là một trong những phương thức cấu tạo từ, bằng cách giữ
nguyên vỏ ngữ âm của từ cũ, tạo ra một nghĩa mới có quan hệ nhất định với
nghĩa của từ cũ. Nói cách khác, sự chuyển loại có khả năng sản sinh. Trong khi
đó, hiện tượng đồng âm tuy có liên quan đến nhiều từ trong ngôn ngữ (các từ
đồng âm) nhưng không phải là một phương thức cấu tạo từ.
Và nếu như hiện tượng chuyển loại chủ yếu xảy ra trong phạm vi hai từ
loại (các ví dụ đã dẫn ở trên) thì hiện tượng đồng âm có thể xảy ra trong phạm vi
một từ loại hoặc nhiều từ loại, ví dụ:
- Tôi lồng chăn (lồng là động từ).
- Con ngựa lồng lên (lồng là động từ).
- Chim sổ lồng (lồng là danh từ).
Tóm lại, một kết luận nhỏ mang tính nghiệp vụ có thể được rút ra: Khi
dạy bài “Từ đồng âm” trong SGK Tiếng Việt 5, GV lưu ý khơng dẫn các ví dụ
thuộc hiện tượng chuyển loại. Bên cạnh đó, nếu nảy sinh tình huống HS hỏi các
từ kiểu “Lấy cưa về cưa gỗ” có phải là từ đồng âm hay khơng, thì GV cần giải
thích (một cách đơn giản, dễ hiểu) để các em nắm được trường hợp trên không
phải là từ đồng âm.
8


2.3.2. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
* Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm, được
thực hiện qua các bước:
Bước 1: Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập

ở phần nhận xét, giúp HS phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút
ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Bước 2: Tổ chức hướng dẫn HS tổng hợp kiến thức như nội dung phần
ghi nhớ. Đến đây, cần khuyến khích HS mạnh dạn lấy ví dụ về hiện tượng đồng
âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ.
Bước 3: Luyện tập, tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học
sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập.
* Trong quá trình dạy học các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, GV cần
sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ nhằm giúp học sinh dễ dàng phân
biệt nghĩa của từ. Ví dụ:
- Để phân biệt nghĩa từ đồng trong BT1a, trang 52 [4]
Cánh đồng

Tượng đồng

Một nghìn đồng

- Để phân biệt nghĩa từ đá trong BT1a, trang 52 [4]

* Tâm lí học sinh thích làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học
thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Bởi vậy, giáo viên nên cho HS
ngắt ý của phần ghi nhớ, cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại đọc toàn phần, đọc theo nhóm
đơi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Hoặc sử dụng sơ đồ tư duy. Và kết
quả có tới 25/32
lớp chỉ cịn 3 em có
hịnHS
đáthuộc ghi nhớ một cách trơi chảy ngay
đátại
bóng
thuộc song cịn ấp úng, chưa tự tin.

* Giúp HS tích cực vận dụng vốn sống, làm giàu vốn từ, rèn kĩ năng giải
nghĩa từ, làm cơ sở xác định từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
Ở BT1b, trang 82 [4], để học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm
giống nhau, hình thức chữ viết giống nhau trong mỗi văn cảnh cụ thể:
đường(1) trong “đường rất ngọt”,
đường(2) trong “đường dây điện thoại”
đường(3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp”
Ở đó đường(1) đồng âm với đường(2) và đường(3),
cịn đường(2) và đường(3) lại có quan hệ nhiều nghĩa.
Để có được kết luận trên, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ
đường(1), đường(2), đường(3) là gì.
đường(1) chỉ một chất có vị ngọt.
đường(2)chỉ dây dẫn, truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc.
đường(3)chi lối đi cho các phương tiện giao thông, người, động vật.
Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy:

