Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

CƠ sở lý LUẬN về CÔNG tác CHỦ NHIỆM lớp ở các TRUNG tâm GDNN GDTX NGOẠI THÀNH hà nội THEO HƯỚNG tự QUẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.68 KB, 46 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
Ở CÁC TRUNG TÂM GDNN-GDTX NGOẠI THÀNH
HÀ NỘI THEO HƯỚNG TỰ QUẢN
Tổng quan nghiên cứu
Trong GD, đội ngũ giáo viên là nhân tố quan trọng
quyết định chất lượng của GD toàn diện, họ mang trên mình
trọng trách đào tạo thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất
nước.
Trong Trung tâm GDNN - GDTX, vai trò của giáo
viên chủ nhiệm rất quan trọng đối với việc hình thành và
phát triển nhân cách học sinh, cũng như trong các hoạt động
GD của trung tâm.
Công tác chủ nhiệm lớp là công việc tốn nhiều thời
gian, công sức của người giáo viên chủ nhiệm lớp. Đòi hỏi
người GVCN phải tâm huyết với sự nghiệp trồng người, có
năng lực và lịng nhiệt tình. Sự tiến bộ và trưởng thành của
từng tập thể lớp chính là sự phát triển của trung tâm cũng
như của đội ngũ GV, đặc biệt là GVCN. Họ là linh hồn của
lớp học, là nhạc trưởng trong bản giao hưởng hình thành và
phát triển nhân cách học sinh. Khi nhắc đến công tác
GVCNL có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, tài liệu đã đề
cập đến cả ở trong nước và ngoài nước.


Ở nước ngoài
Ngay từ những năm nửa cuối của thế kỷ XX các nhà khoa
học Xô Viết đã để tâm đến tầm quan trọng và vai trị của cơng
tác chủ nhiệm lớp ở các cơ sở giáo dục và các trường phổ
thông. Các tác giả như O.A.Abdullina,Ph.N.Gônôbôlin,
V.A.Petroovxki,


N.I.

Sabaeva,

V.A.

Cruchetxki,

X.I.Kixegof,N.V.Cudơminna, M.I.Đôpbrưnhin và I.C Baranơp
đã quan tâm và có nhiều cơng trình nghiên cứu về phương pháp
hoạt động của GVCN, công tác chủ nhiệm lớp, nội dung, vai
trò, về đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.
Trong tác phẩm “Phương pháp công tác chủ nhiệm
lớp” ( NXB GD Maxcova- 1984)Bon dư rep N.I đã đưa ra
các phương pháp cơ bản trong việc thực hiện công tác công
tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông.
Trong báo cáo (1996) với tiêu đề “Học tập- Một kho
báu tiền ẩn” của UNESCO đã cho thấy vấn đề giáo dục suốt
đời được xem như một việc học tập dựa vào bốn trụ cột lớn:
Học để biết, Học để làm, Học để cùng chung sống, Học để
cùng tồn tại. Đây cũng là một định hướng cơ bản cho giáo
dục học sinh ở tất cả các nhà trường.
Trên cơ sở các định hướng nêu trên, các nước trên thế
giới đã chỉ ra toàn bộ những nội dung giáo dục cho các em
đều liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp như là; giáo dục


hướng nghiệp; giáo dục để nhận biết giá trị sống; giáo dục
kỹ năng sống. Tài liệu tập huấn kỹ năng tham vấn cơ bản
(2005) của UNICEF đưa những cách tham vấn cho học sinh.

Đây là định hướng cho GVCN lớp cần tổ chức các hoạt động
khác nhau đểhọc sinh có thể tham gia và học được nhiều
điều bổ ích.
Những cơng trình nghiên cứu của các tác giả trên, có
giá trị to lớn về mặt phương pháp luận để ứng dụng vào thực
tiễn và được các thế hệ tiếp theo kế thừa và phát triển.
Ở trong nước
Khi nhắc đến công tác của người GVCNL ở nước ta có
rất nhiều tác giả bàn về vấn đề này như là: Bùi Thị Mùi
(2005) nghiên cứu về: "Tình huống sư phạm trong cơng tác
giáo dục học sinh trung học phổ thông" [20]; đã chỉ ra rất rõ
các tình huống sư phạm mà GVCN gặp phải trong quá trình
giáo dục học sinh, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Trúc Lâm
(2005) nghiên cứu về: "Ứng xử sư phạm" [23]; các tác giả
đưa ra các cách xử lí các tình huống gặp phải trong cơng
việc giảng dạy cũng như trong công tác CNL; Bùi Văn Huệ
(2004) nghiên cứu về: "Nghệ thuật ứng xử sư phạm" [16];
Nguyễn Dục Quang (2000) nghiên cứu về: "Những tình
huống giáo dục học sinh của người giáo viên chủ nhiệm"
[38]; Hà Nhật Thăng (1998): "Thực hành tổ chức hoạt động


