Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Sự phát triển của khoa học công nghệ và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.94 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NỮ THÁNH TÂM

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC CÔNG
NGHỆ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
ĐẠO ĐỨC
XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NỮ THÁNH TÂM

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC CÔNG
NGHỆ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
ĐẠO ĐỨC
XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS VŨ VĂN GẦU



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của PGS, TS. Vũ Văn Gầu. Các số liệu, kết quả
nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học
và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Người thực hiện

NGUYỄN NỮ THÁNH TÂM


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ VÀ
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI ........................................................................................7
1.1. KHOA HỌC – CƠNG NGHỆ VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI .................................................................................................. .7

1.1.1

Một số quan điểm về khoa học – cơng nghệ ................................7

1.1.2


Q trình hình thành, phát triển của khoa học – cơng nghệ và vai

trị của nó đối với kinh tế - xã hội ... .....................................................17
1.2. KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI..........................................25
1.2.1 Khái niệm đạo đức . ...... ................................................................25
1.2.2 Nội dung của đạo đức xã hội ............................... ... ......................28
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC – CÔNG
NGHỆ ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY.............. 38
2.1. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
VIỆT NAM HIỆN NAY ...... ............................................................................... 38

2.1.1 Ảnh hưởng của khoa học – công nghệ trên thế giới đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay . .........................................38
2.1.2 Sự phát triển của khoa học – công nghệ đối với đạo đức xã hội Việt
Nam ...... ..................................................................................................57
2.2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................ 70

2.2.1 Thực trạng của những giá trị đạo đức xã hội xã hội Việt nam trong
giai đoạn hiện nay ...................................................................................... ....70
2.2.2 Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy những giá trị đạo đức xã
hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ... .......................................................83
KẾT LUẬN ...... .............................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..... ......................................................................90


1

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, để phục vụ cho nền kinh tế phát triển, sự phát triển của khoa
học công nghệ là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc hỗ trợ sự
hội nhập của nền kinh tế đó. Hội nhập kinh tế giữa các khu vực và trên toàn thế
giới đã trở thành một xu thế tất yếu của thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực. Đó là con đường ngắn nhất giúp các quốc gia đang phát triển rút ngắn
được thời gian q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và Việt Nam
cũng khơng nằm ngồi phạm vi đó. Trong xu thế đó, Việt Nam đã chủ động
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế như gia nhập khối ASEAN, tham gia
vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), ký kết Hiệp định thương mại
song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và đầu năm 2007 đã trở thành thành viên
chính thức của Hiệp hội thương mại thế giới (WTO). Song song với vấn đề hội
nhập thì vấn đề đạo đức cũng góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền xã
hội giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Con người chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực
tiếp từ sự phát triển của khoa học kỹ thuật và chúng ta là những người đầu tiên
du nhập những cái mới từ phương Tây, chịu ảnh hưởng rất nhiều từ sự phát
triển không ngừng tiến bộ của khoa học công nghệ ấy. Vấn đề xây dựng đạo
đức xã hội Việt Nam trong giai đoạn phát triển không ngừng của khoa học kỹ
thuật có vai trị thiết thực và vô cùng quan trọng trong việc xây dựng một nước
Việt Nam dân chủ, cộng hòa, văn minh.
Thực tế, ở Việt Nam hiện nay vấn đề suy thoái đạo đức đang là vấn đề
làm nhức nhối dư luận xã hội, một phần khơng nhỏ trong chúng ta chưa có cái
nhìn chuẩn mực và có một số quan điểm sai lầm, lệch lạc về các vấn đề trong
xã hội. Cụ thể là một bộ phận khơng nhỏ thanh niên có biểu hiện suy thoái về
đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, xa hoa, lãng phí,


2

thiếu hồi bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Với

vai trò đặc biệt quan trọng của thanh niên, nếu để tình trạng suy thoái đạo đức
của thanh niên kéo dài và trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội sẽ dẫn
đến hậu quả khôn lường.
Trong thời gian qua, vấn đề này đã được rất nhiều hội thảo và các cơng
trình nghiên cứu khoa học bàn đến góp phần tích cực vào việc xây dựng đạo
đức xã hội Việt Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn những
hạn chế nhất định về đạo đức, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, xây dựng đạo đức cho con
người Việt Nam là vấn đề đặt ra cho công tác nghiên cứu lý luận và công tác
giáo dục đạo đức. Đó là lý do tơi chọn “Sự phát triển của khoa học cơng nghệ
và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay” làm luận văn
thạc sỹ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ trên thế giới và tác động sâu sắc đến quá trình phát triển của các
nước. Để hòa vào dòng chảy chung, các nước chậm và đang phát triển đều
tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong đó khoa học và cơng nghệ có vị
trí, vai trị cực kỳ quan trọng. Phát biểu tại hội nghị ngày 26/5/1995, Chủ tịch
Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân khẳng định khoa học và công
nghệ là chìa khóa để kinh tế của Trung Quốc tiến bộ. Ông nhắc nhở các đại
biểu về những lời của Chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình:
“Khoa học và Công nghệ là nhạc trưởng của sản lượng”. Đối với Mỹ, khi
tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống thứ 44 của nước Mỹ - Barack Obama đã
định hướng chiến lược: “Chúng ta sẽ khôi phục khoa học đúng như vị trí của
nó, và sử dụng điều kỳ diệu kỹ thuật để tăng chất lượng chăm sóc y tế và hạ
giá thành của sản phẩm”.