9


Từ đường(1), đường(2) có nghĩa hồn tồn khác nhau khơng liên quan đến
nhau. Kết luận hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ
đường(1) và từ đường(3) cũng có mối quan hệ đồng âm.
Từ đường(2), đường(3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ
đường(3) chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ đường(2) (truyền đi) theo vệt dài (dây
dẫn). Như vậy từ đường(3) là nghĩa gốc, còn từ đường(2) là nghĩa chuyển. Kết
luận từ đường(2) và từ đường(3)có quan hệ nhiều nghĩa với nhau.
Để có thể giải nghĩa chính xác các từ “đường” như trên, các em phải có
vốn từ phong phú, có vốn sống. Vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên
luôn chú trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức
tích lũy cho mình vốn sống, biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được

một số biện pháp giải nghĩa từ, lập sổ tay tiếng Việt, …
Tiếp đó học sinh căn cứ vào khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để
xác định mối quan hệ giữa các từ. Để phân biệt nhanh, em đặt câu hỏi: “Trong
các từ “đường” đang được xem xét, các nghĩa có mối quan hệ với nhau hay
khơng? Nếu trả lời “Khơng” thì đó là từ đồng âm; Nếu trả lời “Có” thì đó là từ
nhiều nghĩa. Cũng hỏi như vậy với các từ khác.
* Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức
Trong chương trình SGK, bài dạy về từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau bài
dạy về từ đồng âm. Nên để tránh sự nhầm lẫn giữa từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
thì ngay ở bài dạy về từ đồng âm, ngồi ví dụ đúng về các trường hợp không
phải đồng âm, GV có thể lấy thêm ví dụ khác để các em nhận xét.
Ví dụ: BT2a, trang 60: Từ “đi” trong các trường hợp sau đây có phải hiện
tượng đồng âm hay không? [3]
- Mẹ hay đi bộ vào buổi tối để giảm béo.
- Bố mới đi Hà Nội về.
- Hè này, cả nhà em đi du lịch.
- Cụ ốm nặng, đã đi hôm qua rồi.
- Anh đi con mã, tôi đi con tốt.
- Thằng bé đã đến tuổi đi học.
Bài tập này chủ yếu yêu cầu HS nhận diện từ “đi” trong các câu văn trên
có phải hiện tượng đồng âm hay khơng, khơng u cầu học sinh giải thích gì và
sẽ có hai phương án trả lời: đồng âm/khơng đồng âm. GV gợi mở để biết từ “đi”
trong các câu văn trên có phải là quan hệ đồng âm hay khơng, u cầu các em về
nhà suy nghĩ tìm hiểu SGK các tiết LTVC sau sẽ giúp các em tìm câu giải đáp.
Trong bài dạy “Từ nhiều nghĩa”, trang 66 [4] giáo viên có thể lấy thêm
một số trường hợp về từ nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy một ví dụ về từ đồng
âm cho học sinh nhận định về các từ trong ví dụ đó, chẳng hạn:
“Từ “chỉ” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay nhiều nghĩa? Vì sao?”
Cái kim sợi chỉ - chiếu chỉ - chỉ đường - một chỉ vàng. Ở câu hỏi này,
giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để khẳng định kiến thức và

khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Từ đó HS tự tin
kết luận từ “chỉ” trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của từ
“chỉ” trong mỗi trường hợp khác hẳn nhau, không hề có mối liên hệ.
10


Cuối tiết học nhấn mạnh: “HS cần lưu ý phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa, tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này”.
2.3.3. Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa.
Biện pháp này thực ra ít khi vận dụng tuy nhiên đối với một số HS tiếp
thu chậm, giáo viên có thể kết hợp nhiều biện pháp.
Trong thực tế hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó
phát âm giống nhau nhưng xét về từ loại khác nhau, mà không tìm được cơ chế
chuyển loại thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. Chẳng hạn khi chơi đùa học
sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “cụ cố” vì
em này nhỏ, yếu:
“Cố lên cụ cố….ơi !”
“Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ.
Đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện: khác từ loại, nghĩa khác hẳn nhau.
Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại thì phải
vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh, đồng thời xét xem các từ đó có
mối quan hệ về nghĩa hay khơng để tránh nhầm lẫn từ đồng âm với từ nhiều
nghĩa, sự chuyển loại của từ hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có. Khi đó thường
dựa vào ngữ cảnh, với tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ để nhận biết và giúp
con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn.
VD: - đồng tiền - cánh đồng
- con cò - cò súng
Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ
nhiều nghĩa, hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại. Từ “đi” trong các

