Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng việt trong nửa đầu thế kỷ xx qua việt nam tự điển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 177 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỐ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


HOÀNG THỊ PHI YẾN

VẤN ĐỀ CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ
TIẾNG VIỆT TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
QUA “VIỆT NAM TỰ ĐIỂN”
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ THỊ BÍCH LÀI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


1

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất tới Tiến sĩ Đỗ Thị Bích
Lài, người đã tận tình hướng dẫn tơi thực hiện luận văn này!
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới quý thầy cô khoa Văn học và
Ngôn ngữ, trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh,
những người đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tơi trong suốt khóa học!
Tơi xin ghi nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành đối với PGS. TS Lê Trung
Hoa và PGS. TS Phạm Hùng Việt - chính các thầy đã cung cấp cho tơi nhiều tài liệu
quý giá và những lời góp ý chân thành nhất trong q trình thực hiện luận văn!
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo Trường Sĩ quan Lục quân 2, nơi tôi


đang công tác, đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên tôi về mọi mặt để tơi hồn thành
nhiệm vụ như ngày hơm nay; đặc biệt lãnh đạo tổ Văn - Sử, khoa Khoa học Cơ bản
cùng các đồng nghiệp và bạn bè đã luôn tin tưởng, ủng hộ và động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian tơi học tập!
Xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè gần xa đã giúp đỡ tài liệu và động
viên rất nhiều để tơi hồn thành tốt cơng trình này! Đặc biệt xin ghi nhận nơi đây
lòng tri ân sâu sắc tới chồng và con trai tôi - những người đã luôn sát cánh cùng tôi
trong mọi niềm vui cũng như những khó khăn vất vả trên chặng đường vừa qua!
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả!
TP Hồ Chí Minh tháng 10 / 2011


2

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. 1
CÁC QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ........................................................ 4
DẪN NHẬP .................................................................................................................... 5

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 5
2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................ 7
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu....................................................... 9
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu .................................................... 10
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài .............................................................. 10
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 11
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................. 12
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT CƠ SỞ .................................................................... 12

1.1. Từ và cấu tạo từ ............................................................................................ 12
1.1.1. Định nghĩa từ .................................................................................... 12

1.1.2. Cấu tạo từ ......................................................................................... 14
1.2. Nghĩa của từ, trường từ vựng- ngữ nghĩa ...................................................... 20
1.2.1. Nghĩa của từ ..................................................................................... 20
1.2.2. Cơ cấu nghĩa của từ .......................................................................... 20
1.2.3. Trường từ vựng- ngữ nghĩa ............................................................... 22
1.3. Vấn đề từ điển và tổng quan về “Việt Nam Tự Điển” .................................... 23
1.3.1. Từ điển là gì? .................................................................................... 23
1.3.2. Phân loại từ điển ............................................................................... 24
1.3.3. Từ điển giải thích .............................................................................. 24
1.3.4. Tổng quan về “Việt Nam Tự Điển” ................................................... 25
CHƯƠNG 2 ................................................................................................................. 32
CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX QUA ..................... 32
“VIỆT NAM TỰ ĐIỂN” .............................................................................................. 32

2.1. Tiểu dẫn........................................................................................................ 32
2.2. Cấu tạo từ tiếng Việt trong nửa đầu thế kỉ XX qua “Việt Nam Tự Điển” ....... 34


3

2.2.1. Kết quả khảo sát các loại từ (xét từ góc độ cấu tạo) qua “Việt Nam Tự
Điển” ......................................................................................................... 34
2.2.2. Một số nhận xét về cấu tạo từ tiếng Việt trong nửa đầu thế kỉ XX qua
“Việt Nam Tự Điển” ................................................................................... 46
2.3. Tiểu kết ........................................................................................................ 62
CHƯƠNG 3 ...................................................................................................... 64ần sau

3.1. Tiểu dẫn........................................................................................................ 64
3.2. Hiện tượng đa nghĩa của từ tiếng Việt trong nửa đầu thế kỉ XX qua “Việt Nam
Tự Điển” ............................................................................................................. 66

3.2.1. Kết quả khảo sát về hiện tượng đa nghĩa của các mục từ trong “Việt
Nam Tự Điển” ............................................................................................ 66
3.2.2. Những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của các mục từ trong “Việt
Nam Tự Điển” ............................................................................................ 70
3.2.3. Một số nhận xét về hiện tượng đa nghĩa của từ tiếng Việt trong nửa
đầu thế kỉ XX qua “Việt Nam Tự Điển”...................................................... 81
3.3. Tiểu kết ........................................................................................................ 97
KẾT LUẬN................................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 101
PHỤ LỤC


4

CÁC QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BPCTN&V

Bộ phận cơ thể người và vật

CTCĐ

Cụm từ cố định

ĐNQÂTV

Đại Nam quốc âm tự vị

HĐCBN&V

Hoạt động cơ bản của người và vật


MS&MV

Màu sắc và mùi vị

NCĐĐD

Ngữ cố định định danh

TĐTV

Từ điển tiếng Việt

VNTĐ

Việt Nam Tự Điển

VNTTĐ

Việt Nam tân tự điển


5

DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Trong q trình tồn tại, mỗi ngơn ngữ có đời sống nội tại, có quá trình phát
triển riêng. Bên cạnh những nhân tố ổn định là cơ bản thì có một số hiện tượng
ngơn ngữ trở thành lạc hậu, bị mất đi, nhưng cũng có nhiều hiện tượng mới nảy
sinh, tham gia vào đời sống ngôn ngữ, làm cho diện mạo mỗi ngôn ngữ có sự biến

đổi. Q trình biến đổi của một ngơn ngữ diễn ra nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhưng trong đó, những yếu tố về xã hội, chính trị, kinh tế đóng vai trị
quan trọng. Sự biến đổi này diễn ra ở khắp các bình diện của ngôn ngữ, từ ngữ âm,
ngữ pháp, đến từ vựng, trong đó sự biến đổi về từ vựng diễn ra nhanh hơn, nhiều
hơn và dễ nhận biết hơn cả. Có thể coi đây là tiến trình tất yếu khách quan cho sự
tồn tại của ngôn ngữ. Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và
khoa học kĩ thuật là sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ, đặc biệt là sự tăng thêm
vốn từ vựng. Trong xu thế đó, việc nhìn lại những cái đã qua, rút ra những bài học,
khai thác những giá trị truyền thống, là vấn đề đang được các nhà Việt ngữ học
quan tâm. Đối với lĩnh vực từ vựng học cũng khơng nằm ngồi khuynh hướng đó.
Bởi vì “từ vựng của một ngơn ngữ vơ cùng quan trọng vì đó là cơ sở, nền tảng tối
cần cùng với cơ sở ngữ pháp, tức là quy luật tạo từ đặt câu, làm thành ngôn ngữ”
[19, tr.5].
Xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX là giai đoạn có nhiều biến động
to lớn trong lịch sử dân tộc ta. Từ một quốc gia thống nhất, độc lập thực dân Pháp
đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biến nước ta thành nước thuộc địa của
chúng; từ một xã hội phong kiến trở thành một xã hội thực dân nửa phong kiến
thuộc Pháp. Về văn hóa, đây là giai đoạn có những tiếp nhận, những tác động, ảnh
hưởng từ nền văn hóa Pháp nói riêng và văn minh, văn hóa phương Tây nói chung.
Về ngơn ngữ, có thể nói đây là giai đoạn “có sự hiện đại hóa rất rõ trong tiếng
Việt”, giai đoạn mang tính chất “bản lề”, “đang từng bước vận động hiện đại hóa để
đi vào thời kì biến đổi mạnh hơn, cao hơn sau 1945”. Trong bối cảnh đó ngôn ngữ
là yếu tố chịu sự tác động tương đối mạnh mẽ, và có thể nói từ vựng là bộ phận