3


Ở Việt Nam, trong tất cả các kỳ Đại hội Đảng đều nhấn mạnh việc phát
triển khoa học công nghệ là động lực thúc đẩy phát triển đất nước đưa đất
nước tiến nhanh vào cơng nghiệp, ngồi ra, có nhiều tác giả quan tâm đến
khoa học và công nghệ như Hồng Đình Phu có tác phẩm Khoa học và cơng
nghệ với các giá trị văn hóa, NXB Khoa học Kỹ thuật, 1998 nói về ảnh
hưởng của khoa học và cơng nghệ đến mọi mặt về văn hóa xã hội ở nước ta
hay Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học công nghệ với cuốn
Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, NXB Khoa học và
kỹ thuật, Hà Nội, 2003 và Bộ khoa học Công nghệ và mơi trường có tác phẩm
tựa đề Chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và cách mạng cơng nghệ,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Quan tâm đến khoa học và cơng nghệ
cịn có các tác phẩm Khoa học và kỹ thuật Việt Nam 1996 – 2000 của Bộ
Khoa học, kỹ thuật và môi trường, 2001. Đặc biệt tác giả Phan Ngọc, Phan
Thiều còn dịch cuốn Khoa học và các khoa học (La science et les sciences),
NXB Thế giới, 1995 để những người quan tâm đến khoa học hiểu rõ hơn về
khoa học và các khoa học trên thế giới.
Ngoài ra, khi đưa ra các chiến lược, định hướng, dự đốn những tình
hình và những kết quả về khoa học và công nghệ, Trung tâm thông tin tư liệu
khoa học và kỹ thuật quốc gia đưa ra cuốn Khoa học, kỹ thuật thế giới, kinh
nghiệm và định hướng chiến lược, NXB Bộ khoa học và môi trường, 2002 và
Tình hình và kết quả hoạt động khoa học và công nghệ ở nước ta của Đỗ
Nguyên Phương, Tạp chí Cơng tác Khoa giáo, Số 11, 2003.
Bên cạnh việc quan tâm đến khoa học và cơng nghệ cịn có nhiều tác
giả nghiên cứu đến vấn đề đạo đức xã hội và giáo dục đạo đức xã hội do ảnh
hưởng của sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ như tác giả
Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) đưa ra tác phẩm
Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Ngồi ra, ở góc độ khác, tác giả Thái



4

Duy Tuyên đưa ra những biểu hiện đạo đức của thanh niên trong xã hội qua
tác phẩm Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường, Hà Nội, 1994. Bên cạnh đó, tác giả Phạm Minh Hạc
đưa ra cuốn Về phát triển tồn diện con người trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Tác giả Đinh Tuấn
Hùng với bài viết Về sự suy giảm giá trị đạo đức hiện nay, Tạp chí Người đọc
sách, 2007. Quan tâm đến vấn đề thay đổi đạo đức, lối sống của con người
trong thời kỳ khao học cơng nghệ phát triển cịn có tác giả Nguyễn Chí Mỳ,
Sự biến đổi của thang đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng
đạo đức mới cho các bộ quản lý ở nước ta hiện nay, NXB Quốc gia, Hà Nội,
1999 và Những vấn đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường của Viện Thông
tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. Ngồi ra, cịn có tác giả Thái Duy Tuyên
với 2 tác phẩm, Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong
điều kiện kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học, số 1/1995 và Tìm hiểu định
hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường, Hà
Nội, 1994. Quan tâm đến mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức, GS.TS
Nguyễn Ngọc Long với cuốn Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế
và đạo đức trong việc đổi mới tư duy, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, tháng 1,
1987.
Mặt khác, các tác giả còn quan tâm đến các thực trạng và giải pháp để
hoàn thiện đạo đức con người trong xã hội phát triển như ngày nay như tác
giả Lê Quý Đức – Hoàng Chi Bảo với tác phẩm có tựa đề Văn hóa đạo đức ở
nước ta hiện nay – Vấn đề và giải pháp, NXB Văn hóa thơng tin và Viện văn
hóa, Hà Nội, 2007, hay GS.VS Nguyễn Duy Quý (chủ biên) với tác phẩm
Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay. Vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2006. Ngoài ra, nhiều tác giả học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh có các tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo
đức cán bộ Đảng viên của Phạm Quốc Thành, NXB Chính trị Quốc gia Hà



5

Nội, 2004 và Đức Vượng, Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cán bộ, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995...
Qua các tác phẩm trên cho thấy các tác giả tùy theo góc độ nghiên cứu
mà xem xét khoa học, cơng nghệ và đạo đức ở những khía cạnh khác nhau và
có cách nhìn khác nhau về ảnh hưởng của khoa học công nghệ đối với đạo
đức xã hội. Song, nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu chưa mang tính hệ
thống trong việc khẳng định tầm quan trọng của việc tác động khoa học công
nghệ đối với đạo đức xã hội Việt Nam ngày nay. Chính vì vậy, trên cơ sở kế
thừa những kết quả mà các nhà nghiên cứu đạt được, tác giả luận văn muốn
thông qua đề tài này luận giải tập trung và tương đối có hệ thống một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của việc ảnh hưởng của khoa học công nghệ đến đạo
đức xã hội Việt Nam hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm giáo dục đạo
đức con người trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa của
nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ sự phát triển của khoa học cơng nghệ
và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó
đưa ra một số giải pháp cho vấn đề đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay.
Với mục đích trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Làm rõ các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản và các quan điểm khác nhau về khoa
học công nghệ và đạo đức.
- Phân tích một số ảnh hưởng của khoa học và cơng nghệ đối với sự phát
triển của Việt Nam nói chung và với đạo đức xã hội Việt Nam nói riêng.
- Trình bày khái quát thực trạng của đạo đức xã hội Việt Nam trong sự
phát triển của khoa học và cơng nghệ, qua đó nêu lên một số giải pháp cơ bản

nhất nhằm phát huy hơn nữa những giá trị đạo đức truyền thống trong sự phát
triển của khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay.