trường hợp sau đều là động từ: đi bộ; đi chơi; đi ngủ; đi máy bay.
Vì vậy gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không
được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải
suy nghĩ thật kĩ. Giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh, tìm ra điểm khác
nhau hồn tồn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa.
Ví dụ (BT2, trang 67): Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như
thế nào? [4]
a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống
b) Trong veo, trong vắt, trong xanh
c) Thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành
Xét về từ loại
Ở nhóm (c) các từ “đậu” có quan hệ đồng âm với nhau vì đậu “trong thi
đậu” là tính từ (đỗ, trúng tuyển) “đậu” trong “xôi đậu” là danh từ (chỉ một loại
quả, củ dùng làm lương thực, thức ăn), “đậu” trong “chim đậu trên cành” là
động từ “nghỉ, tạm dừng lại”.
Ở nhóm (a), các từ “đánh” đều là động từ nhưng xét về nghĩa các từ “đánh
cờ” (một trò chơi), “đánh giặc” (chiến đấu với kẻ thù bằng nhiều cách) và “đánh
trống” (dùng dùi hoặc tay đánh vào mặt trống cho phát ra âm thanh) thì nghĩa
của chúng có liên quan đến nhau, đều tác động đến một sự vật khác, làm cho sự
vật đó có sự thay đổi, vì vậy các từ “đánh” ở nhóm (a) có quan hệ nhiều nghĩa.
11


Tuy nhiên các từ “trong” ở nhóm (b) cũng là các từ có cùng từ loại (tính
từ). Song chúng lại có quan hệ đồng nghĩa với nhau.
Để giúp HS làm tốt các bài tập như trên, giáo viên yêu cầu các em luôn
nắm chắc nghĩa của từ và suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó, khơng ngộ nhận
hoặc mới chỉ hiểu nghĩa lơ mơ, đã vội kết luận mối quan hệ giữa các từ đã cho.
Tóm lại, xét về từ loại: Các từ nhiều nghĩa thường cùng từ loại; Các từ
đồng âm có thể cùng từ loại, có thể khác từ loại.

2.3.4. Tìm ra dấu hiệu để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cùng với các bài luyện
tập, có thể giúp học sinh rút ra sự so sánh như sau:
* Điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Từ đồng âm
Từ nhiều nghĩa
- Là hai hoặc nhiều từ có cùng hình - Là một từ nhưng có nhiều nghĩa, trong
thức ngữ âm:
đó có 1 nghĩa gốc, các nghĩa còn lại là
VD: (hòn) đá; đá (bóng)
nghĩa chuyển.
VD: (hịn) đá; (nước) đá.

- Các nghĩa hồn tồn khác biệt nhau - Các nghĩa có mối liên hệ với nhau.
khơng có bất cứ mối liên hệ gì.
VD: (hịn) đá chỉ chất rắn có sẵn trong tự
nhiên, thường thành tảng, khối cứng. Cịn
đá (bóng) chỉ hành động dùng chân hất
mạnh vào một vật nhằm đưa ra xa hoặc
làm tổn thương.

VD: hịn (đá) chỉ chất rắn có trong tự nhiên,
thường thành tảng, khối cứng. Cịn (nước) đá
chỉ nước đơng cứng lại thành tảng giống như
đá.

- Khơng giải thích được bằng cơ chế - Do cơ chế chuyển nghĩa tạo thành.
chuyển nghĩa.
2.3.5. Phân loại các dạng bài tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ

* Đối với từ đồng âm:
BT1a, trang 52: phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau:
Cánh đồng - tượng đồng - một nghìn đồng. [4]
“đồng”(1) chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cày cấy, trồng trọt.
“đồng”(2) là kim loại;
“đồng”(3) chỉ đơn vị tiền Việt Nam.
Nghĩa của các từ “đồng” khác nhau, chúng là những từ đồng âm. (Dùng
tranh ảnh minh họa)
* Đối với từ nhiều nghĩa:
BT1, trang 67: Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc
và câu nào có từ “chân” mang nghĩa chuyển? [4]
Chân: a. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
b. Bé đau chân.
Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ
“chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc
“chân” ở câu (a) chỉ bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng - nghĩa chuyển;
12