6

nhạy cảm nhất trong các biến đổi ngôn ngữ. Bởi vì, từ vựng chính là “hình ảnh cuộc
sống trong giao tiếp ngôn ngữ”. Cùng với sự biến động mạnh mẽ của xã hội thì từ
tiếng Việt giai đoạn này cũng có những đặc điểm khá đặc biệt cần quan tâm.

Sự phát triển của từ vựng trong một giai đoạn lịch sử nhất định được đánh
dấu không chỉ bằng sự phát triển nhanh về số lượng từ ngữ mà quan trọng hơn là sự
biến đổi về mặt chất lượng. Mà “sự phát triển về chất lượng của từ ngữ là sự biến
đổi trong chiều sâu của từ vựng, trong đó dễ nhận thấy nhất là sự tổ chức lại hệ
thống nghĩa của từ bằng con đường biến đổi, phát triển nghĩa cũng như việc tổ
chức lại, mở rộng thêm các mô hình cấu tạo từ” [51, tr.23- 24]. Như vậy, nghiên
cứu về từ tiếng Việt nói chung, cũng như một giai đoạn cụ thể trong lịch sử thì vấn
đề đầu tiên cần phải quan tâm là hai bình diện cấu tạo và ngữ nghĩa. Đây là hai bình
diện đánh dấu rõ nhất sự phát triển của từ trong từng giai đoạn nhất định.
Số lượng từ ngữ của một ngôn ngữ cụ thể, trong một giai đoạn nhất định có
thể được coi là một trong những biểu hiện của sự phát triển và hồn thiện ngơn ngữ.
Trong việc trở lại nghiên cứu từ vựng ở một giai đoạn lịch sử nào đó, bên cạnh
những văn bản chính trị xã hội, các tác phẩm văn học lớn có giá trị thì phải nói rằng
từ điển là một minh chứng cụ thể và đầy đủ nhất. Đây là một loại sách tập hợp, tổng
hợp tri thức về ngơn ngữ và khoa học nói chung mà biểu hiện cụ thể, hiện thực là
thông qua việc tập hợp, cấu tạo, giải thích, diễn dịch những đơn vị, chất liệu ngôn
ngữ được đưa vào từ điển. Với đặc điểm như vậy nên có thể nói, tài liệu từ điển
phản ánh một số khía cạnh khá tập trung diện mạo từ vựng - ngữ nghĩa thuộc giai
đoạn mà cuốn từ điển đó được biên soạn, cơng bố. “Việt Nam Tự Điển” là cuốn từ
điển được biên soạn bằng chữ Quốc ngữ theo kiểu tường giải tiếp sau cuốn “Đại
Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của và là cuốn ra đời trong bối cảnh lịch sử
xã hội Việt Nam có nhiều biến động. Đây cũng là cuốn từ điển ra đời do “kết quả
thực tế của cuộc vận động hơ hào dùng tiếng An Nam rịng”, đồng thời cũng là cuốn
từ điển tường giải ngữ văn với một khối lượng văn liệu khá phong phú được lấy từ
các tác phẩm văn học lớn có giá trị, và từ kho tàng tục ngữ ca dao.


7

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tơi chọn đề tài

Vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX qua
“Việt Nam Tự Điển” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong lịch sử Việt ngữ học, việc nghiên cứu về từ nói chung, vấn đề cấu tạo
và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt nói riêng đã nhận được sự quan tâm của khá nhiều
các nhà nghiên cứu có tên tuổi như: Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Văn Tu, Hồ Lê, Đỗ
Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,… Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu của các
nhà Việt ngữ học nói trên chủ yếu là những giáo trình mang tính chất lí luận chung
về từ tiếng Việt chứ chưa hề đi sâu vào nghiên cứu cụ thể hai bình diện cấu tạo và
ngữ nghĩa của từ tiếng Việt trong từng giai đoạn nhất định.
Riêng về từ tiếng Việt trong nửa đầu thế kỉ XX nói chung, vấn đề cấu tạo và
ngữ nghĩa của từ tiếng Việt giai đoạn này nói riêng vẫn cịn là lĩnh vực ít được đề
cập đến, hoặc có chăng cũng chỉ là những cơng trình đề cập đến một cách chung
chung. Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua một vài cơng trình này:
Trước hết, đó là tập giáo trình “Các bài giảng về lịch sử tiếng Việt” (Thế kỉ
XX) của Đinh Văn Đức [17]. Với tư cách là một tập bài giảng về lịch sử tiếng Việt
thế kỉ XX nên tác giả đã điểm qua một vài nét về từ vựng tiếng Việt thuộc giai đoạn
này nói chung chứ khơng đi vào từng bình diện cụ thể. Tác giả chủ yếu quan tâm
đến các lớp từ có mặt trong giai đoạn này theo phạm vi sử dụng và nguồn gốc mà
không đi sâu vào vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt trong giai đoạn này.
Đặc biệt tác giả cũng không dừng lại khảo sát đầy đủ và chi tiết vốn từ vựng trong
một tác phẩm cụ thể thuộc giai đoạn nghiên cứu.
Tiếp đến là hai khóa luận tốt nghiệp: “Đặc điểm cấu tạo từ trong tiếng Việt
(Qua khảo sát một số tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt)” của Lưu Thị Hồng Mai
[49] và “Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt đầu thế kỉ XX (qua khảo sát báo Nông cổ
mín đàm” của Trịnh Thị Thơ [76]. Đây chỉ là những khảo cứu và đánh giá về vấn
đề cấu tạo từ tiếng Việt thuộc giai đoạn này trong phạm vi các tác phẩm của các nhà
văn Nam Bộ.