6

4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đạo đức. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp và vận dụng một số
phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp; thống
kê, so sánh; điều tra xã hội học để thực hiện đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Bài nghiên cứu này có rất nhiều đóng góp mới về khoa học như bổ
sung, phát triển lý luận về cấu trúc của đạo đức đồng thời phát triển lý luận về
quan hệ giữa sự tiến bộ của khoa học công nghệ trong định hướng xã hội chủ
nghĩa và đạo đức của con người Việt Nam. Ngoài ra cịn phân tích, đánh giá
thực trạng đạo đức của xã hội Việt Nam trong thời kì phát triển khơng ngừng
của khoa học công nghệ với cách tiếp cận dựa vào cấu trúc của đạo đức: ý
thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức, qua đó, xác định phương
hướng và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đạo đức của con
người Việt Nam trong sự tác động của phát triển khoa học công nghệ.
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về những biểu hiện đặc thù
trong đạo đức của con người, thực trạng đạo đức của xã hội Việt Nam trong
quá trình phát triển không ngừng của khoa học công nghệ hiện nay và cách
thức để xây dựng đạo đức mới cho xã hội Việt Nam trong điều kiện đó.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ, các tổ
chức làm cơng tác Đồn, cơng tác giáo dục đạo đức và hoạch định chính sách
phát triển con người, cho những ai quan tâm đến các vấn đề về đạo đức của
con người trong sự phát triển của khoa học kỹ thuật ở Việt Nam.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 2 chương với 4 tiết.


7

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ VÀ ĐẠO ĐỨC
XÃ HỘI
1.1. KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ
HỘI

“Để có 10 năm tăng trưởng mạnh vừa qua, chúng ta đã cởi trói nơng
nghiệp bằng khốn 10, cơng nghiệp bằng luật doanh nghiệp, huy động tối đa
tiềm lực lao động giản đơn. Muốn tiến xa hơn, chỉ còn cách phát triển khoa
học, công nghệ”, tiến sĩ Nguyễn Quân, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công
nghệ khẳng định.
Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia
và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội lồi người. Nhờ vận
dụng nhanh chóng những thành tựu mới của khoa học công nghệ, cũng như
tận dụng có hiệu quả làn sóng đối với cơng nghệ, nhất là công nghệ thông tin,
công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học…nhiều nước trên thế giới đã có sự
thay đổi tích cực về căn bản trên quy mơ tồn cầu trong đó có Việt Nam.
Khoa học- cơng nghệ ln đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt
các cơ hội phát triển mới, rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
Để hiểu rõ hơn về khoa học, cơng nghệ và vai trị của nó trước tiên

chúng ta đi đến một số khái niệm cơ bản của chúng.
1.1.1. Một số quan điểm về khoa học – công nghệ
 Khái niệm “ khoa học”
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức
mới, học thuyết mới,… về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học
thuyết mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, khơng cịn phù hợp.


8

Ví dụ: Quan niệm thực vật là vật thể khơng có cảm giác được thay thế bằng
quan niệm thực vật có cảm nhận.
Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật
chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư
duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và khơng ngừng phát triển
trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra hai hệ thống tri thức: tri thức kinh
nghiệm và tri thức khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống
hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người
với thiên nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách
quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã
hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển
trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu
vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ
bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển
đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho
sự hình thành tri thức khoa học.
- Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống
nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học, các hoạt động này có mục tiêu xác định
và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri

thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm
và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên.
Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa
học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…
Khoa học là hệ thống các kiến thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư
duy dựa trên những phương pháp được xác định để thu thập kiến thức. Những
phương pháp chủ yếu của khoa học hiện đại là tư duy lý trí và phương pháp
thực nghiệm. Phương pháp thực nghiệm hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả


9

quan sát, điều tra các hiện tượng tự nhiên và xã hội để thu thập thông tin về
đối tượng nghiên cứu. Tốn học có vai trị ngày càng quan trọng trong tư duy
lý trí và phương pháp thực nghiệm.
Các ngành khoa học được hình thành cho đến nay gồm có:
Tốn học
Các khoa học tự nhiên
Các khoa học xã hội và nhân văn
 Khái niệm “ công nghệ”
Công nghệ là sự ứng dụng của khoa học để giải quyết các vấn đề thực
tiễn trong hoạt động của con người.
Thuật ngữ công nghệ chỉ mới xuất hiện vào giữa thế kỉ 19, tiếng Anh là
technology, tiếng Pháp là technologie. Lúc ấy và cho đến thời gian gần đây,
cơng nghệ cơng nghệ có nghĩa là khoa học về các kỹ thuật hoặc sự nghiên cứu
một cách hệ thống về các kỹ thuật. Thuật ngữ kỹ thuật (taechnic hay
technique) với ý nghĩa là công cụ lao động, phương pháp lao động thì đã có từ
thời Hy Lạp cổ đại. Trên tinh thần đó, technology hoặc technologie thực ra
phải dịch là công nghệ học. Nhưng cách đây vài chục năm, ở Anh, Mỹ người
ta có xu hướng sử dụng thuật ngữ technology để nói về các ứng dụng thực

tiễn của những thành tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả thực tế các hoạt
động của con người. Các nhà khoa học châu Âu lúc đầu còn dè dặt nhưng
hiện nay đa số cũng đã chấp nhận khái niệm đó. Một tạp chí lớn của Pháp là
“Khoa học và kỹ thuật” (science et technique) cuối thập niên 80 cũng đổi tên
thành “Khoa học và công nghệ” (science et technologic) cũng vẫn với những
nội dung như trước.
Ở nước ta, Nghị quyết 26 của Bộ chính trị khóa VI tháng 3-1991 mang
tên nghị quyết về khoa học và công nghệ. Như vậy sử dụng thuật ngữ công
nghệ để nói về cuộc Cách mạng cơng nghệ đương đại là phù hợp với ngôn
ngữ thông dụng hiện nay trên thế giới và ở nước ta.