giáo dục" [43]; Nguyễn Đình Chỉnh với nghiên cứu:
"Chuẩn bị cho sinh viên làm công tác giáo dục ở trường phổ
thơng" [6]; và cịn nhiều các nghiên cứu khác về chủ đề này.
Tác giả đã bàn về phương pháp, nội dung công tác chủ
nhiệm lớp, những vấn đề xây dựng tập thể lớp học, quản lý
giáo dục học sinh, cũng như chức năng , nhiệm vụ, vai trò
của người giáo viên chủ nhiệm lớp… những cơng trình
nghiên cứu này có tính lý luận cơ bản để bồi dưỡng giáo

viên, thực hiện các chương trình đào tạo trong các trường sư
phạm.
Nghiên cứu về cơng tác chủ lớp, tác giả Nguyễn
Thanh Bình với cơng trình “Cơng tác chủ nhiệm lớp ở
trường phổ thông ”- đề tài mã số SPHN- 09-465. NVSP2010. “Một số vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở
trường phổ thông hiện nay” ( NXB ĐHSP.2011) bàn về
những vấn đề cốt lõi của công tác chủ nhiệm lớp, những nội
dung của cơng tác chủ nhiệm lớp từ góc nhìn của chuẩn
nghề nghiệp
Các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý công tác chủ
nhiệm lớp được đề cập trong nhiều hội thảo về chủ đề công
tác chủ nhiệm lớp như: 24/10/2009 tại Đại học Tây Bắc,
ngày 26-27/8/2010 tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày
14/10/2010 tại Đại học Hải Phịng…, hội thảo phân tích các


vấn đề ở nhiều khía cạnh, góc độ quản lý bậc học, ngành
học. Ở các trường trong hệ thống GD các cấp học đã và
đang vận dụng nhiều kết quả nghiên cứu, nhiều cơng trình
nghiên cứu.
Bên cạnh các nhà khoa học ở nước ngồi, các cơng
trình nghiên cứu ở trong nước như đã kể ở trên cịn có một
số tác giả nghiên cứu ở trình độ thạc sĩ quản lý giáo dục ở
nước ta về công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thơng,
về phịng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường, về
giáo dục học sinh cá biệt, về quản lý học sinh trong lớp chủ
nhiệm, về nội dung và phương pháp giáo dục của đội ngũ
giáo viên chủ nhiệm lớp, về xây dựng tập thể học sinh, về
quản lý CTCNL theo hướng tự quản của học sinh trung học
phổ thông... Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của Trần

Ngọc Sơn, Lê Thị Thu, Hồng Văn Cảnh, Triệu Thị Hoa,
Nguyễn Hoàng Giang, Tạ Đăng Khoa... Đây là những cơng
trình nghiên cứu mang tính thực tế rất cao, chỉ ra được
những mặt mạnh, điểm yếu trong công tác quản lý và giáo
dục học sinh ở các lớp chủ nhiệm, tìm ra được những
nguyên nhân chưa thành cơng và những ngun nhân dẫn
đến thành cơng, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý giáo
dục học sinh phù hợp.


Mặc dù đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về cơng
tác chủ nhiệm nhưng vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu
về quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các Trung tâm GDNNGDTX - đây là cơ sở giáo dục đặc thù, đối tượng học viên
đa dạng về lứa tuổi, nhận thức, giảng dạy và phương pháp
giáo dục khác ở các trường phổ thông . Hơn nữa, cho đến
bây giờ vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về việc
quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các Trung tâm GDNNGDTX ngoại thành Hà Nội theo hướng tự quản.
Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi sẽ tiếp
nối các cơng trình nghiên cứu kể trên, để đi sâu nghiên cứu
lý luận và thực trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các
Trung tâm GDNN - GDTX, để từ cơ sở đó đề xuất các biện
pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp phù hợp ở các Trung
tâm GDNN - GDTX ngoại thành Hà Nội theo hướng tự
quản.
Quản lý Trung tâm GDNN - GDTX
Khái niệm quản lý
Quản lý là hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội
loài người. Bất kỳ ở đâu, lúc nào con người có nhu cầu kết
hợp với nhau, với quy mơ nhất định để đạt mục đích chung,
ở đó có hoạt động quản lý. Từ những góc độ khác nhau, các