“chân” ở câu (b) chỉ bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể - nghĩa gốc.
Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa
* Đối với từ đồng âm:
BT2, trang 51: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước [4]
Ở bài tập này, hướng dẫn học sinh với mỗi từ thường đặt hai câu, trong
mỗi các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau. (HS năng khiếu có thể đặt 1 câu)
VD: Bàn: - Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.
- Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện làm ăn.
Nước: Việt Nam là đất nước có truyền thống trồng lúa nước.
* Đối với từ nhiều nghĩa:
BT4, trang 74: Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng” [4]

Đứng: Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền
Nghĩa 2: Ngừng chuyển động
Giáo viên có thể gợi ý (nếu cần) nghĩa 1, nói tới tư thế của người hoặc
động vật. Nghĩa 2, nói tới trạng thái của sự vật hiện tượng.
Một số VD HS đặt câu:
Nghĩa 1: Chúng em đứng nghiêm trang chào cờ.
Nghĩa 2: Kim đồng hồ đang chạy, bỗng đứng lại.
Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa
BT1, trang 63, tiết 2: Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan
hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau? [3]
Vàng: Giá vàng(1) nước ta tăng đột biến.
(1)
(2)
Tấm lịng vàng .
(2)
(3)
Ơng tơi mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản. (3)
Ở bài tập này GV hướng dẫn HS hiểu nghĩa của các từ “vàng” rồi xác
định mối quan hệ giữa chúng.
HD: vàng(1): kim loại quý, có màu vàng, thường dùng làm đồ trang sức
vàng(2): đáng quý, đáng trân trọng
vàng(3) lưới: tên bộ lưới đánh bắt thủy hải sản
Vàng lưới: bộ lưới gồm nhiều tấm, có phao, chì, dùng để đánh bắt cá và các hải sản khác

Đáp án: từ “vàng” ở câu 1,2 có quan hệ nhiều nghĩa,
từ “vàng” ở câu 3 có quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2.
Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho
* Đối với từ đồng âm:
BT2, trang 15: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B. [7]
A

1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ.
2. Sao lá đơn này thành ba bản.
3. Sao tẩm chè.
4. Sao ngồi lâu thế ?
5. Đồng lúa mượt mà sao!

B
a. Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác theo
đúng bản chính.
b. Tẩm một chất nào đó rồi sấy khơ.
c. Nêu thắc mắc không biết rõ nguyên nhân.
d. Nhấn mạnh mức độ ngạc nhiên, thán phục.
e. Các thiên thể trong vũ trụ.

Đáp án: 1- e; 2- a; 3- b; 4 – c; 5- d
* Đối với từ nhiều nghĩa:
13


BT1, trang 73: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A. [4]
A
1. Bé chạy lon ton trên sân.
2. Tàu chạy băng băng trên đường ray.
3. Đồng hồ chạy đúng giờ.
4. Dân làng khẩn trương chạy lũ.
Đáp án: 1- d;

B
a. Hoạt động của máy móc
b. Khẩn trương tránh những điều khơng

may sắp xảy đến
c. Sự di chuyển nhanh của phương tiện
giao thông
d. Sự di chuyển nhanh bằng chân
2 - c; 3 - a;
4-b

Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để nối
những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận thấy trước.
Trường hợp khó cịn lại nếu HS chưa hiểu nghĩa các em có thể vận dụng cả phương
pháp loại trừ. Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên.
Bên cạnh đó, mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng.
2.3.6. Tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
Việc nghiên cứu, tham khảo tài liệu, sưu tầm các trường hợp có liên quan
phục vụ cho cơng tác giảng dạy của mình cần trở thành thói quen tích cực của
mỗi GV. Tơi ln quan niệm vai trị người dạy- người học đối với người GV
ln gắn liền với nghề nghiệp của mình.
Sưu tầm, tích lũy ... qua nhiều kênh trong cuộc sống hàng ngày giúp
người dạy hiểu rõ hơn bản chất vấn đề, tự tin trong giải quyết cơng việc.
Nên tích lũy thành dạng bài tập để thuận tiện trong quá trình giảng dạy,
hướng dẫn học sinh. Nhiều bài làm của học sinh cũng là những tư liệu sưu tầm
thiết thực, kể cả đó là những nhầm lẫn, làm ngữ liệu giúp HS tìm lời giải đúng.
* Đối với từ đồng âm: Ví dụ:
bạc: “- Cái nhẫn bằng bạc
- Đồng bạc trắng hoa xịe
- Cờ bạc là bác thằng bần
- Ơng Ba tóc đã bạc
- Đừng xanh như lá, bạc như vơi
- Cái quạt máy này phải thay bạc”
BT1a, trang 14 [7]