10

Theo trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ ở châu Á – Thái
Bình Dương APCTT (Asean Pacific center for technology transfer), công
nghệ gồm bốn thành phần THIO:
a. Thành phần kỹ thuật T (technoware) gồm các máy móc, thiết bị dụng
cụ, vật tư, các phương tiện kiểm tra, đo lường, tính tốn, thí nghiệm.
b. Thành phần con người H (Human ware) gồm tinh thần lao động, kiến
thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, khả năng tiếp thu và vận dụng
sáng tạo các công nghệ mới.
c. Thành phần thông tin I (inforware) gồm các bí quyết và quy trình
cơng nghệ, các tài liệu kỹ thuật khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa máy
móc, thiết bị, các thơng tin về các nguồn cung cấp vật tư và phụ tùng
thay thế, các thông tin về thị trường, về thành tựu khoa học và cơng
nghệ có liên quan đến khai thác .
d. Thành phần tổ chức quản lý O (orgaware) bao gồm tổ chức và quản
lý các hoạt động công nghệ, các tổ chức tiếp thị và các dịch vụ sau
bán hàng. [76, tr.10,11].

Công nghệ luôn được hiểu theo một nghĩa rộng là sự ứng dụng của các
tri thức khoa học vào giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn. Như vậy công nghệ
là một sản phẩm do con người tạo ra làm công cụ để sản xuất ra của cải vật
chất. Cho tới nay định nghĩa về cơng nghệ chưa tồn diện thống nhất, điều
này được lý giải là do số lượng các công nghệ có nhiều đến mức khơng thể
thống kê được. Người sử dụng cơng nghệ trong những điều kiện và hồn cảnh
khác nhau dẫn đến sự hiểu biết về công nghệ cũng khác nhau.
Nhìn chung có thể hiểu cơng nghệ là tập hợp các phương pháp, quy
trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực
thành sản phẩm. Như vậy công nghệ là việc phát triển và ứng dụng của các
dụng cụ, máy móc, nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn
đề của con người. Với tư cách là hoạt động con người, công nghệ diễn ra


11

trước khi có khoa học và kỹ nghệ. Nó thể hiện kiến thức của con người trong
giải quyết các vấn đề thực tế để tạo ra các dụng cụ, máy móc, ngun liệu
hoặc quy trình tiêu chuẩn. Việc tiêu chuẩn hóa như vậy là đặc thù chủ yếu của
cơng nghệ.
Khái niệm về kỹ thuật: Kỹ thuật được hiểu là bao gồm toàn bộ những
phương tiện lao động và những phương pháp tạo ra cơ sở vật chất.
 Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về khoa học và công nghệ
Vào thời đại của C.Mác, mới chỉ có một vài nước đang xây dựng nền
kinh tế công nghiệp, chưa xuất hiện kinh tế tri thức. Nhưng những điểm mà
C.Mác rút ra từ việc phân tích sự phát triển của hệ thống máy móc rất phù hợp
với những đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức, của khoa học công nghệ hiện
nay. Theo đà phát triển của đại công nghiệp, máy móc sẽ từng bước thay thế
lao động giản đơn, quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động đơn
giản sẽ trở thành một quá trình khoa học, lao động trực tiếp trở thành thứ yếu

so với lao động khoa học.
Khi nghiên cứu về tư bản cố định, C.Mác đã chỉ rõ: hệ thống máy móc
biểu hiện ra là một hình thức thích hợp nhất của tư bản cố định và sự phát
triển của tư bản cố định lại là chỉ số của sự phát triển sức sản xuất, là thước đo
mức độ phát triển của sự giàu có dựa trên phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
C.Mác dự đốn rằng, việc ứng dụng khoa học và cơng nghệ vào sản
xuất sẽ nâng cao năng suất lao động xã hội và cơ sở chủ yếu của sản xuất và
của của cải không phải là lao động trực tiếp do chính con người thực hiện và
khơng phải là thời gian trong đó anh ta lao động, mà là sự chiếm hữu sức sản
xuất phổ biến của chính con người, là nhận thức của con người về giới tự
nhiên và sự thống trị giới tự nhiên do sự tồn tại của con người với tư cách là
một cơ thể mang tính xã hội.


12

V.I. Lênin thì cho rằng : “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể là nền đại cơng nghiệp có khả năng cải tạo cả nơng nghiệp”. [51,
tr.11]. Ngồi ra, V.I. Lênin cịn đưa ra câu khẩu hiệu nổi tiếng khi nói về tầm
quan trọng của việc phát triển của nước Nga: “Chủ nghĩa cộng sản là chính
quyền Xơ-viết cộng với điện khí hố tồn quốc... Chỉ khi nào nước ta đã điện
khí hóa, chỉ khi nào công nghiệp, nông nghiệp và vận tải đứng vững trên cơ
sở kỹ thuật của đại công nghiệp hiện đại, thì lúc đó, chúng ta mới có thể đạt
được thắng lợi hoàn toàn”. [60, tr. 72].
 Quan điểm của Hồ Chí Minh về khoa học và cơng nghệ
Khoa học là tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giữa giai cấp bị bóc
lột và giai cấp bóc lột, đấu tranh giữa con người với tự nhiên. Ở đây chỉ nói
riêng về khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Khoa học phải từ sản xuất mà ra và
phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất

lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thắng lợi. Hồ Chí Minh quan niệm về khoa
học và cơng nghệ gồm có những vấn đề lớn sau:
- Một là, khoa học và công nghệ liên kết chặt chẽ với sản xuất, nhất là ở
nước nghèo, để phục vụ sản xuất phát triển; đồng thời sản xuất cũng là động
lực thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển.
- Hai là, khoa học và công nghệ có nhiệm vụ phục vụ sự phát triển xã
hội một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, vừa giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, xóa riển và ngày càng
hiện đại, có khá nhiều bạn trẻ cũng đã có những quan niệm đúng đắn trong
tình u và hơn nhân, tình u phải ln trong sáng, đúng mực, ln giữ gìn
và tơn trọng nhau, người phụ nữ cũng ngày càng năng động hơn, không chỉ
thành cơng ngồi xã hội mà họ cịn giỏi giang trong việc xây dựng hạnh phúc
gia đình, họ ln dành tình yêu và lòng chung thủy son sắc cho chồng con.
Nhờ có người phụ nữ mà gia đình ln trong ấm, ngồi n, gia đình hạnh
phúc, xã hội phát triển và xuất hiện nhiều tấm gương gia đình văn hố, cha
mẹ chăm sóc con cái đầy đủ, con cái có hiếu đối với ông bà, cha mẹ.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hố
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình


76

này cùng lúc kéo theo những biến đổi trong văn hố, đạo đức xã hội cũng như
đạo đức gia đình. Bên cạnh những gia đình truyền thống, ln giữ gìn bản sắc
truyền thống gia đình thì những đợt sóng biến đổi nhiều mặt của xã hội đã dội
vào gia đình, tác động đến đạo đức gia đình. Khơng ít những giá trị đạo đức
gia đình đang bị vi phạm, thể hiện lệch lạc. Trước hết phải kể đến quan niệm
về đạo đức hôn nhân. Nam nữ yêu nhau, đi đến quyết định kết hơn và q
trình chung sống của gia đình vẫn thường được coi là một vấn đề hệ trọng của

đời người. Nhưng hiện nay, ở một số người, quan niệm đạo đức hôn nhân
đang trở nên lộn xộn. Ở họ, tính nghiêm túc của hơn nhân đang bị xem
thường. Với quan niệm “Tình yêu bốc lửa, yêu nhanh, cưới nhanh” mà từ đó
đã có khơng ít trường hợp kết thúc với kết quả là “cưới nhanh, tan vỡ ngay”.
Từ lập luận kết hôn khi yêu nhau và ly hơn khi khơng cịn tình u vợ chồng,
họ đã bỏ qua tất cả các khía cạnh ràng buộc của mối quan hệ cha mẹ - con cái.
Biểu hiện xem nhẹ mức độ nghiêm trọng của việc ly hôn đôi khi cịn có
ngun do là: lấy việc kết hơn để đạt một mục đích nào đó. Theo số liệu thống
kê chưa đầy đủ, từ 1987 - 1994, ở 6 tỉnh của nước ta đã có 60.556 vụ ly hơn.
Xu hướng ly hôn tăng nhanh đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây nhiều cuộc
ly hôn chẳng những đã tạo nên những xung đột mạnh trong đạo đức vợ chồng,
mà còn khiến cho một số con cái sau khi bố mẹ ly hôn đã không được giáo
dục đạo đức một cách lành mạnh, đứa trẻ gây nên những hành vi rối nhiễu,
trầm cảm, thậm chí can phạm. Một biểu hiện sai lệch khác của quan niệm hôn
nhân là một số người lấy nhân tố kinh tế, tiền bạc làm tiêu chuẩn trên hết của
việc kết hôn. Họ coi hôn nhân cũng là “hàng mua bán” để rồi từ đó, đưa đến
bao nhiêu nỗi bất hạnh, cho bản thân và những người trong cuộc. Bên cạnh
những biểu hiện không nghiêm túc về hơn nhân, cịn có hiện tượng đạo đức
tình dục bị vi phạm. Hành vi tình dục diễn ra trước hơn nhân hoặc không dẫn
tới hôn nhân kiểu “già nhân ngãi, non vợ chồng” bắt đầu được một số người
tán thưởng, dư luận xã hội cho qua. Lâu nay, chúng ta thường quan niệm tình


77

dục là cái chỉ có sau kết hơn và tình dục phải gắn với hôn nhân. Nhưng hiện
nay, nhờ những người quan niệm tách biệt giữa tình dục và hơn nhân. Đã có
những đơi nam nữ chấp nhận việc có quan hệ tình dục với nhau nhưng khơng
đi đến hơn nhân. Có trường hợp quan niệm tình dục như một giai đoạn tiền
hôn nhân, giai đoạn thử nghiệm của hôn nhân. Họ coi quan hệ tình dục là biểu

hiện của tình u, có như vậy mới thật lịng u nhau. Nhưng sự thật nghiệt
ngã đã đến với những cô gái dễ dãi: phải đi nạo thai vì quan hệ tình dục.
Trong cả hai trường hợp, rõ ràng đương sự (nam - nữ) đã thoát khỏi trách
nhiệm và nghĩa vụ đối với quan hệ tình dục nam nữ mà thực chất, chúng vốn
gắn chặt với nhau.
Quan niệm đạo đức hôn nhân trở nên lộn xộn còn thể hiện ở một số
người có hành vi phạm pháp do ngoại tình hay mại dâm. Sự xuống cấp về đạo
đức trong gia đình đã phát sinh nhiều hiện tượng phạm tội dã man, nghiêm
trọng, điển hình là nạn giết vợ (ở Lâm Đồng), quan hệ bất chính với con dâu
nên giết vợ (ở Tứ Lộc Hải Hưng). Hành vi phạm pháp của người chồng đối
với vợ có khi cịn xuất phát từ ý thức coi thường phụ nữ, đối xử khơng bình
đẳng trong quan hệ gia đình, dẫn đến hành vi ngược đãi, hành hạ vợ con. Đây
được coi là nguyên nhân đáng kể dẫn đến tình trạng ly hơn ở Hà Nội, trong số
23.738 vụ kiện ly hơn có 7.372 vụ (chiếm 31%) là do vợ bị đánh đập, ngược
đãi. Cũng lý do trên, ở Hải Phòng là 30%, Nghệ An là 41%, Tuyên Quang là
60%. Tất cả các hiện tượng phạm pháp của người chồng đối với người vợ dù
do ngoại tình hay đó coi thường phụ nữ đều là sự vi phạm đạo đức gia đình,
làm lay chuyển bản chất nhân văn của gia đình - giá trị cốt lõi của con người
trong quan hệ vợ chồng. Trong khơng khí sơi động của cơ chế thị trường, mọi
người đều mong muốn có cơng ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức
sống, chất lượng cuộc sống. Cùng với xu hướng đó là nhu cầu được hưởng
thụ các tiện nghi sinh hoạt hiện đại. Từ nhu cầu đó, có những người đã đồng
nghĩa hạnh phúc gia đình với sự thoả mãn cao mọi nhu cấu cá nhân. Song khi