8

Đáng chú ý nhất phải kể đến cơng trình có tính tồn diện và hệ thống của tác
giả Lê Quang Thiêm đó là “Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì 1858 - 1945” [74].
Mục đích của cơng trình là miêu tả diện mạo từ vựng tiếng Việt trong một khoảng
thời gian dài từ 1858- 1945 nhằm đưa ra một số nhận định tương đối khái quát về
các bình diện của từ tiếng Việt giai đoạn đó. Do đó, tác giả đã chọn một thời kì dài
(gần một thế kỉ) trong lịch sử từ vựng tiếng Việt, khảo sát từ vựng trên tất cả các
văn bản chữ Quốc ngữ và trên tất cả các bình diện của từ. Cơng trình chỉ dành chưa
đầy 4 trang cho việc khảo sát và đánh giá về biểu hiện từ vựng thời kì này trong
“Việt Nam Tự Điển”. Đồng thời, ở phần khái quát đặc điểm các quá trình từ vựng
thời kì này chỉ nhắc đến từ vựng trong cuốn tự điển này với tư cách là những minh
chứng cho các quá trình này trong một khoảng thời gian dài (từ 1858 - 1945). Do
vậy, cơng trình chưa đi sâu vào nghiên cứu chi tiết và đầy đủ về hai bình diện cấu
tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX nói chung cũng như
trong cuốn “Việt Nam Tự Điển” nói riêng. Đúng như lời tác giả nói ở cuối cơng
trình: “việc làm của chúng tơi chỉ xem như là gợi ý, là đặt vấn đề” và để làm nổi bật
được các đặc điểm về cấu tạo và ngữ nghĩa cũng như những biểu hiện của từ vựngngữ nghĩa thời kì 1858 - 1945 thì cần “đi sâu hơn vào các sự kiện, biểu hiện, quy
luật nội tại của hệ thống từ vựng- ngữ nghĩa với nhiều khía cạnh cịn chưa được
khai thác khám phá. Những cơng trình đào sâu đang vẫn là niềm mong đợi, hi vọng
của chúng tơi” [sđd; tr.288-289].
Ngồi ra, liên quan đến đề tài cịn có các cơng trình [46], [60], [77]. Tuy
nhiên, đây chỉ là các cơng trình nghiên cứu về từ điển nên chỉ nhắc đến cuốn “Việt
Nam Tự Điển” ở khía cạnh từ điển học mà không đề cập đến vấn đề từ tiếng Việt
nửa đầu thế kỉ XX.
Như vậy, về vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt giai đoạn nửa đầu
thế kỉ XX và đặc biệt là khảo cứu qua “Việt Nam Tự Điển” cho đến nay chúng tơi
chưa thấy có cơng trình nào đi vào nghiên cứu một cách chi tiết và đầy đủ. Do vậy,
để đáp ứng một phần những mong mỏi mà tác giả Lê Quang Thiêm đã nói trên, trên
cơ sở những thành quả mà người đi trước đã vạch ra trên một diện rộng, chúng tôi



9

muốn dựa vào đó để đào sâu thêm bằng cách khảo sát trên một phạm vi hẹp là cuốn
“Việt Nam Tự Điển” nhằm xem xét những đặc điểm về bình diện cấu tạo và ngữ
nghĩa của từ tiếng Việt nửa đầu thế kỉ XX.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, chúng tôi đã đề ra mục đích, nhiệm vụ cụ thể và
phạm vi nghiên cứu của luận văn như sau:
3.1. Mục đích
Với đề tài trên, chúng tơi đặt ra cho mình mục đích là hướng tới việc phân
tích các loại từ xét về mặt cấu tạo và hiện tượng đa nghĩa của từ tiếng Việt trong
nửa đầu thế kỉ XX. Từ đó, đề tài góp phần đưa ra một số nhận định cụ thể về các
đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt trong giai đoạn này. Trên cơ sở đó
để góp phần làm rõ thêm về những đặc điểm chung của từ tiếng Việt thuộc giai
đoạn nghiên cứu.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đưa ra những nhiệm vụ cụ thể như
sau:
1/ Khảo sát, phân tích và đánh giá bình diện cấu tạo của từ tiếng Việt trong
nửa đầu thế kỉ XX (Qua cứ liệu của cuốn từ điển nói trên).
2/ Khảo sát, phân tích và đánh giá bình diện ngữ nghĩa của từ tiếng Việt
trong nửa đầu thế kỉ XX (Qua cứ liệu của cuốn từ điển nói trên), cụ thể: nghiên cứu
về hiện tượng đa nghĩa của từ tiếng Việt giai đoạn này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu từ tiếng Việt trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ
XX về bình diện cấu tạo và ngữ nghĩa. Cụ thể, về vấn đề cấu tạo, chúng tôi chủ yếu
tập trung xem xét các yếu tố và các phương thức cấu tạo từ tiếng Việt thuộc giai
đoạn nghiên cứu, đặc biệt tập trung xem xét nhiều hơn ở các phương thức có tính

năng sản. Về vấn đề ngữ nghĩa của từ, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu về
hiện tượng đa nghĩa của từ tiếng Việt giai đoạn này. Cụ thể, chúng tơi đi vào xem
xét hai vấn đề đó là sự phát triển nghĩa và các phương thức chuyển nghĩa cơ bản.


10

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận văn là:
4.1.1. Thủ pháp thống kê
Thủ pháp này được sử dụng để thống kê các loại từ về cấu tạo, thống kê các
đơn vị đa nghĩa và những phương thức chuyển nghĩa cơ bản trong các trường từ
vựng - ngữ nghĩa.
4.1.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả và phân tích các vấn đề về cấu tạo
và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX.
4.1.3. Thủ pháp so sánh
Thủ pháp này được sử dụng để so sánh trong những trường hợp cần thiết của
vấn đề nghiên cứu.
Thật ra trong q trình nghiên cứu chúng tơi khơng áp dụng riêng lẻ, tách rời
một phương pháp nào mà áp dụng tổng hợp các phương pháp và thủ pháp khác
nhau. Tất nhiên lúc này hay lúc khác có ưu tiên phương pháp này hoặc thủ pháp kia
hơn.
4.2. Nguồn ngữ liệu
Ngữ liệu của luận văn là các mục từ trong “Việt Nam Tự Điển”. Trong một
số trường hợp chúng tơi có bổ sung thêm nguồn ngữ liệu từ các văn bản văn học
nghệ thuật, văn bản hành chính cơng vụ,… được xuất bản trong giai đoạn này (nửa
đầu thế kỉ XX).
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài

Việc nghiên cứu từ tiếng Việt nửa đầu thế kỉ XX trên hai phương diện cấu
tạo và ngữ nghĩa qua “Việt Nam Tự Điển” có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn
như sau:
5.1. Ý nghĩa lí luận

Đề tài hy vọng, lần đầu tiên vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt
trong nửa đầu thế kỉ XX qua “Việt Nam Tự Điển” được nghiên cứu một cách tỉ mỉ