học giả ngồi nước và trong nước đã có nhiều cái nhiều


khác nhau về khái niệm quản lý. Tác giả M.T.Follet (1868 1933) nhấn mạnh "Quản lý là nghệ thuật khiến cho cơng
việc được thực hiện hồn hảo, thơng qua điều khiển hoạt
động của người khác". [34.Tr40].
C.I.Bamard (1886 - 1961) cho rằng đối tượng quản lý
vừa là những cá nhân, vừa là các tổ chức, ông nhấn mạnh
đến mối liên hệ hữu cơ giữa các bộ phận với nhau, với hệ
thống, giữa hệ thống với môi trường. Do vậy "Quản lý là
duy trì hoạt động của một tổ chức". [35.Tr75].
H.Fayol (1841 - 1925) coi quản lý là một hoạt động có
tính đặc thù, ông chỉ ra nội hàm của khái niệm quản lý như
sau: "quản lý là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và
kiểm tra các hoạt động của đơn vị". [22. Tr30].
C. Mác cho rằng: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp
lao động chung nào tiến hành trên quy mơ tương đối lớn thì
ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận
động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu
vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần
phải có nhạc trưởng" [14. Tr105].


Theo F.W.Toylor (1856 - 1915) "Quản lý là biết chính
xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó điều khiển họ
hoàn thành một cách tốt nhất và nhanh nhất". [21. Tr14].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “ Công tác quản lý lãnh
đạo một tổ chức xét cho cùng là thực hiện hai quá trình liên

hệ chặt chẽ với nhau”: Quản và Lý. Q trình "Quản" gồm
sự chăm sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định, quá
trình "Lý" gồm việc sửa sang sắp xếp, đổi mới đưa vào thế
"phát triển"”[8, tr.78].
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là
một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý
một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định”.
[24].
Ý kiến của Paul Herscy và Ken Blanâng cao Heard khi
nói về vai trị của quản lý trong cuốn “Quản lý nguồn nhân
lực” là: “Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà
quản lý và người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của
cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt
mục tiêu tổ chức” [28].
Theo Nguyễn Quốc Chí và Đặng Thị Mỹ Lộc: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý


(người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt mục đích của tổ chức” (29, tr.16).
Tác giả Trần Hồng Quân cho rằng: “Quản lý là hoạt
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong tổ
chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích
của tổ chức”. [28, tr 176]
Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý là những tác hoạch định
của chủ thể quản lý trong việc huy động, kết hợp, sử dụng,
điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài
lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối

ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất
[17, tr.74]”.
Từ các định nghĩa đã nêu ở trên cho chúng ta thấy khái
niệm quản lý được nhìn từ nhieeud góc độ. Và cốt lõi của
khái niệm quản lý là đi trả lời câu hỏi: Ai quản lý? Tức là
chủ thể quản lý; Quản lý ai? Tức là khách thể quản lý; Quản
lý thế nào? Tức là phương thức quản lý; Quản lý cái gì?
Tức là cơng cụ quản lý; Quản lý để làm gì? Tức là mục tiêu
quản lý. Qua đó khái niệm quản lý có thể được hiểu là
:Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng, có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
để thống nhất các hoạt động với nhau một cách hợp quy luật


: để điều khiển chỉ, chỉ huy, kết nối các yếu tố tham gia vào
hoạt động nhằm đạt được mục tiêu cụ thể ngay cả khi môi
tường không ngừng biến động.
Chức năng quản lý:
Quản lý có 4 chức năng sau đây: Chức năng kế hoạch
hoá; Chức năng tổ chức; Chức năng chỉ đạo; Chức năng
kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, chúng đan xen, hỗ trợ, hoà quyện, bổ dung cho nhau,
hoạt động dựa trên ngun tắc quản lý. Để có một chu trình
quản lý thì khơng thể thiếu một trong bốn chức năng trên,
sự thống nhất biện chứng với đầy đủ bốn chức năng trên
được xem là một chu trình của hoạt động quản lý.
Khái niệm Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường hay cịn gọi là quản lý vi mơ là
quản lý các hoạt động và các nguồn lực ở các cơ sở giáo
dục do người đứng đầu các cơ sở giáo dục đó thực hiện