Cá, nhỏ: “Em cá với anh là chiều nay mẹ sẽ nấu món cá rán”; “Lọ thuốc
nhỏ mắt nhỏ thế mà đắt thật.” [Bài làm của HS]
* Đối với từ nhiều nghĩa: Ví dụ:
chạy: “- Cầu thủ chạy đón quả bóng.
- Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại.
- Đồng hồ này chạy chậm.
- Mưa ào xuống, không kịp chạy lúa phơi ngoài sân.
- Nhà ấy chạy ăn từng bữa.
- Con đường mới mở chạy qua làng tôi.”
BT2b, trang 61 [3]
Lá: - Em ăn năm lá bún.
- Lá cờ bay phần phật trong gió.
- Ở sân trường em, lá xà cừ rụng rất nhiều. [Bài làm của HS]
2.3.7. Linh hoạt tổ chức trò chơi học tập
14


Với việc tăng cường kĩ thuật “viết tích cực”, “nói tích cực”, “khăn trải
bàn”; hình thức thảo luận nhóm nhỏ;
Tơi thường tổ chức cho học sinh chơi trò “Tiếng Việt kì thú!” với những
chủ đề khác nhau, theo phương châm “chơi mà học, học mà chơi”
Phần thưởng cho nhóm thắng cuộc là tràng pháo tay, câu khen dí dỏm,
một lá cờ thi đua, có khi lại là một bài hát tặng của nhóm “chưa thắng”, ...
Ví dụ 1: Bước 1: Thi tìm nhanh từ ngữ chứa tiếng “chín” (Mục tiêu mở
rộng vốn từ)
Có thể cho HS trình bày dưới nhiều hình thức linh hoạt, đơn giản nhưng khoa học, dễ
hiểu, chẳng hạn như hình sau:
cơm chín (1)
ngượng chín mặt (2)


chí
n

suy nghĩ chín chắn
chín điểm

(3)
(4)

.......

Bước 2: Xác định hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa của từ “chín” trong
các trường hợp vừa tìm được. (MT phát triển năng lực giải nghĩa từ). Và tất
nhiên HS còn phân loại được cả những trường hợp từ đồng nghĩa nữa (nếu có)
Bước 3: Đặt câu có từ “chín” đồng âm; nhiều nghĩa (MT tích cực hóa vốn từ)
Ví dụ 2: “Thi tìm điều bí ẩn”
MT: HS hiểu và giải nghĩa các cách hiểu của những câu văn có dùng từ đồng âm chơi chữ
Nội dung: GV đưa ra vấn đề cho các nhóm, hoặc hướng dẫn HS tự chuẩn
bị trong các nhóm để đổi chéo đó lẫn nhau
Chẳng hạn (Đề 80, trang 58) Tìm các từ ngữ đồng âm trong từng câu sau.
Hãy giải thích nghĩa của từng câu. [6]
a) Hàng bán nước nhưng không bán nước
Quán ngăn gian cốt để ngăn gian
b) Trọng tài trọng tài vận vận viên, vận động viên động viên trọng tài.
Hình thức trị chơi này khi đã quen, HS luôn tỏ ra hào hứng, giờ học trở nên sôi
nổi, tích cực. Dù phần thưởng cho nhóm thắng cuộc là tràng pháo tay, câu khen dí
dỏm, một lá cờ thi đua, có khi lại là một bài hát tặng của nhóm “chưa thắng”, ...
2.3.8. Tổ chức sinh hoạt chun mơn, hội thảo chuyên đề
Trong mỗi năm học, việc tổ chức các chuyên đề là việc làm thường xuyên
ở mỗi nhà trường nói chung và trường Tiểu học Quảng Hịa nói riêng. Nội dung

trao đổi cụ thể luôn bám sát thực tiễn giảng dạy, đặc biệt với những vấn đề khó,
dễ lẫn và được lên kế hoạch, định hình từ đầu năm học, nhằm nâng cao năng lực
chuyên môn và ĐMPPDH.
Nội dung “Chuyên đề dạy học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa” trường chúng tôi tổ
chức vào tháng 11.2020 (sau khi KS lần 1), với mục tiêu cùng trả lời 2 câu hỏi:
(1) Khi dạy về “từ đồng âm”, “Từ nhiều nghĩa”, đồng chí thấy khó khăn ở
những điểm nào? (Về phía GV, HS)
(2) Đồng chí đã thực hiện giải pháp gì để tháo gỡ những khó khăn đó?
15