11

và hệ thống. Qua đó, nhằm góp phần làm rõ sự đa dạng về cấu tạo và ngữ nghĩa của
từ tiếng Việt trong giai đoạn này, từ đó hướng tới khái quát về đặc điểm của từ vựng
tiếng Việt trong nửa đầu thế kỉ XX. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn là
một trong những cơ cở góp phần vào việc đánh giá vị trí của các vấn đề cấu tạo và
ngữ nghĩa của từ tiếng Việt giai đoạn này trong tiến trình phát triển chung của từ
tiếng Việt.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu, giảng dạy về các lĩnh vực văn học, ngôn ngữ và những người quan tâm
đến sự phát triển của tiếng Việt nói chung.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngồi các phần như: dẫn nhập, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm ba chương:
Chương một. Những vấn đề lí thuyết cơ sở
Chương này gồm 22 trang, chúng tơi trình bày tóm tắt những vấn đề lí thuyết
cơ sở có tính chất lí luận chung như: từ, cụm từ, nghĩa của từ, trường từ vựng- ngữ
nghĩa, từ điển và tổng quan về “Việt Nam Tự Điển”.
Chương hai. Cấu tạo từ tiếng Việt trong nửa đầu thế kỉ XX qua “Việt Nam Tự
Điển”

Chương này gồm 33 trang, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại các loại
mục từ (xét về cấu tạo) trong VNTĐ qua đó nhằm rút ra một số nhận xét về đặc
điểm cấu tạo của từ tiếng Việt nửa đầu thế kỉ XX.
Chương ba. Ngữ nghĩa của từ tiếng Việt trong nửa đầu thế kỉ XX qua “Việt Nam Tự
Điển”

Chương này bao gồm 36 trang, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại các
mục từ đa nghĩa trong VNTĐ và đi vào xem xét những phương thức chuyển nghĩa
cơ bản trong các đơn vị đa nghĩa. Qua đó nhằm rút ra một số nhận xét về hiện tượng
đa nghĩa của từ tiếng Việt nửa đầu thế kỉ XX cũng như những đặc điểm ngữ nghĩa
của từ tiếng Việt giai đoạn này.


12

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT CƠ SỞ
1.1. Từ và cấu tạo từ
1.1.1. Định nghĩa từ
Từ là đơn vị trung tâm, cơ bản của hệ thống ngơn ngữ. Chính vì vậy, trong
Việt ngữ học nói riêng cũng như ngơn ngữ học nói chung việc nghiên cứu về từ đã
thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Riêng về từ đã có hơn 200 định
nghĩa khác nhau. Điều này trước hết bởi vì từ là đơn vị trung tâm của hệ thống ngơn
ngữ, và sau đó từ là đơn vị có tính phức tạp, tính khơng thuần nhất, tính đa diện
trong các ngơn ngữ khác nhau, cũng như trong một ngơn ngữ; đồng thời nó là đơn
vị của nhiều phương diện trong ngôn ngữ nên được tiếp cận với cách nhìn đa
phương diện khi khảo cứu của các nhà ngữ học. Do đó, cho dù có một điểm chung
là các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận sự tồn tại của từ trong ngôn ngữ và đều
mong muốn tìm được một định nghĩa chung về từ, tuy nhiên, trên thực tế từ là một
vấn đề vô cùng phức tạp mà cho đến nay vẫn chưa có được sự thống nhất triệt để về

định nghĩa. Ngay từ thời xa xưa nhà ngôn ngữ học F.de.Saussure đã từng viết: “…từ
là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng của chúng ta như một cái gì đó trung tâm
trong tồn bộ cơ cấu ngôn ngữ, mặc dù khái niệm này rất khó định nghĩa” [dẫn
theo 19, tr.21]. Cịn A.Sapir thì: “Từ là một đoạn nhỏ nhất có ý nghĩa, hồn tồn có
khả năng độc lập và bản thân có thể làm thành câu tối giản” [63, tr.42]. Nhà ngôn
ngữ học người Pháp A. Meillet định nghĩa: “Từ được xác định bởi sự liên kết một ý
nghĩa nhất định với một tập hợp âm nhất định, có khả năng được dùng ở một đặc
điểm ngữ pháp nhất định” [dẫn theo 8, tr.246]. Nhà ngơn ngữ học người Mĩ L.
Bloomfield thì cho rằng: “Từ là hình thái tự do nhỏ nhất” [7, tr.166]. Cùng hướng
quan niệm như vậy, V.B. Kasevich trong [39] sau khi định nghĩa, đã đưa ra 3 tiêu
chí cơ bản để xác định từ: 1/ Từ có một độ độc lập nhất định, 2/ Từ có tính tồn vẹn
bên trong và 3/ Từ có khả năng có quan hệ cú pháp độc lập. Quan điểm này của
Kasevich được các tác giả ở Việt Nam như Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Kim Thản,
Hoàng Tuệ, Nguyễn Thiện Giáp, Đái Xuân Ninh, Đỗ Hữu Châu, Hồ Lê… phát


13

triển, cụ thể hoá và được các tác giả của cơng trình “Cơ sở ngơn ngữ học và tiếng
Việt” đúc kết lại như sau: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngơn ngữ được vận
dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu” [sđd, tr.136]. Trong
luận văn này, để làm cơ sở cho việc nghiên cứu chúng tôi tán thành quan niệm về từ
trong cơng trình này.
Trong tiếng Việt, ngồi từ cịn có các đơn vị khác được dùng làm cơ sở để
tạo ra câu đó là cụm từ cố định. Theo các tác giả Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu Hồng Trọng Phiến thì: “Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại; tồn tại với
tư cách một đơn vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định
như từ” [10, tr.153]. Nếu so sánh từ ghép và cụm từ cố định, chúng sẽ có những
điểm giống và khác nhau như sau:
1/ Điểm giống nhau:
- Hình thức chặt chẽ, cấu trúc cố định.