bằng các biện pháp tác nghiệp cụ thể:
Để đảm bảo được yêu cầu giáo dục của xã hội thì nhà
trường (cơ sở giáo dục) phải đặt ra mục tiêu là thực hiện có
hiệu quả và chất lượng nhiệm vụ năm học, khoa học, dựa
vào tình hình thực tế và đặc điểm của nhà trường (cơ sở
giáo dục) đó chính là mục tiêu của quản lý nhà trường.


Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là quản lý
dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái
này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo
dục” [14; tr.71]
Thực chất quản lý nhà trường chính là quản lý các
hoạt động giáo dục trong nhà trường gồm có các cơng việc
và nhiệm vụ như là: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm
tra, đánh giá chất lượng các hoạt động giáo dục.
Nhà trường là một thành tố khách thể rất cơ bản, trong
tất cả các cấp quản lý từ trung ương xuống địa phương, hơn
nữa lại là một hệ thống độc lập tự quản của xã hội, chính vì
lẽ đó quản lý nhà trường vừa có tính chất xã hội, hội vừa có
tính chất nhà nước. Quản lý nhà trường được hiểu là quản
lý giáo dục ở một phạm vi đã được xác định của đơn vị giáo
dục, mà ở đó nhà trường là nền tảng. Chính vì vậy, để đẩy
mạnh hoạt động giáo dục của nhà trường theo mục tiêu đào
tạo thì quản lý nhà trường phải tuân theo tất cả các nguyên
lý chung của quản lý giáo dục.
Theo Bùi Minh Hiền - Nguyễn Vũ Bích Hiền quan
niệm: “Quản lý nhà trường q trình tác động có mục đích,
có định hướng, có tính kế hoạch của các chủ thể quản lý
(đứng đầu là hiệu trưởng nhà trường) đến các đối tượng

quản lý (giáo viên, cán bộ nhân viên, người học, các bên


liên quan...) và huy động sử dụng đúng mục đích, có hiệu
quả các nguồn lực nhằm thực hiện sứ mệnh của nhà trường
đối với hệ thống giáo dục và đào tạo, với cộng đồng và xã
hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đã xác định trong một
môi trường luôn biến động” [26.tr31].
Như vậy quản lý nhà trường là sự tác động của người
đứng đầu nhà trường tới nhân viên, cấp dưới, qua sự phân
công công việc. Lãnh đạo luôn sát cánh cùng nhân viên
trong mọi nhiệm vụ để hướng dẫn, động viên và đôn đốc họ
một cách kịp thời, quan tâm giúp đỡ và không quên kiểm
tra để đẩy mạnh tiến trình làm việc của họ, nhằm đạt được
các mục tiêu và kế hoạch đã đặt ra. Hoàn thành sứ mệnh
của Trung tâm với hệ thống giáo dục và đào tạo, cộng đồng
và xã hội.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là
thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình, tức là nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo
dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và tới từng học sinh” [20].
Thời đại ngày nay, nhà trường được coi như một thiết
chế chuyên biệt, độc lập của xã hội với mục đích giáo dục,
đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người chủ tương lai của
đất nước - được trang bị đầy đủ kiến thức để trở thành


người cơng dân tốt có ích cho xã hội. Thiết chế đó có tổ
chức chặt chẽ, có mục tiêu rõ ràng, cần thiết đối vớiviệc

thực hiện chức năng của mình.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: "Quản lý nhà trường
là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ
chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng
giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường"
[31].
Còn tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng quản lý nhà
trường là: "Tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham
gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp...) của chủ thể
quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ khác.
Nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực
lượng xã hội đóng góp, do lao động xây dựng và vốn lao
động tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của
nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ.
Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa
nhà trường tiến lên trạng thái mới" [27]
Quản lý nhà trường là quá trình tác động, phối hợp,
điều hành của Hiệu trưởng đối với giáo viên, học sinh và
các bên liên quan nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Mục
tiêu của quá trình giáo dục là giáo dục học sinh một cách