Buổi sinh hoạt chuyên đề đã thực sự có ý nghĩa với nhiều ý kiến thiết
thực, đặc biệt các GV lớp 4, 5 đã bổ trợ cho nhau để thấu hiểu về vấn đề.
Từ đó, mọi người thống nhất thực hiện các giải pháp giúp HS phân biệt
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa một cách linh hoạt, sát với đối tượng lớp CN và
điều kiện của cá nhân mỗi GV.
Đây cũng chính là một trong những điều kiện thuận lợi giúp tơi thực hiện
SKKN của mình.
2.4. Kết quả nghiên cứu
Bước 1: Chỉ thực hiện giải pháp ở lớp 5B: Với định hướng ngay từ đầu năm
học, từ những tiết đầu của bài học về “Từ đồng âm”, “Từ nhiều nghĩa” (tuần 5 => 8),
tôi tiến hành trước ở lớp 5B theo định hướng giải pháp thực hiện. Và khảo sát ở từng
thời điểm khác nhau:
Cuối tuần 9, tôi cho khảo sát ở cả 2 lớp 5, tôi thu được kết quả như sau:
 Kết quả khảo sát lần 1 (06.11.2020): (Đề bài đính kèm phụ lục, đề S1)
Lớp

Sĩ số HS

Điểm 9-10


Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

5A

41

7

9

14

11

5B

41

12

15

9

5


Qua đó tơi nhận thấy chất lượng bài ở lớp 5B có sự tiến bộ cách biệt rõ rệt
so với 2 lớp bên. Điều đó như lời khẳng định rằng tôi cần tiếp tục triển khai và
duy trì các giải pháp đã dự định.
Bước 2: Thực hiện giải pháp ở cả 2 lớp 5A, 5B:
Qua buổi sinh hoạt đánh giá sơ kết chuyên môn giữa kì 1, và buổi tổ chức
“Chuyên đề dạy học Từ đồng âm, từ nhiều nghĩa”, CBGV thảo luận những khó
khăn vướng mắc khi dạy học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và chia sẻ hướng
giải quyết. Tôi thống nhất thực hiện giải pháp với cả 2 lớp 5 trong trường, lồng
ghép nội dung ôn tập các hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa trong các tiết thực
hành Tiếng Việt (ở buổi 2) một cách linh hoạt. Lưu tâm nhiều hơn tới việc phân
biệt nghĩa chuyển, nghĩa gốc; tăng cường vận dụng trị chơi học tập, các kĩ thuật
nói, viết tích cực, ... trong giờ học.
 Kết quả khảo sát lần 2 (27.01.2021, tuần 20): (Đề bài đính kèm phụ lục, S2)



10

Điểm
dưới 5
4

Điểm 5
trở lên
37 = 90.2%

5

1


40 = 97.5%

Lớp

Sĩ số HS

Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

5A

41

14

13

5B

41

17

18

Kết quả khảo sát lần 3 (25.3.2021, tuần 26): (Đề bài đính kèm phụ lục, S3)

4

Điểm dưới
5
0

Điểm 5
trở lên
41 = 100%

3

0

41 = 100%

Lớp

Sĩ số HS

Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

5A

41


18

19

5B

41

21

17

Từ kết quả trên, tơi thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt. Hầu hết học sinh nắm
vững và phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; có khả năng đặt câu để phân
biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Khi được yêu cầu nêu khái niệm, lấy ví dụ phân
biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, các em tự tin, trả lời mạch lạch. Có em đặt câu thật
16