- Tính thành ngữ.
- Những đơn vị làm sẵn trong ngôn ngữ.
2/ Điểm khác nhau:
- Thành tố cấu tạo của từ ghép là hình vị và thành tố cấu tạo của cụm từ cố
định là từ.
- Nghĩa của cụm từ cố định được tổ chức theo lối tổ chức nghĩa của cụm từ
và nói chung là mang tính hình tượng. Do đó, nếu căn cứ vào nghĩa của từng thành
tố cấu tạo thì khơng thể hiểu được nghĩa đích thực của tồn cụm từ. Đối với từ ghép
thì nghĩa định danh, dù trực tiếp hay gián tiếp đều theo kiểu tổ chức nghĩa của từ, là
điểm cốt lõi của từ.
Nếu so sánh với cụm từ tự do thì cụm từ cố định là một đơn vị của hệ thống
ngôn ngữ, ổn định và tồn tại dưới dạng làm sẵn. Và vì dưới dạng làm sẵn nên thành
tố cấu tạo cụm từ cố định có số lượng ổn định. Trong khi đó cụm từ tự do được tạo
ra trong lời nói và thành tố cấu tạo có thể thay đổi tùy ý.
Theo quan điểm phân loại của các tác giả Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu Hoàng Trọng Phiến trong [10] thì cụm từ cố định tiếng Việt có thể tóm tắt như sau:


14

Cụm từ cố định

Ngữ cố định

Quán ngữ

Thành ngữ

Ngữ cố định định danh

1.1.2. Cấu tạo từ

1.1.2.1. Đơn vị cấu tạo từ
Trong các tài liệu về ngôn ngữ học đại cương, các nhà ngôn ngữ học đều
thống nhất với nhau rằng từ được cấu tạo từ các hình vị, nghĩa là các thành tố trong
từ là hình vị. Vì vậy ở đây cần làm rõ khái niệm hình vị. Hình vị là đơn vị ngơn ngữ
nhỏ nhất có nghĩa. Vậy, có hai tiêu chí để xác định hình vị: tính nhỏ nhất (về hình
thái) và tính có nghĩa [39, tr.84].
“Hình vị là đơn vị ngơn ngữ nhỏ nhất có nghĩa và/hoặc có giá trị (chức
năng) về mặt ngữ pháp” [10, tr.138].
Theo chúng tơi, trong tiếng Việt có 4 loại hình vị sau đây:
1/ Có nghĩa từ vựng, có thể vận dụng độc lập, ví dụ: bàn, ghế, nhà, cửa,
sách, hút, xanh, đỏ, chạy, nhảy,…
2/ Có nghĩa ngữ pháp, có thể vận dụng độc lập, ví dụ: đã, đang, sẽ, cũng,
vẫn, cứ,….
3/ Có nghĩa từ vựng, khơng thể vận dụng độc lập, ví dụ: quốc, gia, hải, phận,
trừu, tượng, ảm (ảm đạm), bàng (bàng hồng), cúc (cung cúc), các (đài các),…
4/ Có nghĩa ngữ pháp, khơng thể vận dụng độc lập, ví dụ: đẽ (đẹp đẽ), sẽ
(sạch sẽ), đai (đất đai), cộ (xe cộ), pheo (tre pheo),…
Ngoài ra, đối với các từ vay mượn đa tiết, gốc Ấn - Âu thì hình vị khơng có
vỏ ngữ âm là âm tiết; nó có thể bằng, nhỏ hơn hoặc lớn hơn âm tiết. Ví dụ: Các từ xi
măng, cà phê, a xít, apatit,… thì hình vị trong các từ này khơng có vỏ ngữ âm là âm
tiết.


15

1.1.2.2. Phương thức cấu tạo từ
Từ trong các ngôn ngữ được cấu tạo bằng một số phương thức khác nhau.
Nói khác đi, người ta có những cách khác nhau trong khi sử dụng các hình vị để tạo
từ. Ở đây, chúng tôi chấp nhận quan điểm cho rằng trong tiếng Việt có các phương
thức cấu tạo chủ yếu sau:

1/ Từ hố hình vị: Đây là phương thức cấu tạo thể hiện trong các trường hợp
từ chỉ có một hình vị hay “cấp cho hình vị cái tư cách đầy đủ của một từ” – như
cách nói của các tác giả “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” [sđd, tr.40]. Ví dụ:
sách, bút, chạy, nhảy, xanh, đỏ,… (tiếng Việt), woman, foot, table, at, on, it, of,…
(tiếng Anh), đây, tức, phle, kôn,… (tiếng Khmer)
2/ Phương thức ghép: Đây là phương thức ghép hai hoặc nhiều hình vị căn tố
lại với nhau để tạo từ. Phương thức ghép có hai loại nhỏ: ghép đẳng lập (ví dụ: nhà
cửa, cha mẹ, ruộng vườn,…; trong tiểu loại này được chia thành 4 kiểu: ghép đẳng
lập hợp nghĩa (như: sông núi, sách vở, chạy nhảy, giày dép,…), ghép đẳng lập đẳng
nghĩa (lặp nghĩa) (như: cấp bậc, binh lính, đợi chờ, nghỉ ngơi, sức lực,…), ghép
đẳng lập đơn nghĩa (vì một thành tố trong từ ghép loại này bị mờ hoặc mất nghĩa)
(như: gà qué, bếp núc, chợ búa, tre pheo, chùa chiền, cá mú, áo xống,…), ghép
đẳng lập trái nghĩa (như: to nhỏ, lớn bé, dài ngắn, trước sau, trên dưới, đỏ đen,…);
ghép phụ: chính loại này có 2 kiểu nhỏ: chính phụ dị biệt (như: hoa hồng, xe lửa,
sân bay, đường sắt, vôn kế, ampe kế,…), chính phụ sắc thái hố (như: xanh lè, đỏ
choét, cao nhòng, dài ngoằng,…)
3/ Phương thức láy: Thực chất của phương thức này là lặp lại toàn bộ một
phần của từ, hình vị ban đầu trong một số lần nào đó theo quy tắc cho phép để cho
một từ mới. Dựa vào phương thức láy, có hai loại: láy hồn tồn (gồm láy hồn tồn
chân chính, như: đa đa, cào cào, thanh thanh, tà tà ,đùng đùng,…; và láy hồn tồn
khơng chân chính, như: bươm bướm, đu đủ, cồng cộc, bần bật,…) và láy bộ phận
(gồm láy phụ âm đầu, như: sạch sẽ, đẹp đẽ, gọn gẽ,…; và láy phần vần, như: linh
tinh, loanh quanh, luẩn quẩn,…). Dựa vào số lượng âm tiết, chúng ta có láy đơi
(như: nho nhỏ, nao nao, khít khịt,…), láy ba (như: khít khìn khịt, sạch sành sanh,


16

mõm mịm mom,…), láy tư như: khít khịt khìn khin, vội vội vàng vàng, kề rề kề
rà,…).

