Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở tỉnh đồng nai hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 166 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 602280

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Văn Long

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
cơng bố trong bất kỳ một cơng trình nào khác.

Tác giả

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG


MỤC LỤC
Trang


PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................... 7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 9
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................................ 9
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 9

Chương 1 ....................................................................................................... 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI .......................... 10
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG
BẰNG XÃ HỘI ................................................................................................................. 10

1.1.1. Các quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. ............................ 10
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội. ............................................................................................................................ 31
1.2. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG
BẰNG XÃ HỘI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ............................................. .35

1.2.1. Các quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ............................................................................................................... 35
1.2.2. Kinh nghiệm của một số nước về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ................................................................................................................. 39
1.3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ CÁC CHÍNH SÁCH LỚN CỦA NHÀ
NƯỚC VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ



CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA ............................................................................................................... 47

1.3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ....... .. .......................................................................................................... 47
1.3.2. Các chính sách lớn của Nhà nước về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội ...................................................................................... 50
Kết luận chương 1 ...................................................................................................... 56
Chương 2................................................................................................................... 59

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI ...................... 59
2.1. KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ THỰC
TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ
HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 ......................................................... 62

2.1.1. Khái quát sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của tỉnh Đồng Nai giai đoạn
2001 - 2010. ............................................................................................................... 62
2.1.2. Thực trạng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2001 - 2010. ......................................................................... 71
2.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT
TỐT HƠN MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG
XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................................. 118

2.2.1. Quan điểm chỉ đạo và phương hướng cơ bản của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai
nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong
giai đoạn hiện nay .................................................................................................... 118
2.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng

kinh tế và công bằng xã hội ở tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay...................... 124
Kết luận chương 2 .................................................................................................... 149
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................ 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 155


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của một quốc gia không chỉ thể hiện ở sự phát triển về
kinh tế, mà còn thể hiện ở sự phát triển về mặt xã hội. Sự phát triển về kinh tế
và sự phát triển về mặt xã hội có liên quan mật thiết với nhau. Cơng bằng xã
hội là một nội dung quan trọng trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một
xã hội có tình trạng bất công bằng, người bị đối xử bất công sẽ khơng thể phát
huy hết tính tích cực của mình; hơn nữa, họ ln đấu tranh địi cơng bằng,
cuộc đấu tranh này không tránh khỏi gây bất ổn định xã hội. Như vậy, một xã
hội được xem là tiến bộ và phát triển bền vững, không chỉ đơn thuần là tăng
trưởng kinh tế mà phải gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã
hội. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là ước vọng của tất cả các dân
tộc và của mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mong muốn kép này không
phải dễ dàng và trong thực tiễn, chúng ta thấy đã bộc lộ những cách hiểu và
cách làm khác nhau.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, những năm qua, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu hết sức quan trọng, nhờ đó đã đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tháng 1 năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện
này đã mở ra một giai đoạn mới cho nền kinh tế nước nhà. Những cơ hội lớn
mà WTO mang lại đã và đang tạo điều kiện thúc đẩy đất nước phát triển

nhanh hơn, toàn diện hơn, ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc
gia có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, đó mới chỉ là kết quả bước đầu, phía
trước cịn là những thách thức to lớn và gay gắt, sự tăng trưởng kinh tế tất yếu
sẽ kéo theo sự bất bình đẳng trong xã hội. Đây là một trong những vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách chưa được làm sáng tỏ, đòi hỏi sự quan tâm và nỗ


2

lực của Đảng và Nhà nước ta để vượt qua. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với
mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn
quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền
vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã
hội bức xúc” [18,101]. Nghị quyết Đại hội XI cũng chỉ rõ: “phát triển toàn
diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển kinh tế”. Có thể thấy
rằng các Nghị quyết của Đảng đều quán triệt quan điểm “Gắn vấn đề kinh tế
với tiến bộ và cơng bằng xã hội trong bài tốn phát triển”. [19, 86]
Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ln duy
trì được tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định trong nhiều năm. Đồng Nai
đang ra sức phát huy những lợi thế về vị trí, địa lí, tiềm năng về kinh tế, khoa
học - công nghệ, nguồn nhân lực cùng truyền thống đoàn kết, tinh thần năng
động, sáng tạo để xứng đáng với vị thế tỉnh năng động nhất vùng Đông Nam
bộ. Một trong những trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước có khả năng
hợp tác, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ và sự quản lý của chính quyền Đồng Nai, trong những năm qua,
tỉnh đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Song những hạn chế mà tăng

trưởng kinh tế mang lại cũng như những bất cập nảy sinh trong quá trình thực
hiện mối quan hệ trên đã trở thành lực cản đối với sự phát triển của tỉnh.
Chính vì vậy, đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Nai đang ra sức
đẩy mạnh việc nghiên cứu trên phương diện lí luận lẫn thực tiễn về mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, từ đó tìm ra phương hướng
và những giải pháp cho vấn đề này trong giai đoạn hiện nay.