toàn diện. Quản lý nhà trường được coi như một hoạt động
giáo dục vì nó đã thực hiện được mục tiêu đó.
Quản lý nhà trường chịu sự chỉ đạo trực tiếp của nhà nước, được
tạo điều kiện để các hoạt động giáo dục phát triển trong nhà trường.
Quản lý nhà trường do hiệu trưởng (người đứng đầu cơ sở giáo dục) đảm
nhận, người lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc tập
trung, dân chủ, theo hình thức hội đồng giáo dục, được các lực lượng

trong nhà trường hỗ trợ một cách tích cực.
Trung tâm GDNN - GDTX
Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên trong
hệ thống giáo dục quốc dân.
Theo Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐTBNV ra ngày 19 tháng 10 năm 2015 quy định nhiệm vụ của Trung tâm
GDNN - GDTX như sau:
“ Điều 13. Nhiệm vụ của Trung tâm nghề nghiệp - Giáo dục
thường xuyên
Tổ chức đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và
dịch vụ ở trình độ sơ cấp, đào tạo nghề nghiệp dưới 03 tháng; đào tạo
theo hình thức kèm cặp nghề, truyền nghề, tập nghề; đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động trong doanh nghiệp; bồi
dưỡng hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động; đào tạo nghề
cho lao động nơng thơn và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ đào
tạo trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng.
Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục thường xun bao
gồm: chương trình xố mù chữ và tiếp tục sau khi biết chữ; chương trình
giáo dục đáp ứng yêu cầu người học, cập nhật kiến thức, kỹ năng,
chuyển giao cơng nghệ; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình


độ về chun mơn, nghiệp vụ; chương trình giáo dục để lấy bằng các hệ
thống giáo dục quốc dân.
Tổ chức xây dựng và thực hiện các chương trình, giáo trình, học
liệu trình độ sơ cấp, dưới 03 tháng đối với những nghề được phép đào
tạo; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ, cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ.
Xây dựng kế hoạch tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh.
Quản lý đội ngũ viên chức, giáo viên và nhân viên của trung tâm
theo quy định của pháp luật.

Tổ chức lao động sản xuất và dịch vụ kỹ thuật phục vụ đào tạo.
Nghiên cứu ứng dụng các đề tài khoa học về giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp, thử nghiệm, ứng dụng
và chuyển giao công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Tổ chức các hoạt động dạy và học; kiểm tra và cấp chứng chỉ theo
quy định.
Tư vấn nghề nghiệp, tư vấn việc làm cho người học; phối hợp với
các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông tuyên truyền, hướng
nghiệp, phân luồng học sinh.
Phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, gia đình người
học trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên và
hướng nghiệp; tổ chức cho người học tham quan, thực hành, thực tập tại
doanh nghiệp.
Thực hiện dân chủ, công khai trong việc thực hiện các nhiệm vụ
đào tạo nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp.
Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, thiết bị và tài chính theo
quy định của pháp luật.


Tạo điều kiện hoặc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho viên chức, giáo
viên và nhân viên của trung tâm được học tập, nâng cao trình độ chun
mơn, nghiệp vụ.
Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.”
Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc Trung tâm GDNN GDTX
Vai trò của Giám đốc trong trung tâm
Người xưa có câu "Một người lo bằng kho người làm" - đây chính
là đang đề cập đến tầm quan trọng của người quản lý, trong xã hội hiện
nay quản lý có vai trị quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, người

quản lý luôn phải tìm tịi, suy nghĩ để đưa ra các quyết định, các chiến
lược, chiến thuật và phải chịu trách nhiệm với chúng.
Nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Hồng Quân đã chỉ rõ: "Hệ
thống quản lý giáo dục của chúng ta như là hệ thần kinh điều khiển toàn
ngành mà từng CBQL là những tế bào của hệ thần kinh đó. Nếu từng
người khơng mạnh thì hệ thống khơng mạnh. Đặc biệt là từng tế bào,
ngoài việc thực hiện chức năng nhiệm vụ đã được sắp đặt trong hệ thống
cịn góp phần hoàn thiện hệ thống" [37, tr 15].
Giám đốc Trung tâm là cán bộ chủ chốt, có trách nhiệm triển khai,
tổ chức thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước và cấp trên tại Trung tâm mình. Giám đốc có quyền đưa ra các
quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định đó trong phạm vi cho
phép. Đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý trước đơn vị cấp
trên cũng như đơn vị mình.
Theo Thơng tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐTBNV ra ngày 19 tháng 10 năm 2015 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn
của Giám đốc Trung tâm GDNN - GDTX như sau:


“ Điều 17. Nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc
Giám đốc là người đứng đầu Trung tâm, đại diện cho Trung tâm
trước pháp luật, chịu trách nhiệm quản lý và điều hành các hoạt động của
Trung tâm, có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 13
Luật Giáo dục nghề nghiệp, khoản 5 Điều 13 Quy chế tổ chức và hoạt
động của Trung tâm giáo dục thường xuyên do Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành và các văn bản pháp luật có liên quan:
Nhiệm vụ:
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng;
Quản lý cơ sở vật chất, tài sản, tài chính của Trung tâm và tổ chức
khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực huy động được để phục vụ
hoạt động đào tạo theo quy định của pháp luật;

Quản lý tài chính, quyết định thu chi và phân phối các thành quả
lao động, thực hành kỹ thuật, dịch vụ theo quy định;
Thường xuyên chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, giảng dạy,
học tập cho viên chức, giáo viên, nhân viên và người học;
đ) Tổ chức và chỉ đạo xây dựng môi trường đào tạo lành mạnh;
đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội trong Trung tâm;
Tổ chức thực hiện quy chế dân chủ; các chính sách, chế độ của
Nhà nước đối với viên chức, giáo viên, nhân viên và người học ở Trung
tâm;
Thực hiện đầy đủ và kịp thời chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất
theo quy định của pháp luật;
Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Quyền hạn:
Được quyết định các biện pháp để thực hiện những nhiệm vụ và
quyền hạn của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường
xuyên quy định tại các Điều 13 và Điều 14 của Thông tư liên tịch này;


Được quyết định thành lập các tổ chuyên môn, nghiệp vụ; sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đào tạo nghề nghiệp theo cơ cấu tổ
chức của Trung tâm đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
Quyết định bổ nhiệm các tổ trưởng, tổ phó các tổ chun mơn,
nghiệp vụ; sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đào tạo nghề nghiệp;
Quyết định việc giao kết hợp đồng lao động đối với viên chức,
giáo viên và nhân viên theo quy định của pháp luật;
đ) Giao kết hợp đồng đào tạo nghề nghiệp, bổ túc, bồi dưỡng với
người học theo quy định của pháp luật;
Ký hợp đồng liên kết với cơ sở giáo dục nghê nghiệp khác; cơ sở
sản xuất, kinh doanh dịch vụ trong hoạt động đào tạo, bổ túc, bồi dưỡng,
thực hành, thực tập hoặc tổ chức sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo quy

định của pháp luật;
Cấp chứng chỉ, học bạ, các giấy chứng nhận trình độ học lực cho
học viên học tại Trung tâm theo quy định;
Quyết định việc khen thưởng, kỷ luật đối với viên chức, giáo viên,
nhân viên và người học trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp quản
lý;
Được hưởng các chế độ theo quy định ”
Công tác chủ nhiệm lớp ở Trung tâm GDNN - GDTX
Nhà giáo dục Tiệp Khắc Comenxki từng đề xướng hình thức tổ
chức giáo dục, dạy học theo lớp từ thế kỷ XVI. Nền giáo dục của thế giới
nói chung và nền giáo dục Việt Nam nói riêng, hệ thống tổ chức các nhà
trường phổ thông, các cơ sở giáo dục thì đơn vị cơ bản được tổ chức để
giáo dục và giảng dạy học sinh là lớp học. Để quản lý lớp học cần có
một giáo viên trong số những giáo viên đang giảng dạy và giáo viên đó
được gọi là giáo viên chủ nhiệm lớp. Để lựa chọn được giáo viên làm
cơng tác chủ nhiệm thì giám đốc phải hiểu rõ giáo viên mình quản lý,


tìm ra những giáo viên có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín đối với học
sinh, được sự tín nhiệm của Hội đồng giáo dục nhà trường phân công
làm chủ nhiệm các lớp học để thực hiện được mục tiêu giáo dục. Người
giáo viên chủ nhiệm lớp có vị trí, chức năng, vai trò rất rõ ràng và quan
trọng ở các Trung tâm GDNN - GDTX, nói đến cơng tác chủ nhiệm lớp
là đề cập đến các nhiệm vụ, công việc mà GVCNL cần phải làm.
Vị trí, vai trị, nhiệm vụ của GVCN lớp ở Trung tâm GDNN - GDTX
Không chỉ ở Trung tâm GDNN - GDTX mà ở bất kỳ một cơ sở
giáo dục hay ở trường học, thì công tác chủ nhiệm lớp luôn được quan
tâm hàng đầu, bởi lẽ nếu làm tốt công tác chủ nhiệm lớp sẽ đẩy mạnh
được các hoạt động giáo dục và góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
HS.