4/ Phương thức ngẫu kết: Đây là phương thức cấu tạo từ được tạo ra giữa các
thành tố khơng có quan hệ với nhau về nghĩa, cũng khơng có quan hệ với nhau về
âm. Đây là phương thức tạo từ bằng cách vay mượn từ của các ngôn ngữ châu Âu là
chủ yếu. Cách gọi ngẫu kết có nghĩa là các thành tố ngẫu nhiên kết hợp với nhau. Ví
dụ: a xít, cà phê, ghi đông, apatit, ampicillin,…
5/ Phương thức chuyển từ loại: Là phương thức dùng từ có vỏ ngữ âm như
nhau nhưng lại biểu thị ý nghĩa từ vựng – ngữ pháp khác nhau. Trong nhóm từ
thuộc phương thức chuyển loại thì ý nghĩa từ vựng của chúng vẫn có mối liên hệ
nhất định giữa “sự vật” và hành động, tính chất của chúng. Từ chuyển loại khác từ
đồng âm. Hai từ được xem là đồng âm khi chúng có vỏ ngữ âm như nhau nhưng ý
nghĩa từ vựng lại hoàn toàn khác nhau, khơng có mối liên hệ gì (đường ăn và đường
đi). Ví dụ từ chuyển loại: cái cày (danh từ) -> cày (động từ), sơn (danh từ) -> sơn
(động từ), cái bừa (danh từ) -> bừa (động từ), cái chài (danh từ) -> chài (động
từ),...
1.1.2.3. Phân loại từ về cấu tạo
Nhìn chung khi phân loại từ theo phương thức cấu tạo phần lớn các nhà
nghiên cứu thường dùng các tiêu chí sau đây:
- Sự đồng nhất và khác biệt về phương thức cấu tạo.
- Sự đồng nhất nhất và khác biệt về hình vị, chủ yếu là về tính độc lập hay
khơng độc lập, về tính từ loại của hình vị.
- Sự đồng nhất và khác biệt về quan hệ cú pháp giữa các hình vị.
Nhưng do cách hiểu về phương thức, về tính chất hình vị và về quan hệ giữa
các hình vị khác nhau, cho nên các kết quả phân loại cũng khác nhau. Trong luận
văn này chúng tơi đồng tình với cách phân loại trong cơng trình [10], với kết quả
phân loại như sau:


17

1/ Từ đơn: Là những từ được cấu tạo bằng một tiếng (âm tiết). Từ đơn là

những tiếng có nghĩa: nghĩa từ vựng như: ăn, học, đi, tốt, xấu, ngồi, nhà, vở,
báo,…nghĩa ngữ pháp: hãy, chớ, còn, và, nhỉ, hoặc,…
2/ Từ ghép: Là những từ mà thành phần cấu tạo của nó là sự tổ hợp các tiếng
(âm tiết) có quan hệ về nghĩa lại với nhau. Có hai loại từ ghép:
a) Từ ghép đẳng lập: Là những từ mà các thành tố cấu tạo có quan hệ bình
đẳng với nhau về nghĩa. Ở đây có thể lưu ý tới hai khả năng:
Thứ nhất, các thành tố cấu tạo trong từ đều rõ nghĩa. Khi dùng mỗi thành tố
như vậy để cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các thành tố này không
trùng nhau.
So sánh: ăn # ăn ở # ăn nói # ở # nói…
Thứ hai, một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với một thành tố không rõ nghĩa.
Trong hầu hết các trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa này ban đầu vốn rõ
nghĩa nhưng về sau bị bào mòn dần ở các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm
tịi từ nguyên và lịch sử, người ta thường xác định được nghĩa của chúng. Ví dụ:
chợ búa, bếp núc, đường sá, tre pheo, cỏ rả, sầu muộn, chó má, gà qué, cá mú, xe
cộ, áo xống,…
Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây là một trong
những điểm làm cho nó khác với các từ ghép chính phụ.
b) Từ ghép chính phụ: Là những từ ghép mà có thành tố cấu tạo này phụ
thuộc vào thành tố cấu tạo kia. Thành tố phụ có vai trị phân loại, chuyên biệt hóa
và sắc thái hóa cho thành tố chính. Ví dụ: tàu hỏa, đường sắt, sân bay, hàng không,
nông sản, cà chua, máy cái, dưa hấu, cỏ gà, xấu bụng, tốt mã, lão hóa, xanh lè, đỏ
rực, ngay đơ, thẳng tắp, sưng vù,…
3/ Từ láy: Là những từ mà thành phần cấu tạo của nó là sự tổ hợp các tiếng
(âm tiết) trên cơ sở sự hòa phối ngữ âm (còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm).
Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng và tối đa là bốn tiếng và cịn
có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và phương
thức láy của tiếng Việt.



18

Kết hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy như sau:
a) Từ láy đơi (gồm có hai tiếng) có các dạng cấu tạo như sau:
- Láy hồn tồn, loại này có thể chia thành 3 lớp nhỏ hơn:
+ Lớp những từ láy hồn tồn chỉ đối nhau ở trọng âm, ví dụ: cào cào, ba ba,
châu chấu, rề rề, lăm lăm, khăng khăng, lù lù,…
+ Lớp những từ láy hoàn toàn đối nhau ở thanh điệu, ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây
hẩy, hau háu, hơ hớ, ngay ngáy, phơi phới, sừng sững,…
+ Lớp những từ láy hoàn toàn đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối
theo quy luật dị hóa, ví dụ: ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, chan chát, khin khít, thơn
thớt, khang khác, vằng vặc, rừng rực, anh ách, chênh chếch,…
- Láy bộ phận: Đó là những từ láy chỉ có điệp ở phần âm đầu, hoặc điệp ở
phần vần. Căn cứ vào đó có thể chia loại từ láy này thành hai lớp:
+ Lớp từ láy (điệp) âm đầu, đối ở phần vần, ví dụ: bập bềnh, cò kè, ho he,
thơ thẩn, đẹp đẽ, làm lụng,…
Trong lớp từ này có hiện tượng đối ứng ở âm chính. Ví dụ:
u - i: cũ kĩ, hú hí, xù xì, tủm tỉm,…
ơ - ê: ngơ nghê, xồ xề, hổn hển,…
o - e: ho he, vo ve, khò khè, thỏ thẻ,…
+ Lớp từ láy phần vần, đối ở âm đầu, ví dụ: bâng khuâng, bơ vơ, lù đù, lã
chã, lảng vảng, lúng túng,…
b) Từ láy ba và từ láy tư
Được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy hai tiếng. Tuy vậy, từ láy 3
tiếng dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ yếu. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, dửng
dừng dưng, đủng đà đủng đỉnh, lôi thôi lếch thếch, linh ta linh tinh,…
4/ Từ ngẫu hợp:
Ngồi ra, trong tiếng Việt cịn có một lớp từ mà giữa các thành tố cấu tạo của
chúng không có quan hệ gì về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Chúng được gọi là các từ
ngẫu hợp (các tiếng tổ hợp với nhau một cách ngẫu nhiên). Ví dụ: bồ hóng, bồ hịn,

bồ kết, bồ câu, cà cuống, cà kê,…


19

Về lớp từ này, có nhiều ý kiến khác nhau. Một vài tác giả đã xếp nó vào từ
đơn và cho rằng để chúng trong từ đơn chẳng những không ảnh hưởng đến nguyên
tắc phân loại mà còn phù hợp với đặc điểm hoạt động hiện nay của chúng [8]. Tuy
nhiên, cũng có một số tác giả xếp lớp từ này là một bộ phận của từ phức [6]. Trong
phạm vi luận văn này, chúng tôi cũng đồng ý với ý kiến thứ hai: xếp lớp từ ngẫu
hợp thuộc từ phức. Lớp từ này có thể bao gồm:
+ Những từ gốc thuần Việt: bồ câu, bồ hịn, bồ nơng, bồ hóng,…
+ Những từ vay mượn gốc Hán (hoặc phiên âm qua âm Hán – Việt) thông
qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ (trong số này có những từ mà từng thành tố
của chúng trước đây vốn rõ nghĩa nhưng nay khơng được người Việt nhận thức
nữa). Ví dụ: mâu thuẫn, hy sinh, trường hợp, mì chính,…
+ Những từ vay mượn gốc Ấn - Âu qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ
như: axít, míttinh, sơmi, mùi xoa, xà phịng, cao su, ca cao,…cũng có thể được xếp
vào đây.
Từ những điều trên, có thể đưa ra một sơ đồ phân loại từ trong tiếng Việt như
sau:
Từ tiếng Việt