3

Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia
trong đó có Việt Nam, là nước đang phát triển, chịu tác động của q trình tồn cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, đặc
biệt là Đồng Nai trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thì mối quan hệ này càng
trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Với tất cả những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề
“Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở tỉnh Đồng Nai
hiện nay - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là đề tài từ lâu
đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà kinh tế và các học giả
của nhiều nước trên thế giới. Việt Nam, với đường lối đổi mới toàn diện của
Đảng, bắt đầu từ Đại hội VI (1986), từng bước phát triển và hoàn thiện qua
các nhiệm kỳ đại hội VII, VIII, IX và X, XI vừa qua, chính thức nêu lên
những quan điểm, tư tưởng có ý nghĩa triết lí chỉ đạo việc kết hợp hài hịa
giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội trong quá trình đổi mới, thì vấn
đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội dần trở thành đề
tài thu hút sự quan tâm của xã hội. Từ các cơ quan ban ngành, các tổ chức
chính trị - xã hội, đến các nhà kinh tế, các nhà chính trị và các nhà khoa học
đều đi sâu vào nghiên cứu, khảo sát với các hình thức, các góc độ và phạm vi

khác nhau nhằm tìm lời giải đáp cho các vấn đề: tăng trưởng kinh tế, công
bằng xã hội và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội.
Nhiều cơng trình đã được xuất bản và phổ biến rộng rãi, các cơng trình nghiên
cứu đó có thể phân ra các nhóm vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, cơng trình nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế: Các giải pháp
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của Vũ Đình Bách, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1998; Kinh tế xã hội Việt Nam hướng tới


4

chất lượng tăng trưởng, hội nhập và phát triển bền vững của Nguyễn Mạnh
Hùng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, năm 2004; Tăng trưởng kinh tế Việt
Nam: những rào cản cần phải vượt qua của Nguyễn Văn Thường, Nhà xuất
bản Lí luận chính trị, Hà Nội, năm 2005; Tốc độ và chất lượng tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam của Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt, Nhà xuất bản Đại
học kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 2006; Tăng trưởng và chất lượng tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam của Cù Chí Lợi, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa,
Hà Nội, năm 2008; Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm đảm
bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của Võ Văn Đức, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2009; …Nhìn chung, các cơng trình trên tập trung vào
ba vấn đề chính sau đây:
- Một là, lí luận chung về tăng trưởng kinh tế và kinh nghiệm của một số
nước trên thế giới trong việc giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế.
- Hai là, đánh giá những thành tựu và hạn chế về tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam, đồng thời vạch ra những nguyên nhân của những hạn chế.
- Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Riêng cuốn Các mơ hình tăng trưởng kinh tế (sách chun khảo) của
Trần Thọ Đạt, do Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, năm 2005 đã cho người

đọc một cách nhìn hệ thống, tương đối đầy đủ những mơ hình tăng trưởng
kinh tế vĩ mô nổi tiếng nhất, từ truyền thống đến hiện đại.
Thứ hai, cơng trình nghiên cứu về cơng bằng xã hội như: Công bằng
xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội của nhiều tác giả biên soạn, do
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2008; Những vấn đề lí luận cơ
bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay của Phạm Thị Ngọc
Trầm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2009; Công bằng xã hội
trong tiến bộ xã hội của Nguyễn Minh Hoàn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,


5

Hà Nội, năm 2009; đều tập trung nghiên cứu lí luận chung về công bằng xã
hội và việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù các cơng trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề công bằng xã hội
không nhiều nhưng các vấn đề liên quan đến việc thực hiện công bằng xã hội
đều đã được nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận bằng nhiều phương hướng khác
nhau, góp phần làm sáng tỏ vấn đề cơng bằng xã hội. Có thể kể tên một số
cơng trình nghiên cứu sau: Thực trạng kinh tế - xã hội và những giải pháp xóa
đói giảm nghèo ở người Khmer tỉnh Sóc Trăng của Ngơ Văn Lệ, Nguyễn Văn
Tiệp, Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hồ Chí Minh, năm 1997; Vấn đề giảm
nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của Trần Thị Hằng,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001; Giải quyết việc làm cho
lao động nơng nghiệp trong q trình đơ thị hóa của Nguyễn Thị Thơm, Phí
Thị Hằng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2009; Xóa đói giảm
nghèo ở Malaixia và Thái Lan - bài học kinh nghiệm cho Việt Nam của Võ Thị
Thu Nguyệt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010;.…
Ngày 22, 23 tháng 04 năm 2010, Viện Konrad Adenauer Stiftung (KAS
- Cộng hòa Liên Bang Đức) tại Việt Nam và Viện Nhà nước và Pháp luật đã
tổ chức Hội thảo khoa học: Chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt

Nam hiện nay tại thành phố Cần Thơ. Hội thảo đã nghe nhiều bài tham luận
của các Bộ, ban, ngành Trung ương, Sở và chính quyền tại địa phương, Viện
Nhà nước và pháp luật, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, trường Đại học Luật
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các báo cáo tham luận đã xoay quanh
nhiều vấn đề về hệ thống chính sách và pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam
hiện nay; đào tạo pháp luật về an sinh xã hội tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt
Nam. Từ đó, hội thảo đã vạch ra những hạn chế, bất cập trong quá trình thực
hiện các chế độ an sinh xã hội và nhận thấy việc nghiên cứu hoàn thiện pháp
luật an sinh xã hội, đặc biệt là yêu cầu đào tạo pháp luật về an sinh xã hội lại