Vị trí của người giáo viên chủ nhiệm lớp

BAN GIÁM ĐỐC

Tổ chuyên môn

Tổ bộ mơn

Ban cán sự lớp

GVCNL

Đồn thanh niên

Lớp

BCH chi đồn

Vị trí của GVCNL ở Trung tâm GDNN - GDTX
Ghi chú: Mũi tên nét liền biểu thị mức độ quan hệ thường xuyên;
Mũi tên nét đứt biểu thị mối quan hệ không thường xuyên;


Sơ đồ trên cho thấy GVCNL là trung tâm kết nối của tất cả các ban
ngành đoàn thể , là cầu nối của học sinh đến các lực lượng GD . GVCNL
phải thường xuyên liên tục trao đổi, phối hợp với BGĐ, tổ chun mơn,
Đồn thanh niên, Ban cán sự ….để đưa ra biện pháp GD phù hợp với đối
tượng học sinh.
Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp
GVCN ở các Trung tâm GDNN - GDTX, đầu tiên là người thay mặt

Giám đốc, để quản lý quá trình đào tạo, danh sách của một lớp học, một
khóa học.
+ Thực tế đã chứng minh, Ban Giám đốc Trung tâm GDNN GDTX không thể nào quản lý được đến từng học viên của tất cả các lớp.
Chính vì vậy phải phân cấp quản lý - đội ngũ GVCN chính là hệ thống
cán bộ trợ lý của Giám đốc chịu trách nhiệm quản lý một lớp, một khoá
trên mọi phương diện theo mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục của
mỗi trung tâm.
+ Phát hiện đúng khả năng, năng khiếu, sở thích, cả những yếu
kém của học sinh là một đòi hỏi khá mới mẻ và phức tạp đối với ngời
GVCN. Người GVCN phải là người biết tổ chức bồi dưỡng cho học
sinh, những kiến thức lý thuyết để từ đó các em biết vận dụng vào thực
tế xã hội, nghề nghiệp tương lai của mình. Làm tốt được điều đó sẽ góp
phần rất lớn vào cơng cuộc đổi mới giáo dục, nâng cao hiệu quả đào tạo
của Trung tâm, góp phần cải thiện lực lượng lao động, thực hiện tốt việc
nâng cao hiệu quả chất lượng khai thác nguồn nhân lực.
+ GVCN là linh hồn của lớp học, là người tập hợp, dìu dắt giáo
dục học sinh. Ln quan tâm gần gũi HS để có một cái nhìn tổng thể đối
với từng HS, qua đó nhận định đánh giá, giáo dục HS một cách cơng
bằng và chính xác, tạo được niềm tin của HS. Với giai đoạn đổi mới giáo
dục hiện nay, đánh giá giáo dục căn cứ chủ yếu vào sự chuyên cần trong


học tập và kết quả học văn hoá cũng như mục tiêu giáo dục của tồn
khố học. GVCN là người có quyền tối cao trong việc đánh giá từng học
sinh ở các lĩnh vực hoạt động nhận thức, thái độ, tâm tư, tình cảm của
học sinh đối với hiện tượng xã hội và tự nhiên, kết quả phát triển năng
lực sáng tạo, năng lực giao tiếp ứng xử, năng lực thích ứng với các điều
kiện cũng như là kết quả rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo và hành vi...
Trong thời kỳ đổi mới GD hiện nay GVCN ở các Trung tâm
GDNN - GDTX cần phải tích cực trong việc thực hiện mục tiêu giáo