Từ đơn

Từ phức

Từ ghép

Đẳng lập


Từ láy

Chính phụ

Láy 2

Láy hồn tồn

Từ ngẫu hợp

Láy 3

Láy 4

Láy bộ phận

Láy âm đầu

Láy vần


20

1.2. Nghĩa của từ, trường từ vựng- ngữ nghĩa
1.2.1. Nghĩa của từ
Tương tự như định nghĩa về từ, có nhiều quan điểm khác nhau về nghĩa của
từ. Ở đây do điều kiện khơng cho phép nên chúng tơi khơng trình bày lại những
quan điểm khác nhau về nghĩa của từ. Trong luận văn này chúng tôi chấp nhận quan
điểm về nghĩa của từ của các tác giả trong cơng trình [10] để làm cơ sở cho quá

trình nghiên cứu. Vậy “nghĩa của từ là những liên hệ được xác lập trong nhận thức
của chúng ta giữa từ với những cái mà nó (từ) chỉ ra (những cái mà nó làm tín hiệu
cho) [sđd, tr.167]. Tuy nhiên, đó khơng phải là những liên hệ lôgic - thực tại mà là
liên hệ phản ánh, mang tính quy ước, được xây dựng bởi những cộng đồng người
bản ngữ. Đó là sự phản ánh các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, trạng thái,…(gọi tắt
chung là các sự vật) vào nhận thức của chúng ta, dưới dạng một tập hợp của những
đặc điểm thuộc tính được coi là đặc trưng nhất, bản chất nhất, đủ để phân biệt sự vật
này với sự vật khác. “Nghĩa của từ tồn tại trong từ; nói rộng hơn là trong hệ thống
ngơn ngữ” [10, tr.168]. Tức là, nó là cái phần nửa làm cho ngơn ngữ nói chung và
từ nói riêng, trở thành những thực thể vật chất - tinh thần.
Khi nói về nghĩa của từ, người ta thường phân biệt các thành phần nghĩa sau
đây:
- Nghĩa biểu vật (referential meaning): là sự quy chiếu của từ vào sự vật
(hoặc hiện tượng, thuộc tính, hành động,…) mà nó làm tên gọi.
- Nghĩa biểu niệm (conceptual meaning): chính là sự phán ánh các đặc trưng,
thuộc tính được coi là bản chất nhất của sự vật vào trong ý thức của con người.
Ngoài hai thành phần nghĩa trên đây, khi xác định nghĩa của từ, người ta còn
phân biệt hai thành phần nghĩa nữa, đó là nghĩa ngữ dụng và nghĩa cấu trúc.
1.2.2. Cơ cấu nghĩa của từ
Một từ có thể đơn nghĩa hoặc đa nghĩa. Tính đa nghĩa của ngơn ngữ ở cấp độ
từ thể hiện qua từ đa nghĩa. Quan hệ đa nghĩa là một trong những dạng quan trọng
nhất thuộc các kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong từ. Có thể có một số quan niệm khác


21

nhau về từ đa nghĩa, tuy nhiên trong luận văn này chúng tơi đồng tình với định
nghĩa về từ đa nghĩa của các tác giả cuốn [10] như sau:
“Từ đa nghĩa là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc
tính khác nhau của một đối tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của

thực tại” [sđd, tr.172].
Các nghĩa của từ đa nghĩa được xây dựng và tổ chức theo những cách thức,
trật tự nhất định. Vì vậy, người ta cũng có thể phân loại chúng theo những lưỡng
phân sau:
 Nghĩa gốc - nghĩa phái sinh
 Nghĩa tự do - nghĩa hạn chế
 Nghĩa trực tiếp - nghĩa chuyển tiếp
 Nghĩa thường trực - nghĩa không thường trực
Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của từ, trong ngơn ngữ có nhiều cách.
Tuy nhiên, có hai cách quan trọng nhất thường gặp trong các ngôn ngữ là chuyển
nghĩa ẩn dụ (metaphor) và chuyển nghĩa hoán dụ (metonymy)
“Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc
hiện tượng được so sánh với nhau” [19, tr.162]. Ví dụ: bàn chải, bàn chân, bàn
đạp, bàn cuốc, cánh đồng, mũi thuyền, đầu làng,…
“Hoán dụ là hiện tượng chuyển tên gọi từ sự vật hoặc hiện tượng này sang
sự vật hoặc hiện tượng khác dựa trên một mối quan hệ lôgic giữa các sự vật hoặc
hiện tượng ấy” [19, tr.165]. Ví du: cả thành phố vui vẻ, cả nhà đang ăn cơm, cây
bút trẻ, một tay súng, có chân trong hội đồng, những bậc tai mắt của thành phố, có
vai vế trong làng, …
Như vậy, ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa dựa trên quan hệ tương đồng
giữa các sự vật, hiện tượng; còn hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa dựa trên
quan hệ gần gũi nhau giữa các sự vật hiện tượng. Trong tiếng Việt hai phương thức
này được sử dụng rất phổ biến.