78

đạt được sự thoả mãn cao nhu cầu cá nhân thì cũng là lúc xảy ra xung đột lợi
ích giữa các thành viên, đạo đức gia đình bị vi phạm, hạnh phúc gia đình
khơng cịn. Dường như ở đó, người ta coi thương những yếu tố vơ hình làm

nên giá trị hạnh phúc gia đình, là nền tảng đạo đức gia đình, như lịng nhân ái,
sự đồng cảm, sự quan tâm lẫn nhau...
Đạo đức gia đình cịn thể hiện qua mối quan hệ giữa các thế hệ trong
gia đình. Ở Việt Nam, từ trước đến nay, vẫn đề cao việc chăm sóc con cái và
con cái có hiếu đối với ông bà, cha mẹ. Đó là nét đặc sắc của văn hố gia đình
Việt Nam, văn hố gia đình phương Đơng. Song, trong nhưng năm gần đây,
đã có một số gia đình q u chiều con cái hoặc khơng quan tâm, săn sóc
ơng bà, cha mẹ, khơng muốn làm nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ. Từ chỗ đặt
mục đích lợi ích làm trọng, họ đã thúc đẩy các thành viên gia đình đối xử với
lớp người già theo nguyên tắc trao đổi sòng phẳng. Họ đã lấy mức độ giàu nghèo làm tiêu chuẩn xác định quan hệ thân sơ trong họ hàng. Cách đối xử trở
nên khơng bình thường đã làm cho mối quan hệ vốn có giữa các thế hệ trong
gia đình (họ hàng) bị mất thăng bằng. Nhiều chuyện con cái ngược đãi cha mẹ
già, anh chị em xung đột nhau chỉ vì đất đai thừa kế đã làm đau lòng mọi
người. Cuối cùng, hiện tượng coi thường giáo dục gia đình đang xảy ra ngày
càng nhiều đã góp phần đáng kể phá vỡ nền tảng đạo đức gia đình. Có gia
đình đã thu hẹp phạm vi giáo dục gia đình vào việc ni con ăn học, chỉ chú ý
đến thành tích học tập hay sức khoẻ thể lực mà bỏ qua việc giáo dục phẩm
chất đạo đức cá nhân, cách ứng xử trong mối quan hệ với người khác. Hiện
tượng buông lỏng giáo dục phẩm chất đạo đức và cách ứng xử đúng đắn, tình
nghĩa đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực. Có những gia đình đã dung túng cho
tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược của con cái. Họ đã để cho quan niệm tư
lợi, “đồng tiền trên hết” ngự trị, lưu hành trong mọi hoạt động sống của gia
đình. Thậm chí có gia đình, bố mẹ sống bng thả, có hành vi thất đức, khơng
ý thức rằng đó là những bài học tự nhiên đối với con cái. Sự lúng túng, bất lực


79

trong việc giáo dục đạo đức gia đình của cha mẹ, sự coi thường, phủ định
sạch trơn những nội dung và hình thức giáo dục đạo đức truyền thống cho con

cái đã dẫn đến phá vỡ mối liên kết tinh thần của tổ ấm gia đình.
Nguyên nhân của những hiện tượng lệch chuẩn đạo đức gia đình trước
hết là những vấn đề liên quan đến luật pháp. Những quy định của luật pháp là
cơ sở chính hình thành đạo đức gia đình. Nhà nước ta đã ban hành Luật hơn
nhân - gia đình mới (năm 2000) quy định mối quan hệ đạo đức gia đình: trách
nhiệm, quyền lợi của cha mẹ đối với con cái và ngược lại, trách nhiệm giữa
vợ và chồng và cả khung hình phạt đối với những người phạm luật. Song, trên
thực tế,công việc tuyên truyền, giáo dục hơn nhân và gia đình chưa được thực
hiện thường xuyên và rộng rãi, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.... Vì
vậy, có thể nói, hiện tượng “mù pháp luật” đã xảy ra. Người phạm pháp (đánh
đập vợ, con, ngược đãi cha mẹ già…) lại không hiểu hành vi của mình là
phạm tội, người bị hại lại cam chịu cho rằng đó là số phận. Tuy nhiên, phải
thấy rằng, việc tuân thủ pháp luật của một số người chưa nghiêm chỉnh. Có
người biết quy định của luật là hôn nhân một vợ một chồng nhưng vẫn vi
phạm. Ở thành phố Hồ Chí Minh có 4418 vụ kiện chồng có vợ hai, cịn ở
Kiên Giang bình qn mỗi năm xảy ra 1498 vụ. Nguyên nhân liên quan đến
vai trò của giáo dục, việc xem thường giáo dục đạo đức gia đình, phương
pháp dạy con khơng cụ thể, nội dung giáo dục đạo đức chung chung... đã
không làm cho học sinh hiểu sâu sắc (trong nhà trường), không giác ngộ được
con cái (trong gia đình). Mặt khác, trong điều kiện mở cửa, hội nhập hiện nay,
việc giao lưu văn hố dễ đàng trong và ngồi nước đã góp phần đưa vào các
sách báo, phim ảnh lành mạnh, bên cạnh đó, khơng thiếu những sách báo,
phim ảnh khơng lành mạnh, khích lệ tự do tình dục, ca ngợi chủ nghĩa cá
nhân, vị kỷ, bạo lực... Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng tới quan niệm đạo
đức gia đình, hơn nhân và luyến ái của khơng ít người. Ngun nhân về kinh
tế tác động đến đạo đức gia đình cho thấy, do nền kinh tế thị trường ở nước ta