6

càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Ông Amos Helms, trưởng văn phịng đại
diện Viện KAS, cho rằng khơng thể đặt hết gánh nặng an sinh xã hội lên vai
nhà nước, mà phải có sự chia sẻ của cộng đồng, sự tham gia rộng rãi của
nhiều người, không nên điều gì cũng trơng chờ vào nhà nước.
Thứ ba, cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội như: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một
số nước châu Á và Việt Nam của Lê Bộ Lĩnh, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 1998; Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Nhật Bản
giai đoạn“Thần Kỳ” và Việt Nam thời kỳ “Đổi mới” của Lê Văn Sang, Kim
Ngọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1999; Tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền
Trung của Phạm Hảo,Võ Xuân Tiến, Mai Đức Lộc, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2000; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp của Nguyễn Thị Nga,
Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2007; Tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội - Lý thuyết và thực tiễn ở thành phố Hồ Chí Minh của Đỗ
Phú Trần Tình, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, năm 2010; Gần đây nhất

ngày 23/6/2011 tại Hà Nội, Tạp chí cộng sản đã tổ chức Tọa đàm khoa học
“Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” với sự tham gia của nhiều nhà khoa
học đến từ các học viện, các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương và Hà
Nội….. Hầu hết các cơng trình này đều tập trung nghiên cứu ba vấn đề chính
sau đây:
- Một là, lí luận chung về tăng trưởng kinh tế, cơng bằng xã hội và mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
- Hai là, bài học kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.


7

- Ba là, đánh giá việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở địa phương hoặc nước ta hiện nay, đồng thời đề xuất một
số giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội trong thời gian tới.
Ngồi ra, trên các tạp chí và trang web còn đăng rất nhiều bài viết của
các tác giả về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như:
Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của
Lương Việt Hải, Tạp chí Triết học, số 4 (155), năm 2004; Tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của Phạm Xuân Nam, Tạp chí Cộng sản, số 1 (122), năm 2007; Tăng trưởng
kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội: Thành tựu và những vấn đề đang
đặt ra, Tạp chí Cộng sản, số 23; Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững
tạo tiền đề vững chắc cho q trình xóa đói giảm nghèo của Bùi Hà, Vụ
trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Đảm bảo cân
bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, một yêu cầu để phát triển
bền vững ở thành phố Hồ Chí Minh của Cao Ngọc Thành, Viện nghiên cứu

phát triển thành phố Hồ Chí Minh;….
Tóm lại, vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội tuy đã được các nhà khoa học, các học giả tiếp cận, nghiên cứu ở nhiều
khía cạnh, bằng nhiều hình thức và các cấp độ khác nhau nhưng cho đến nay
vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội ở tỉnh Đồng Nai. Kế thừa thành quả của các cơng trình
nghiên cứu trên, chúng tơi cố gắng đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ
thống mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở tỉnh Đồng
Nai hiện nay qua đề tài luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn


8

Thơng qua việc nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, luận văn nhằm chỉ ra những vấn
đề được đặt ra trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở tỉnh Đồng Nai thời gian qua, từ đó đề xuất một số giải
pháp mang tính định hướng nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này ở tỉnh Đồng
Nai trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực
hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích, làm rõ nội dung các quan điểm khác nhau về tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội; quan điểm chỉ đạo của Đảng và các chính
lớn của Nhà nước về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, khảo sát và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở tỉnh Đồng Nai
Ba là, trên cơ sở quan điểm của đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Nai

về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội, qua đó khuyến
nghị một số giải pháp nhằm thực hiện tốt giữa tăng trưởng kinh tế gắn liền với
đảm bảo công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay. Rút ra ý nghĩa đối với sự
nghiệp đổi mới đất nước nói chung và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng
Nai nói riêng.
Phạm vi giới hạn của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở tỉnh Đồng Nai - Thực trạng và giải
pháp trên cơ sở có nghiên cứu lí luận chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội; kinh nghiệm một số nước về giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; quan điểm chỉ đạo của Đảng và các
chính sách lớn của Nhà nước về giải quyết mối quan hệ này trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


9

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn
Là hệ thống quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngồi ra luận văn còn dựa trên các chỉ thị, nghị quyết, quyết định, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Luận văn dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đồng thời còn kết hợp sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
lịch sử và logic, thống kê, so sánh để nghiên cứu và trình bày luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu các quan

điểm khác nhau trong lịch sử về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội; về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội và biểu hiện mối quan
hệ ấy ở tỉnh Đồng Nai; Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề có liên quan đến tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam cũng như ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thiết thực đối với các cơ quan
chức năng, các nhà quản lí kinh tế, chính trị, xã hội ở tỉnh Đồng Nai trong
việc hoạch định và thực thi các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc
đẩy phát triển toàn diện ở Đồng Nai hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu 2 chương 5 tiết.