dí dỏm: “Cơng tử Bạc Liêu là người bất tử.”; “Lọ thuốc nhỏ mắt nhỏ thế mà đắt
thật.”, “Chị cốc em vì em làm vỡ cốc.”... thể hiện sự lý thú của tiếng Việt và am
hiểu. Có những học sinh không tham gia Câu lạc bộ Tiếng Việt nhưng vẫn hồn
thành tốt các bài khảo sát.
Tuy nhiên cách trình bày của HS vẫn cịn những thiếu sót cơ bản như:
nhiều em viết thiếu dấu câu, gạch bẩn, giải nghĩa từ chưa trọng tâm, chưa tách
riêng câu giải nghĩa mà ghép cả vào câu văn cho trước (VD: Nêu nghĩa của từ
đàn trong “Bước lên diễn đàn”// HS nêu: nghĩa là bước lên sân khấu”); số HS
đạt điểm 5-6 vẫn còn có em nhầm lẫn nghĩa gốc, nghĩa chuyển.
Song, tơi tin tưởng rằng: với những giải pháp đưa ra trong SKKN cùng sự
chủ động, hợp tác của “người dạy” thì những thiếu sót của “người học” sẽ nhanh

chóng được khắc phục, tạo thêm sự hứng khởi, động lực trong phong trào thi
đua Hai tốt, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
“Kết quả so với chất lượng học sinh học cùng nội dung ở năm học trước đã có
sự chuyển biến rất tích cực: HS hứng thú học tập hơn, hay đố nhau giải nghĩa những
câu văn lí thú có sử dụng đồng âm, nhất là những HS tham gia CLB Tiếng Việt”.
[Nhận định của các GVCN lớp 5]

3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy các nội dung về nghĩa của từ thực sự không đơn giản, nhất là phân
biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Trong quá trình chỉ đạo, cùng tham gia giảng
dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản thân tơi cũng đã cố gắng
nghiên cứu, tìm tịi, học hỏi và lựa chọn sao cho học sinh nắm kiến thức mới và
vận dụng trong học tập cũng như trong cuộc sống một cách hiệu quả.
- Hầu hết HS xác định rõ các đặc điểm, cấu tạo của từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa về hình thức và bản chất. Các em biết phân biệt nhanh, bằng cách đặt câu
hỏi: “Trong các từ đồng âm/ nhiều nghĩa đang được xem xét, các nghĩa có mối
quan hệ với nhau hay khơng? Nếu trả lời “Khơng” thì đó là từ đồng âm; Nếu trả
lời “Có” thì đó là từ nhiều nghĩa;
Điều đó chứng tỏ tính khả thi của những giải pháp được áp dụng trong
sáng kiến kinh nghiệm của tôi, học sinh đã nắm vững kiến thức, vận dụng làm
được các bài tập, đảm bảo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của dạng bài và học
sinh tỏ ra hứng thú với bài học hơn. Kiến thức về từ đồng âm, nhiều nghĩa
khơng cịn cứ khiêm tốn nằm lại trong sách vở mà đã được cùng các em bước ra
cuộc sống, vui cùng các em trong những cuộc chơi, những câu chuyện thú vị.
Mục tiêu sử dụng ngôn ngữ trong sản sinh văn bản, trong tư duy, giao tiếp
đã được hiên thực hóa qua kết quả học tập phân mơn Luyện từ và câu nói riêng
và mơn Tiếng Việt nói chung. Đó chính là nguồn động lực lớn lao trong cơng tác
của CBGV nhà trường. Giáo viên tự tin hơn khi giảng dạy về nghĩa của từ.
* Bài học kinh nghiệm:

17


- Thực hiện tốt việc tổ chức sinh hoạt chuyên mơn trong nhà trường, chú trọng hình thức
sinh hoạt chun môn theo nghiên cứu bài học, lưu tâm các dạng bài học khó, điển hình.
- Để giúp HS phân biệt được từ đồng âm với từ nhiều nghĩa, làm đúng các bài
tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, người giáo viên cần:
+ Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, luôn đề cao tinh
thần tự học tự bồi dưỡng.
+ Tạo mọi điều kiện giúp HS được bộc lộ cách hiểu của mình về từ nhiều
nghĩa và từ đồng âm.
+ Vận dụng kỹ thuật “Nói tích cực” để HS rèn luyện cách diễn đạt ngắn
gọn, biết dùng vốn từ của mình để giải nghĩa từ chính xác. Trên cơ sở đó, phân
biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
+ Vận dụng kỹ thuật “Viết tích cực” khuyến khích HS thi viết câu văn
theo chủ đề, trong đó có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, đặc biệt tích cực
hóa kỹ năng nghe ghi của học sinh.
3.2. Kiến nghị, đề xuất.
* Đối với nhà trường: Tăng cường bổ sung CSVC, thiết bị DH hiện đại,
nhằm khích lệ giáo viên tích cực UDCNTT, vận dụng vào giảng dạy các mơn
học nói chung cũng như phân mơn Luyện từ và câu nói riêng.
* Đối với PGD&ĐT: Tổ chức chuyên đề trao đổi kinh nghiệm giảng dạy
những dạng bài điển hình về nghĩa của từ ở Tiểu học để CBGV được trao đổi
bàn bạc, phổ biến kinh nghiệm dạy học, cách tháo gỡ khó khăn ở từng tiết dạy,
từng dạng bài dạy.
Trên đây, bằng thực tiễn những kinh nghiệm, những suy nghĩ của bản thân
trong quá trình dạy học và chỉ đạo công tác chuyên môn về Từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa ở Tiểu học, tôi xin đưa ra một số giải pháp khi dạy về từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Rất mong nhận được
những góp ý của Hội đồng sáng kiến kinh nghiệm các cấp để tơi hồn thiện

SKKN và vận dụng trong công tác giảng dạy, chỉ đạo chun mơn của mình,
góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục.
Xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN
CỦA HIỆU TRƯỞNG

Quảng xương, ngày 03 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Huyền

18


MỤC LỤC
TÊN NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.3. Giải pháp thực hiện
2.3.1. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; phân
biệt hiện tượng “sự chuyển loại” của từ.

2.3.2. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
2.3.3. Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2.3.4. Tìm ra dấu hiệu để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
2.3.5. Phân loại các dạng bài tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
2.3.6. Tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa
2.3.7. Linh hoạt tổ chức trò chơi học tập
2.3.8. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, hội thảo chuyên đề.

Trang
1
2
2
2
2
2
3
5
5
9
11
12
12
14
15
16
19



2.4. Kết quả nghiên cứu
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị, đề xuất
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
Phụ lục: Một số đề khảo sát

16
18
18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tác giả

[1]

Đỗ Tiến Đạt

[2]

Trần Mạnh Hưởng,
Lê Hữu Tỉnh

[3]

Lê Phương Nga


[4]
[5]

Nguyễn Minh
Thuyết (chủ biên)
Nguyễn Minh
Thuyết (chủ biên)

Nhà xuất bản

Năm xuất
bản

Nhà xuất bản Giáo dục

2006

Nhà xuất bản Giáo dục

2009

TV nâng cao lớp 5

Nhà xuất bản Giáo dục

2014

SGK Tiếng Việt 5, tập 1,

Nhà xuất bản Giáo dục


2015

SGK Tiếng Việt 5, tập 2

Nhà xuất bản Giáo dục

2015

Nhà xuất bản Giáo dục

2008

Nhà xuất bản Giáo dục

2014

Nhà xuất bản Giáo dục

2014

Tài liệu
Đổi mới phương pháp
dạy học ở Tiểu học.
Giải đáp 188 câu hỏi về
giảng dạy môn Tiếng
Việt ở Tiểu học.

[6]


TS. Lê Hữu Tỉnh

Vui học Tiếng Việt

[7]

Trần Mạnh Hưởng,
Lê Hữu Tỉnh

Bồi dưỡng HSG Tiếng
Việt lớp 5
Văn học và tuổi trẻ
(Dành cho cấp Tiểu
học). Số 546

[8]

20


Mẫu 1 (2)

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:

Nguyễn Thị Huyền


Chức vụ và đơn vị cơng tác:

Trường Tiểu học Quảng Hịa

TT
1.
2.

3.

Tên đề tài SKKN
Dạy học Toán cho học sinh lớp 2
theo hướng cá biệt hóa
Một số giải pháp tổ chức bồi
dưỡng học sinh giỏi
ở trường Tiểu học Quảng Hòa.
Dạy học rèn kỹ năng
viết đoạn văn
cho học sinh lớp 2

Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại

(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Ngành GD
cấp tỉnh

C

2010- 2011

Ngành GD
cấp huyện

C

2013-2014

Ngành GD
cấp huyện

C

2016-2017

21




×