80


đang ở giai đoạn đầu, chưa hồn thiện, chính sách chưa đồng bộ nên đã sinh
ra nhận thức không đúng rằng, trong cơ chế này, ai có ý thức đạo đức thì bị
thua thiệt. Sự mở cửa của nền kinh tế đã làm cho con người chịu ảnh hưởng
trực tiếp của các trào lưu tư tưởng xã hội như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa
sùng bái tiền - vàng, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ... Chúng thẩm thấu vào ứng
cách ứng xử cá nhân và do đó, nó làm cho luân lý đạo đức của gia đình trở
nên xấu đi.
 Thực trạng đạo đức trong nhà trường đặc biệt là trong giảng đường
đại học
Bên cạnh một số ít các bạn trẻ năng động ln tìm tịi học hỏi những tri
thức mới, tham gia nhiệt tình, năng động vào các cơng tác xã hội, những việc
làm từ thiện thì ở nhà trường, đặc biệt là trong giới sinh viên, đã nảy sinh xu
hướng quan tâm nhiều đến lợi ích kinh tế của cá nhân, điều đó được biểu hiện
trong việc chọn ngành nghề để làm giàu hoặc có quyền lực. Khi tốt nghiệp ra
trường, phần lớn trong số họ không muốn làm việc ở các cơ quan của tổ chức
Đảng, đoàn thể, giáo dục... Thập nạn trong sinh viên hiện nay, như tiêu cực
trong thi cử, cờ bạc, quan hệ tình dục phóng túng, mê tín dị đoan, uống rượu
say, nghiện hút, cắm quán, trộm cướp, ham mê văn hoá phẩm đồi trụy, vô kỷ
luật, mất trật tự vệ sinh, đua đòi, chạy theo lối sống tiêu dùng cho thấy, thực
trạng đạo đức sinh viên đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, giải
quyết. Xã hội phát triển, cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn đã tác động tiêu cực
đến đạo đức giới trẻ hiện nay, rõ nét nhất là biểu hiện thực dụng trong quan
niệm đạo đức và hành vi ứng xử ở một bộ phận không nhỏ sinh viên hôm nay.
Cái cá nhân nhiều khi lấn át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan trọng
hơn tất cả. Một sinh viên kinh tế trong một cuộc phỏng vấn đã cho rằng, kinh
doanh là hoạt động đem lại lợi nhuận cho mình bằng bất cứ giá nào và không
cần đếm xỉa đến vấn đề đạo đức. Một tiêu cực thứ hai là giới trẻ hiện nay
đang hình thành một thái độ bàng quan đối với những người xung quanh. Sự



81

hy sinh và quan tâm đến người khác ở họ thấp đi, và nếu có thì thường được
đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Tác
động tiêu cực tiếp theo là cùng với sự du nhập lối sống đã dần dần làm khơng
ít sinh viên xa rời các giá trị đạo đức truyền thống rất đẹp vốn vẫn đang phù
hợp với thời kỳ hiện đại. Hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi,
chịu tác động của tệ nạn xã hội, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và
lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế, xã hội mở cửa.
Các quan niệm đạo đức trong một bộ phận sinh viên đang bị lệch
chuẩn, đặc biệt có quan niệm cho rằng, đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn
toàn đồng nhất trong mọi lúc, ở mọi nơi. Cũng như vậy, với sự phát triển của
thông tin, sự hỗ trợ của công nghệ cao, gần đây, tác động tiêu cực của mơi
trường ảo đã hiện thực hố qua một số vụ xung đột trong các chatter ngoài
đời. Sự dối lừa được coi là chuyện bình thường. Nhiều sinh viên đi thuê làm
khóa luận, đồ án tốt nghiệp, hoặc đi thi hộ trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học
và cao đẳng. Hiện tượng mua bằng, bán điểm khơng cịn là chuyện hiếm thấy.
Điều đáng lo ngại là nhiều sinh viên bộc lộ thái độ coi đó là chuyện bình
thường, khơng liên quan đến đạo đức. Sự lạnh lùng trong các mối quan hệ
tình cảm đang ngày càng lan rộng trong sinh viên. Không thể không đáng suy
nghĩ với lời một bài hát như thế này: “Tình yêu đến em khơng mong đợi gì,
tình u đi em khơng hề hối tiếc”. Nó như một tun ngơn cho lối sống lạnh
lùng, vô cảm, thiếu hụt những đam mê và khát vọng vốn là tài sản quý báu
của tuổi trẻ. Bên cạnh đó, trong nhiều sinh viên, xuất hiện thái độ đòi hỏi hơn
là sự hy sinh, ước muốn hưởng thụ nhiều hơn đóng góp, ít chú ý đến nghĩa vụ
và trách nhiệm công dân... Vấn đề đạo đức trong tầng lớp sinh viên hiện nay
đang ở tình trạng đáng báo động, cần có những giải pháp cụ thể để điều chỉnh.
Thực trạng của sự biến đổi giá trị đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam như đã nêu trên là vấn đề đáng lo ngại và cần báo động. Nó khơng
chỉ là mối quan tâm của một số người, một số cơ quan nghiên cứu, mà là vấn