22

1.2.3. Trường từ vựng- ngữ nghĩa
“Trường” là một thuật ngữ chuyên môn mượn của các ngành khoa học tự
nhiên. Nhà ngơn ngữ học có cơng đầu tiên trong việc đưa ra khái niệm “trường” và

vận dụng nó vào việc nghiên cứu hệ thống từ vựng- ngữ nghĩa là M.M. Pokrovski nhà ngơn ngữ học người Nga (1890). Ơng đã gắn hệ thống biểu tượng giống nhau
với các hệ thống của hiện tượng đời sống xã hội và kinh tế (công cụ lao động). Từ
đó ơng chia kiểu trường dựa trên cơ sở sử dụng đồng thời ba tiêu chuẩn:
 Nhóm nội dung, gồm các từ có quan hệ dùng.
 Hiện tượng đồng nghĩa.
 Quan hệ hình thái học.
Kế đến trong công việc nghiên cứu trường nghĩa là nhà ngôn ngữ học người
Đức J. Trier. Với cơng trình đầu tiên của ông là “Trường từ vựng và trường khái
niệm” (1931). Ông quan niệm trường “là những thực thể ngôn ngữ tồn tại giữa
những từ cá biệt và từ vựng”. Chúng là bộ phận của một tổng thể; giống từ ở chỗ
kết hợp với nhau tạo thành một loại đơn vị cao hơn và giống từ vựng ở chỗ (kết hợp
với nhau) tự chia mình thành những đơn vị nhỏ hơn.
Ở Việt Nam, vấn đề này phải kể đến Đỗ Hữu Châu, ơng đã cơng bố cơng
trình đầu tiên về lí thuyết trường vào năm 1973. Theo Đỗ Hữu Châu (1991) thì
trường ngữ nghĩa là một khái niệm trong từ vựng học. Tính hệ thống của từ vựng
thể hiện qua những tiểu hệ thống trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các
từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa giữa chúng.
Mỗi tiểu hệ thống là một trường ngữ nghĩa. Đó là một tập hợp từ đồng nhất với
nhau về ngữ nghĩa. Ở một góc độ khác, người ta lại chia hệ thống từ vựng thành
những tập hợp từ vựng có sự đồng nhất ngữ nghĩa xét theo một phương diện nào
đấy để phát hiện ra tính hệ thống và và cấu trúc của hệ thống từ vựng về mặt ngữ
nghĩa, đó là các trường từ vựng - ngữ nghĩa. Các từ trong cùng một trường ln có
quan hệ ý nghĩa với nhau và quan hệ này vừa là cơ sở để xác lập trường vừa có tác
dụng liên kết các đơn vị từ vựng trong một trường từ vựng - ngữ nghĩa. Trường từ
vựng - ngữ nghĩa đặt cơ sở trên sự phân định hiện thực của tư duy hay còn gọi là


23

phân đoạn thực tại. Như vậy, sự phân chia trường từ vựng – ngữ nghĩa thực ra là

dựa trên sự phân chia khái niệm của tư duy. Về cấu trúc, trong một trường từ vựng
ngữ nghĩa có thể có các tiểu nhóm, gọi là các tập hợp từ vựng hay là tiểu trường.
Giữa các trường nghĩa có phần giao thoa, đó là phần chung về mặt khái niệm. Trong
phần chung này thường chứa những từ đa nghĩa. Về tư cách của từ trong trường
nghĩa thì một từ có thể thuộc một trường từ vựng – ngữ nghĩa này nhưng cũng đồng
thời có thể thuộc một trường từ vựng – ngữ nghĩa khác. Dựa trên quan hệ tuyến tính
và quan hệ trực tuyến của F.de.Saussure, Đỗ Hữu Châu chia trường nghĩa ra làm hai
loại: trường nghĩa ngang (hay còn gọi trường tuyến tính) và trường nghĩa dọc (cịn
gọi là trường trực tuyến). Trong trường nghĩa dọc thì được chia thành trường biểu
vật và trường biểu niệm.
1.3. Vấn đề từ điển và tổng quan về “Việt Nam Tự Điển”
1.3.1. Từ điển là gì?
Thơng thường khi nhắc đến từ điển người ta thường hiểu một cách giản đơn
là từ điển là loại sách để tra cứu các từ. Nhưng thực ra trong từ điển thường khơng
phải chỉ thu thập các từ, có khi cịn có cả những đơn vị lớn hơn hoặc nhỏ hơn từ,
như các cụm từ cố định (thành ngữ, ngữ định danh,…), các yếu tố tạo từ. Hiểu một
cách chính xác và ngắn gọn nhất thì:“Từ điển là cơng cụ để tra cứu, ở đó gồm có từ
vựng của ngơn ngữ được sắp xếp theo một trật tự nhất định” [95, tr.10].
Các chức năng cơ bản của từ điển là cung cấp thông tin, phục vụ giao tiếp,
hướng dẫn - giáo dục ngơn ngữ, góp phần chuẩn hóa ngơn ngữ và phục vụ nghiên
cứu. Để thực hiện các chức năng này, từ điển có những đặc điểm riêng, khác biệt
với các loại sách khác:
- Là công cụ để tra cứu do đó từ điển khơng sắp xếp theo từng chương mục
như các sách khác mà được sắp xếp mỗi mục độc lập với nhau. Mỗi quyển từ điển
thường được sắp xếp theo một trật tự nhất định nào đấy dễ tra cứu.
- Tính khách quan: các mục từ và hệ thống những lời giải nghĩa, ví dụ trong
từ điển là những bằng chứng khoa học không thể dựa vào ý kiến chủ quan của một
người cụ thể nào đó.



24

- Cung cấp các thông tin như: thông tin về ngữ âm, chính tả, từ pháp, tính
bách khoa,…
- Cấu trúc: bao gồm các cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mơ.
1.3.2. Phân loại từ điển
Có nhiều cách phân loại khác nhau về từ điển, nhưng về đại thể có thể phân
thành hai loại lớn là Từ điển bách khoa và từ điển ngôn ngữ. Trong từ điển ngôn
ngữ lại phân tiếp thành từ điển song ngữ (hoặc đa ngữ) và từ điển đơn ngữ. Từ điển
đơn ngữ gồm có từ điển đầy đủ và từ điển có hạn. Từ điển có hạn gồm nhiều loại
nhỏ như từ điển giải thích, từ điển đồng nghĩa, trái nghĩa, từ điển đồng âm, ... Có
thể hình dung sự phân loại từ điển một cách sơ giản qua sơ đồ sau:
Từ điển

Từ điển bách khoa

Từ điển ngôn ngữ

TĐ song ngữ

TĐ đầy đủ

TĐ đơn ngữ

TĐ có hạn

1.3.3. Từ điển giải thích
Cấu trúc chung của mọi loại từ điển, khác hẳn với các sách khác, là từ điển
có cấu trúc đơi, có tính hệ thống chặt chẽ. Các mục từ trong một quyển từ điển được
sắp xếp theo một trật tự nhất định, mỗi mục từ là một đơn vị độc lập, có nội dung

riêng biệt. Cấu trúc của từ điển giải thích vào loại đa dạng và phức tạp nhất trong
các loại từ điển. Lí luận từ điển học hiện đại đã có một bước ngoặt đáng kể với các
khái niệm cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô mà J. Rey Debove đưa ra. Cấu trúc vĩ
mơ hay cịn gọi là cấu trúc bảng từ: các mục từ trong từ điển giải thích phải được
thu thập theo những tiêu chí nhất định, tạo thành một bảng từ có cấu trúc chặt chẽ,
có tính hệ thống, đảm bảo sự nhất quán. Cấu trúc vi mơ hay cịn gọi là cấu trúc mục


×