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
CÔNG BẰNG XÃ HỘI

1.1.1. Các quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề trung tâm có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng gắn liền với sự thịnh suy của từng quốc gia dân tộc. Đó là điều kiện
tiên quyết của phát triển của tiến bộ, đó là tiền đề vật chất - kỹ thuật để thực hiện
công bằng. Vì vậy, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực của mình cho
tăng trưởng, trên cơ sở giải quyết được vấn đề tăng trưởng kinh tế, nghĩa là tạo ra
được nhiều của cải vật chất, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề
khác; đặc biệt là các vấn đề xã hội, như nâng cao mức sống của người dân, tăng

cường phúc lợi xã hội, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, đảm bảo cho mọi người
có công ăn việc làm ổn định, v.v…..Đối với các nước đang phát triển thì tăng
trưởng kinh tế là điều kiện để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo với các nước phát
triển là cơ hội tham gia hội nhập quốc tế.
Thuật ngữ tăng trưởng kinh tế được sử dụng rộng rãi và có nhiều cách tiếp
cận khác nhau: Ngân hàng thế giới (WB) trong bài “Báo cáo về phát triển thế
giới 1991”, đã đưa ra định nghĩa như sau: Tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng
về lượng của những đại lượng chính là đặc trưng cho một trạng thái kinh tế,
trước hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học, dùng để chỉ sự gia
tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Các
chỉ tiêu thường được sử dụng để đo mức tăng trưởng kinh tế là mức tăng tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và các chỉ tiêu


11

kinh tế tổng hợp khác. Tăng trưởng đơn thuần chỉ là sự thay đổi về lượng,
chưa phản ánh mặt chất của một nền kinh tế. [2, 38].
Hiện nay, các quốc gia luôn quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế bền
vững. Đó là “sự tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong
thời gian tương đối dài (thường là một thế hệ từ 20 - 30 năm)” [84, 278].
Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay
việc đảm bảo chất lượng của sự tăng trưởng: “Chất lượng tăng trưởng kinh tế
cao là sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua
năng suất, nhân tố tổng hợp và năng suất lao động xã hội tăng và ổn định,
mức sống của người dân được nâng cao không ngừng, cơ cấu kinh tế được
chuyển dịch phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước, sản xuất có tính
cạnh tranh cao, tăng trưởng đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mơi
trường, quản lí kinh tế nhà nước có hiệu quả” [ 54, 9].

Có nhiều ý kiến cho rằng, tăng trưởng kinh tế đồng nhất với phát triển
kinh tế. Thực ra, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là hai thuật ngữ
khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. “Phát triển kinh tế là sự
tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế và nâng
cao chất lượng cuộc sống” [2, 42]. Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có
sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng khơng phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng
dẫn tới phát triển kinh tế. Các chuyên gia của WB cho rằng: tăng trưởng chưa
phải là phát triển, song tăng trưởng lại là một cách cơ bản để có phát triển và
khơng thể nói phát triển kinh tế mà trong đó lại khơng có tăng trưởng kinh tế,
nhưng trong bản thân, nó là một đại diện rất khơng tồn vẹn của sự tiến bộ.
Tư tưởng về tăng trưởng kinh tế đã được bàn đến ngay từ thời cổ
đại và ở mỗi giai đoạn lịch sử đều được các nhà kinh tế nghiên cứu, bổ
sung và phát triển. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi không nằm ở thuật ngữ “tăng


12

trưởng kinh tế” mà nằm ở nguồn gốc của sự tăng trưởng. Đó là cả một q
trình truy tìm căn nguyên tăng trưởng.
Quan điểm của Adam Smith về tăng trưởng kinh tế: A. Smith được
coi là người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống những luận điểm về kinh
tế học. Tác phẩm: “Nghiên cứu về nguồn gốc và bản chất của của cải các dân
tộc” đã nêu bật tư tưởng của ông về tăng trưởng kinh tế. Theo A. Smith, chính
lao động được sử dụng trong những cơng việc có ích và hiệu quả là ngun
nhân tạo ra giá trị cho xã hội. Theo ơng, tích lũy tư bản là nguồn gốc của sự
tăng trưởng kinh tế. Khi lượng tư bản của nhà tư bản tăng lên thì sự phân
cơng lao động càng được thúc đẩy vì nhà tư bản có thể th thêm lao động
cho những cơng đoạn sản xuất riêng biệt hơn, như vậy sẽ nâng cao năng suất
lao động. Để tránh sự giảm sút của tư bản dành cho sản xuất, ông cho rằng
cần phải giảm thu nhập của những người chỉ biết ăn tiêu hoang phí (tức là cắt

giảm bổng lộc của giới quý tộc, đánh thuế vào tầng lớp địa chủ, bãi bỏ chế độ
độc quyền thương mại của thương nhân). Mặt khác có thể thúc đẩy tích lũy tư
bản bằng cách bãi bỏ những quy định về thuế đối với các nhà tư bản.
Do ủng hộ sự tự do cạnh tranh nên ơng cho rằng Chính phủ khơng có
vai trị thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chống lại sự điều tiết của nhà nước đối
với cơ chế thị trường. Ông cho rằng trong khi theo đuổi lợi ích của mình, nhà
tư bản chịu sự tác động của “bàn tay vơ hình”, tức là “sự hoạt động của các
quy luật kinh tế khách quan” [84, 77].
Từ đó ơng kết luận, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động
kinh tế có cuộc sống riêng của nó, mặc dù chính sách kinh tế của Nhà nước có
thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự hoạt động của các quy luật kinh tế. A. Smith
viết: “Bạn nghĩ rằng bạn đang giúp cho hệ thống kinh tế bằng những quản lí
đầy ý định tốt đẹp và bằng những hoạt động can thiệp của mình. Không phải
như vậy đâu. Hãy để mặc, hãy để mọi sự việc xảy ra, đừng nhúng tay vào.