82

đề của tồn Đảng, tồn dân. Nếu chúng ta khơng có sự quan tâm đúng mức,
khơng có những giải pháp hữu hiệu để giải quyết và ngăn chặn kịp thời những
tiêu cực về mặt đạo đức đó, thì hậu quả của nó đối với đời sống xã hội và sự
phát triển của đất nước là hết sức nghiêm trọng, không thể lường hết được.
Tóm lại, ngày nay khoa học và cơng nghệ chiếm một vị trí hết sức quan
trọng, là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần mở rộng khả
năng sản xuất, thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khơng những thế nó cịn tác động trực tiếp và thúc đẩy q trình tồn cầu
hóa, hướng tới một xã hội thông tin và một nền kinh tế tri thức. Đối với nước
ta, với một xuất phát điểm thấp, công nghệ thiết bị lạc hậu trong khi cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra với tốc độ hết
sức nhanh chóng và sâu rộng, quá trình tồn cầu hóa ngày một gia tăng thì
việc phát triển khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý nhà
nước và tiềm lực lãnh đạo của Đảng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đã
áp dụng rất nhiều những tiến bộ khoa học và công nghệ vào cuộc sống để phát
triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, sử dụng lợp lý tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ mơi trường; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới
Việt Nam, góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chẳng hạn
như chúng ta đã sử dụng những máy móc hiện đại trong sản xuất để thay thế
cho sức người, như máy cày, máy cấy,... con người ở cách xa nhau vẫn có thể
nói chuyện với nhau qua điện thoại, internet,... Nhưng một số cá nhân, một số
tổ chức đã áp dụng khoa học và cơng nghệ vào lợi ích riêng của họ mà khơng
để ý tới lợi ích của nhân loại như: sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh,

tạo ra những thực phẩm, dược phẩm,... gây hại tới sức khỏe của con người. Vì
vậy, khoa học và cơng nghệ phát triển theo quy luật tự nhiên vận hành của nó,


83

và việc áp dụng khoa học và công nghệ vào mục đích tốt hay xấu vẫn là chính
là ý thức của bản thân của con người.
2.2.2. Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy những giá trị đạo đức xã
hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 có nói: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và
cơng nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y
tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân. Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; con người phát triển tồn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng
lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật”. [25, tr 105]
Muốn đạt được chiến lược nêu trên, chúng ta phải trau dồi đạo đức và cùng xã
hội đưa ra một số giải pháp cơ bản để cải thiện và dần xóa bỏ tình trạng đạo
đức đang trượt dốc ở nước ta hiện nay.
 Giải pháp chung cho toàn xã hội
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cũng như của Việt Nam đã
chỉ ra rằng, chúng ta không thể chấp nhận một sự tăng trưởng đơn thuần về
kinh tế, với cái giá phải trả là sự mai một bản sắc văn hoá dân tộc, sự hủy hoại
các giá trị đạo đức truyền thống. Để giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống, trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, trước hết
chúng ta phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức cho toàn xã
hội, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Bởi lẽ, một thực tế không thể phủ nhận được là
do thiếu sự giáo dục và tuyên truyền sâu rộng về đạo đức trong nhà trường,

nên những hiểu biết của thế hệ trẻ về các giá trị đạo đức, có thể nói, khơng
đầy đủ, thậm chí cịn sai lệch ở một số thanh niên. Trong quá trình xây dựng
đất nước, nếu chúng ta chỉ quan tâm tới tăng trưởng kinh tế mà không chú ý
đến việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hố, đạo đức truyền thống thì sự


84

phát triển xã hội sẽ trở nên lệch lạc, không bền vững. Để giữ gìn và phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam, trước hết chúng ta phải coi trọng
và quan tâm một cách thực sự đến cơng tác tun truyền và giáo dục đạo đức
cho tồn xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhưng chúng ta không những phải làm
tốt nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong gia đình, trong nhà trường, mà cịn phải
làm tất cả nhiệm vụ giáo dục đạo đức ngoài xã hội. Chủ động xây dựng nền
đạo đức mới là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp
đổi mới đất nước hiện nay, muốn vậy chúng ta phải có biện pháp cụ thể: Thứ
nhất là tăng cường cơng tác tun truyền, giáo dục đạo đức cho tồn xã hội,
đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Thứ hai là xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực xã hội
mới làm cơ sở đánh giá và điều chỉnh đạo đức. Thứ ba là chuyển hóa lý tưởng
đạo đức thành thực tiễn đạo đức. Thứ tư là tăng cường nêu gương hình tượng
nhân cách đạo đức.
 Giáo dục đạo đức trong Đảng
Giải pháp quan trọng và trước hết là Đảng phải thực hiện nghiêm chỉnh
nguyên tắc phê bình và tự phê bình và trước hết là các cán bộ chủ chốt. Đảng
viên là phải gương mẫu, đồng chí lãnh đạo cấp cao càng phải gương mẫu,
gương mẫu trong chấp hành luật pháp, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư. Trong lối sống phải trong sạch, tiết kiệm, giản dị, mọi việc phải
tính tốn có hiệu quả, lợi ích cho dân, cho nước, khơng để gia đình vợ con lợi
dụng vị thế của mình làm điều phi pháp. [80, tr. 297]
Phải chống hiện tượng khép kín trong từng ngành, từng địa phương,

khơng nhất thiết người phó là phải lên thay người trưởng vì khơng muốn
người ở nơi khác đến và khơng cho người ngồi Đảng tham gia cơng tác lãnh
đạo, quản lý. Đặc biệt phải chống “tệ mua quan, bán chức”, đưa vào Đảng
những người cơ hội, kém phẩm chất. Đảng lãnh đạo về đường lối, quyết định
cán bộ, nhưng khơng phải độc quyền nắm hết các vị trí lãnh đạo và quản lý,
mà phải biết thu hút, sử dụng nhân tài trong và ngoài Đảng; đề bạt cán bộ phải


×