13

Dầu nhờn của lợi ích cá nhân sẽ làm cho bánh xe kinh tế hoạt động một cách
gần như kì diệu. Không ai cần kế hoạch, không cần quy tắc, thị trường sẽ giải
quyết tất cả”. [84, 52]
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của David Ricardo: Nếu Adam
Smith được coi là người sáng lập ra Kinh tế học thì David Ricardo (1772 1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Ông kế thừa các tư tưởng của
Adam Smith và chịu ảnh hưởng tư tưởng về dân số học của T.R. Malthus
(1776 - 1834). Những quan điểm cơ bản của David Ricardo về tăng trưởng
kinh tế được thể hiện trong tác phẩm nổi tiếng năm 1817 “Những ngun lí
của kinh tế chính trị và thuế khóa”. D. Ricardo đã cố gắng xây dựng và phân
tích quy luật phân phối trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: tiền lương cho
công nhân, lợi nhuận cho tư bản và tô tức cho chủ đất. Và ông nhấn mạnh,
phần phân phối cho giai cấp này giảm thì phần phân phối cho giai cấp kia

tăng lên.
Theo D. Ricardo nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, các yếu
tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn, trong từng
ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp
với nhau theo một tỉ lệ cố định, không thay đổi, trong đó đất đai là yếu tố
quan trọng nhất, là giới hạn của sự tăng trưởng. Vì khi nhu cầu về lương thực,
thực phẩm tăng lên (do dân số tăng), các nhà tư bản cần phải tiến hành sản
xuất trên những đất đai kém màu mỡ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên để
thu về cùng một lượng lương thực, thực phẩm trên mỗi đơn vị đất đai kém
màu mỡ. Lúc này, giá lương thực, thực phẩm sẽ tăng cao thì tiền cơng phải trả
cho cơng nhân cũng tăng theo tương ứng, còn lợi nhuận của các nhà tư bản thì
giảm xuống. Ơng viết: “Nếu tiền cơng hạ xuống thì lợi nhuận tăng lên chứ
khơng phải địa tô tăng lên; nếu địa tô và tiền công tăng lên thì lợi nhuận giảm
xuống….” [85, 99]. Nếu cứ tiếp tục như vậy, đến một lúc nào đó, nền kinh tế


14

sẽ trở nên bế tắc: địa tô ở mức cao (do cầu về đất đai màu mỡ tăng lên), tiền
công ở mức tối thiểu, lợi nhuận ở gần mức không, tích lũy tư bản ngừng lại.
Tuy xuất phát từ góc độ phân phối thu nhập để nghiên cứu tăng trưởng
kinh tế, nhưng ông cũng thống nhất với quan điểm của A. Smith vẫn đặc biệt
nhấn mạnh tích lũy tư bản là nhân tố chủ yếu quyết định sự tăng trưởng kinh
tế cịn các chính sách của chính phủ khơng có tác động quan trọng tới hoạt
động của nền kinh tế.
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của trường phái Tân cổ điển:
Alfred Marshall (1842 - 1924), với tác phẩm chính của ông là “Các nguyên lý
của kinh tế học”, xuất bản năm 1890, được coi như mốc đánh dấu sự ra đời
của trường phái Tân cổ điển.
Đối với các nguồn lực về tăng trưởng kinh tế, trường phái tân cổ điển

nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của vốn. Từ quan điểm đó, họ đưa
ra hai khái niệm: “Phát triển kinh tế theo chiều sâu” là tăng trưởng dựa
vào sự gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất;
“Phát triển kinh tế theo chiều rộng” là tăng trưởng dựa vào sự gia tăng
vốn tương ứng với sự gia tăng của lao động.
Để chỉ mối quan hệ giữa sự gia tăng sản phẩm với sự tăng lên của các
yếu tố vốn, lao động, tài nguyên và khoa học - công nghệ, các nhà kinh tế học
tân cổ điển đã đưa ra hàm sản xuất Cobb - Douglas. Hàm Cobb - Douglas cho
biết có 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và mỗi sự gia tăng
thêm một yếu tố sản xuất sẽ làm gia tăng thêm sản lượng đầu ra. Mỗi nhân tố
đều có vai trị nhất định đối với tăng trưởng sản xuất và giữa chúng có mối
quan hệ lẫn nhau. Trong đó, tư bản gia tăng được quan tâm nhất bởi vì nó đi
liền với tiến bộ kĩ thuật và công nghệ. Lao động được coi như nguồn vốn ban
đầu thiết yếu nhất của tăng trưởng.


15

Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của J. M. Keynes: Người đại diện
tiêu biểu nhất cho sự chuyển biến từ tư duy kinh tế thị trường tự do sang tư
duy kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Năm 1936, sự ra đời của
tác phẩm “Lí thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của John
Maynard Keynes (1883 - 1946) đã dánh dấu sự ra đời một học thuyết kinh tế
mới. Keynes cho rằng khi việc làm tăng lên, thì thu nhập cũng tăng lên, do đó
tiêu dùng cũng tăng lên. Song do khuynh hướng tiêu dùng cận biên (Keynes
chia thu nhập làm hai phần: phần tiêu dùng và phần tiết kiệm. Từ đó có hai
khuynh hướng đối với việc sử dụng thu nhập: khuynh hướng tiêu dùng và
khuynh hướng tiết kiệm. Khuynh hướng tiêu dùng cận biên là mối quan hệ
giữa sự gia tăng tiêu dùng so với sự gia tăng thu nhập. Theo Keynes, khuynh
hướng tiêu dùng cận biên (được ký hiệu là MPC) nên mức tăng tiêu dùng

không bằng mức tăng thu nhập, quy luật tâm lí thơng thường của chúng ta khi
thu nhập thực tế cộng đồng tăng hay giảm, thì tiêu dùng của cộng đồng sẽ
tăng hay giảm nhưng khơng nhanh bằng. Do đó, làm cho cầu tiêu dùng giảm
tương đối và ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu hẹp đầu tư và gây ra nạn
thất nghiệp. Để điều chỉnh sự thiếu hụt của cầu tiêu dùng, cần phải tăng đầu
tư (tăng tiêu dùng sản xuất). Mỗi sự gia tăng của việc làm, thu nhập quốc dân
(sản lượng quốc gia) gia tăng, do đó, tiêu dùng cũng tăng lên. Tuy nhiên khối
lượng đầu tư lại phụ thuộc vào hiệu quả khoản lợi nhuận lớn thì người ta tích
cực đầu tư, nếu ngược lại thì người đầu tư sẽ kém nhiệt tình đầu tư, hoặc
khơng đầu tư. Keynes nhận định, khi vốn đầu tư tăng lên, hiệu quả giới hạn
của tư bản sẽ giảm dần. Bởi lẽ, khối lượng hàng hóa cung cấp cho thị trường
tăng lên, do đó giá cả hàng hóa giảm xuống, kéo theo lợi nhuận giảm sút;
hàng hóa tăng lên làm gia tăng chi phí tư bản thay thế. Ngồi ra, các nhà kinh
doanh còn là những người đi vay tư bản để sản xuất kinh doanh sẽ mở rộng
đầu tư cho đến khi hiệu quả giới hạn của tư bản giảm xuống đến mức lãi suất


16

thấp nhất. Cái khó trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, hiệu quả giới
hạn của tư bản thì giảm sút, cịn lãi suất của tư bản cho vay lại có tính ổn
định. Điều đó tạo ra giới hạn chật hẹp cho đầu tư mới.
Để thoát khỏi tình trạng trên Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các
chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm tăng cầu tiêu dùng. Thứ nhất,
chương trình đầu tư của Nhà nước (qua các đơn đặt hàng hay trợ cấp vốn cho
các doanh nghiệp); thứ hai, chính sách tài chính, tín dụng và lưu thơng tiền tệ
có tác dụng làm tăng lợi nhuận, giảm lãi suất và kích thích sự đầu tư của các
nhà đầu tư, còn hệ thống thuế khóa và cơng trái nhà nước góp phần bổ sung
cho ngân sách; thứ ba, mở rộng việc làm bằng cách mở rộng đầu tư (cả vào
lĩnh vực quân sự); thứ tư, khuyến khích tiêu dùng cá nhân. Như vậy, sự tham

gia của nhà nước vào kinh tế giữ một vai trị quan trọng trong việc kích thích
các nhà kinh doanh mở rộng đầu tư sẽ được khuếch đại lên cao. )
Điểm hạn chế nhất trong học thuyết của Keynes là những nghiên cứu
của ông xuất phát từ trạng thái tĩnh của nền kinh tế, bỏ qua tác động của
những biến đổi của kỹ thuật và những biến đổi khác nên không phù hợp
với điều kiện của cuộc cách mạng kỹ thuật hiện nay. Hàng loạt các mơ
hình tăng trưởng kinh tế xuất hiện, trong đó đáng chú ý nhất là mơ hình
tăng trưởng mang tên hai nhà kinh tế học là Harrod và Domar.
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của Harrod - Domar: Vào những
năm 40 của thế kỷ XX, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod (Anh) và Evsay
Domar (Mỹ) với sự nghiên cứu độc lập, đã đồng thời đưa ra mơ hình về tăng
trưởng kinh tế xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn
để đảm bảo sự tăng trưởng ổn định trong một thời gian dài.
Theo Harrod - Domar, để tăng trưởng chỉ đơn giản là gia tăng tiết kiệm
và đầu tư quốc gia. Nhưng nó cũng là trở ngại chính đối với tăng trưởng kinh
tế ở các nước đang phát triển. Bởi lẽ, các nước này luôn rơi vào cái vòng luẩn


17

quẩn: năng suất lao động rất thấp  thu nhập thấp  tiết kiệm cũng thấp 
đầu tư thấp  tích lũy thấp  năng suất lao động thấp…Hơn nữa thị trường
tài chính và thị trường hàng hóa của các nước này cũng hoạt động yếu. Kết
quả toàn bộ tiết kiệm sẽ không được đưa ra đầu tư hết. Cho nên mơ hình này
hàm ý rằng, cần có kế hoạch hóa và mệnh lệnh của chính phủ nhằm thúc đẩy
đầu tư, qua đó đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển.
Nhìn chung mơ hình Harrod - Domar có ưu điểm là cơ sở để đề ra một kế
hoạch ưu tiên tăng trưởng một ngành hay một lĩnh vực nào đó, của một chính
sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế khi xét tới tương quan giữa nguồn tài chính
và nguồn lực hiện có. Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là quá đơn giản

khi coi tốc độ tăng trưởng chỉ được xác định bởi tỉ lệ tiết kiệm. Đúng như
Solow đã nói, theo mơ hình Harrod - Domar, “một nền kinh tế có thể thúc
đẩy tốc độ tăng trưởng công nghiệp đơn thuần chỉ bằng cách tăng tỉ lệ đầu
tư. Nhưng một vấn đề khác nảy sinh là: nếu có thể tăng trưởng kinh tế dễ
dàng như thế, vậy tại sao ngày càng có nhiều quốc gia khơng đi theo con
đường tăng trưởng nhanh đó? Ngay cả những nước giàu chắc đôi lúc cũng
muốn tận dụng khả năng tăng trưởng thông qua tăng tỉ lệ đầu tư. Dường
như có điều gì đó sai lầm trong cách xem xét tăng trưởng kinh tế dài hạn
này” [25, 64].
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của Robert Solow: Đến cuối những
năm 50 của của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại bắt
đầu phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng. R. Solow (nhà kinh tế học Mỹ)
đã nghiên cứu và nhận thấy rằng, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế gồm
có vốn, lao động và tiến bộ cơng nghệ. Trong đó tiến bộ cơng nghệ mới chính là
nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Tiến bộ công nghệ ở đây là bao gồm
những thành tựu kiến thức và sự áp dụng những thành tựu ấy vào cải tiến công
nghệ kỹ thuật nhằm tăng năng suất lao động (ứng với vốn và lao động như


18

trước). Nó cũng có thể sản xuất ra được sản phẩm tốt hơn, đa dạng hơn hoặc tạo
ra những sản phẩm mới. R. Solow cho rằng, tất cả những tăng trưởng bình quân
đầu người trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ công nghệ.
Theo ông trên thực tế, tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra khơng phải vì tăng
đầu tư, hoặc ngược lại, đầu tư khơng có hiệu quả vẫn có thể dẫn đến khơng có sự
tăng trưởng. Theo ông, một nền kinh tế đang phát triển mà thành công trong việc
tăng một cách thường xuyên tỷ lệ tiết kiệm sẽ đạt tới một mức sản lượng cao hơn
là nếu nó khơng làm như vậy, vì thế nó sẽ phát triển nhanh hơn trong một thời
gian. Nhưng nó sẽ không đạt được một tỷ lệ cao hơn lâu dài trong sự phát triển

sản lượng. Một cách chính xác hơn: tỷ lệ phát triển sản lượng ổn định mỗi một
đơn vị cung cấp lao động độc lập với tỷ lệ tiết kiệm (vốn đầu tư) và phụ thuộc
hoàn toàn vào tỷ lệ phát triển khoa học kỹ thuật theo một ý nghĩa rộng nhất. Hạn
chế của R. Solow là đã xem nhẹ nhân tố lao động.
Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế trong kinh tế học được xác định
bằng những con số, khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa
là tùy thuộc nhiều vào quan điểm của con người. Trong các thời đại khác
nhau của lịch sử xã hội lồi người, dù ở phương Đơng hay phương Tây, con
người đều quan tâm đến công bằng xã hội và đã có biết bao cách hiểu và giải
quyết khác nhau vấn đề công bằng xã hội nhưng cho đến nay chưa có một
định nghĩa nào hồn tồn chính xác, thuyết phục, cũng như chưa có một nơi
nào trên thế giới thực hiện được công bằng xã hội thực sự và tồn diện cho tất
cả mọi người. Cơng bằng xã hội là một trong những vấn đề nằm trong trung
tâm sự chú ý của các nhà lãnh đạo chính trị và nghiên cứu khoa học xã hội
trên tồn thế giới. Nhà xã hội học Pháp E. Durkheim quan niệm rằng: “các xã
hội hiện đại chỉ có thể ổn định nếu tôn trọng công bằng xã hội” [50, 28]. Nhà
triết học Pháp Jacques Derrida trong tác phẩm “Những bóng ma của Mác”, đã
nhấn mạnh: “khơng thể có cơng bằng xã hội chừng nào cịn có quy luật thị


19

trường, nợ nước ngồi, sự phát triển khơng đều về khoa học và cơng nghệ,
cịn có bạo lực và đói nghèo, những cái đã gây nên biết bao đau khổ ghê gớm
cho con người trên tồn thế giới” [50, 30].
Có thể nói, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng của mình về cơng bằng
xã hội, chuẩn mực riêng đó do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội qui định.
Xã hội càng phát triển thì tư tưởng về công bằng xã hội cũng phát triển theo.
Quan niệm của Platon về công bằng xã hội: Platon là một trong
những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất thời cổ đại đã có những quan điểm

cụ thể về cơng bằng và bình đẳng xã hội.
Trong hai tác phẩm “Nhà nước” và “Luật lệ” Platon đã khẳng định rằng
khơng thể có sự bình đẳng giữa những tầng lớp người khác nhau trong xã hội,
bởi vì, theo Platon, bản thân nhà nước xuất hiện từ chính sự đa dạng của nhu
cầu con người. Do có sự đa dạng ấy về nhu cầu nên xã hội cần phải duy trì
các hạng người khác nhau thực hiện các dạng phân công lao động khác nhau
để thỏa mãn các nhu cầu của xã hội và do đó khơng thể có sự hồn tồn bình
đẳng giữa họ. [95, 192].
Như vậy, theo Platon, trong xã hội đương thời hồn tồn khơng có sự
bình đẳng. Đó là điều tất yếu. Vì thế, ơng cho rằng: “sự bình đẳng giữa
những người khơng bình đẳng là tệ xấu chủ yếu của nền dân chủ” và “đối
với những người khơng bình đẳng, sự bình đẳng sẽ trở thành khơng bình
đẳng” [94, 57]. Platon coi việc người nô lệ mà được đối xử như với người
tự do là điều vượt ra khỏi lẽ phải thông thường. Công lý là ở chỗ mỗi
hạng người dù ở địa vị xã hội nào cũng phải làm hết trách nhiệm của
mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình và phải biết được thân phận
mình [95, 192]. Như vậy, công bằng xã hội là công bằng giữa những
người ở trong cùng một đẳng cấp chứ không phải giữa những người ở các
đẳng cấp khác nhau.


20

Những tư tưởng trên đây của Platon về công bằng và bình đẳng đã có
ảnh hưởng nhất định đến những quan điểm về cơng bằng xã hội và bình đẳng
xã hội trong những xã hội sau này.
Quan điểm về công bằng xã hội của Aristotle: Aristotle là một nhà
triết học vĩ đại thời kỳ cổ đại Hy Lạp, đã có những tư tưởng sâu sắc về công
bằng xã hội. Nhưng so với Platon, Aristotle đã phân biệt rõ hơn mối quan hệ
giữa cơng bằng và bình đẳng xã hội.

Trước hết, Aristotle đã đưa ra những quan điểm về vai trò của nhà
nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội. Theo ông, nhà nước là kết quả
phát triển của con người khi con người chuyển từ đời sống tự nhiên sang đời
sống chính trị, mà khi con người đạt tới sự phát triển trong nhà nước thì khi
đó con người đạt tới mức hoàn thiện nhất so với các loại động vật và ngược
lại con người mà xa lạ với luật pháp thì nó chỉ cịn là sinh vật tồi tệ nhất [89,
281]. Bởi vì, sự hồn thiện của con người trong nhà nước đã được thể hiện
bằng các chuẩn mực đạo đức như thiện và ác, công bằng và bất cơng, mà điều
này thì khơng thể có được khi con người sống ở trạng thái tự nhiên.
Về vấn đề công bằng, Aristotle quan niệm như sau: công bằng là sự bình
đẳng giữa những người có cùng địa vị xã hội. Cịn sự bất bình đẳng giữa
những người khơng có cùng địa vị xã hội thì cũng được Aristole coi là cơng
bằng như đã dẫn ở trên. Nói cách khác, trong quan niệm của Aristotle thì
khơng phải chỉ có sự bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã hội thì
mới có cơng bằng, mà ngay cả sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp trong xã
hội cũng chính là cơng bằng. Quan niệm ấy địi hỏi mỗi người sống trong
cộng đồng xã hội phải sống theo đúng vị trí xã hội của mình. Đây là cách mà
Aristotle bảo vệ cho địa vị của giai cấp quý tộc chủ nơ. Như vậy, trong quan
niệm của Aristotle thì cả sự bình đẳng và sự bất bình đẳng đều là thước đo
của sự công bằng.


21

Tuy nhiên, cống hiến thực sự của Aristotle trong quan niệm về công
bằng xã hội là ở chỗ, ông là người đầu tiên đã phát hiện ra thước đo của
sự cơng bằng nằm trong chính cơ sở kinh tế, đó là thấy cơ sở của sự công
bằng xã hội là sự cơng bằng trong trao đổi vật phẩm. Ơng nói “Sự trao
đổi khơng thể có được nếu khơng có sự bằng nhau, nhưng sự bằng nhau
lại khơng thể có được nếu như không thể đo chung được” [6, 97]. Mà

thước đo trong trao đổi hàng hóa chính là biểu hiện của giá trị, ví dụ:
“5 cái giường = 1 cái nhà”
“không khác” với:
“5 cái giường = 1 số tiền là bao nhiêu đó” [6, 97].
Mặc dù Aristotle đã thấy được phải có sự “đồng nhất về chất” của những
hàng hóa được trao đổi thì mới có thể tiến hành trao đổi được nhưng ông chỉ nêu
lên biểu hiện giá trị của hàng hóa bằng hình thái tiền của hàng hóa mà khơng
thấy được chính lao động là thước đo chung của cơng bằng và bình đẳng trong
mối quan hệ trao đổi hàng hóa cho nên nó đã trở thành một “điều bí ẩn” đối với
chính ơng. Hạn chế của Aristotle về cơng bằng xã hội là đã đồng nhất nó với
chính sự bất bình đẳng giữa những người khơng cùng đẳng cấp, là do “xã hội Hy
lạp hồi đó dựa trên lao động nơ lệ và vì thế cơ sở tự nhiên của xã hội đó là sự bất
bình đẳng giữa người với người và giữa những sức lao động của họ” [6, 98].
Chính hồn cảnh xã hội ấy đã khiến cho quan niệm của Aristotle về công bằng
xã hội bị bó hẹp trong quan hệ đẳng cấp.
Mặc dù vậy, những đóng góp đó của Aristotle đã được C. Mác đánh giá
rất cao: “Thiên tài của Aristotle chính là ở chỗ, trong biểu hiện giá trị của các
hàng hóa, ơng đã tìm ra được một quan hệ bình đẳng. Chỉ có những giới hạn
lịch sử của xã hội mà ơng đang sống mới ngăn cản không cho ông thấy được
“trong thực tế”, mối quan hệ bình đẳng đó là cái gì” [6, 98].


×