dục.
+ Các Trung tâm GDNN - GDTX và GVCN phải ý thức được việc
giáo dục con người, phát triển một cách toàn diện trở thành yêu cầu
khách quan, cũng là đòi hỏi của nền giáo dục phát triển đáp ứng được sự
phát triển của nền kinh tế xã hội.
+ Trọng tâm của mục tiêu giáo dục con người tồn diện là giáo
dục đạo đức, chính trị, tư tưởng, lối sống và lý tưởng sống cho học sinh,
GVCNL chính là người thực hiện điều đó.
+ GVCN là người giữ một vai trị quan trọng trong cơng cuộc phát
triển năng lực của con người Việt Nam trong thời đại mới.
GVCN là người đi đầu trong công cuộc xây dựng mơi trường giáo
dục thân thiện, lành mạnh, tích cực.
GVCN là người hướng nghiệp cho học sinh, là người góp phần rất
lớn vào việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh và ý thức công
dân để học sinh thực hiện lý tưởng sống cao đẹp.
Thực tế những năm gần đây, công tác chủ nhiệm lớp ở các Trung
tâm GDNN - GDTX chưa thật sự đạt được kết quả cao, thể hiện ở chỗ
GVCN lớp chưa quan tâm đúng về giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo
dục ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm về hành động của mình, vì nghĩ
rằng các em đã lớn việc giáo dục đạo đức, tình cảm nghề nghiệp cho các


em là không cần thiết. Xã hội ngày nay cần có một sự sống thống nhất từ
nhận thức đến hành động trong quản lý giáo dục, đạo đức lối sống cho
học sinh.
Từ những địi hỏi trên cho thấy vị trí của GVCNL và công tác chủ
nhiệm lớp ở các trường học, ở các cơ sở giáo dục khác trong đó có Trung
tâm GDNN - GDTX là đặc biệt quan trọng. Vì vậy địi hỏi phải có một
cơ chế hoạt động phù hợp với thực tế về trách nhiệm, chức năng và
quyền hạn của các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm lớp.

Chức năng của người giáo viên chủ nhiệm lớp
+ Chức năng giáo dục
Giáo dục phẩm chất nhân cách cho học sinh là nhiệm vụ hàng đầu
của mỗi GVCNL thông qua các hoạt động tập thể và việc tổ chức các
hoạt động đó. Người giáo viên chủ nhiệm là một nhà giáo dục thông thái,
là cầu nối giữa học sinh với tất cả mọi người thông qua các hoạt động
hàng ngày của các em, mà xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa học sinh
với học sinh, giữa học sinh với người khác để từ đó hình thành cho các
em những thói quen và những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức
của xã hội.
+ Chức năng quản lý
GVCNL phải kết hợp tốt những chức năng lập kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo và kiểm tra, để thực hiện tốt mục tiêu quản lý học sinh lớp chủ
nhiệm trên mọi phương diện. Giám đốc giao quyền quản lý cho GVCNL
trong việc quản lý toàn bộ học sinh trong một lớp học.
Qua hai chức năng đã nêu ở trên ta thấy, GVCNL vừa quản lý sự
hình thành, phát triển nhân cách học sinh, vừa quản lý hoạt động học tập
của các em.
Trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay, việc giáo dục đạo đức
cho học sinh đang được đặt lên hàng đầu, "đạo đức học đường xuống


cấp" là cụm từ đã từng gây xôn xao dư luận và cộng đồng mạng, chính vì
vậy giáo dục đạo đức tốt cho học sinh đồng nghĩa với việc học văn hóa
tốt. Tình hình xã hộihiện nay khi mà hàng ngày, hàng giờ những ảnh
hưởng tiêu cực của xã hội, mặt trái của nền kinh tế thị trường, những tệ
nạn xã hội có sức cám dỗ kinh khủng ln dình dập các em và chĩa thẳng
mũi tên vào nhà trường đã là điều nhức nhối của toàn xã hội.
Để thực hiện được chức năng quản lý giáo dục toàn diện học sinh,
địi hỏi GVCNL phải trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về giáo

dục học, tâm lý học, bên cạnh đó rất cần những kỹ năng sư phạm như là:
kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng nghiên cứu tâm sinh lý lứa tuổi, kỹ
năng giao tiếp với học sinh, kỹ năng lên kế hoạch công tác chủ nhiệm
lớp. GVCNL phải luôn gần gũi, quan tâm đến học sinh, giúp các em định
hướng nghề nghiệp; phải có sự nhảy cảm sư phạm để có thể dự đốn sự
phát triển nhân cách của HS, lường trước những khó khăn, thuận lợi cho
các em và chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu để các em tự hoàn thiện bản
thân về mọi mặt.
Giáo dục một con người là cả một công trình nghệ thuật, ở đó giáo
dục nhà trường có vai trò quyết định, định hướng để tạo ra sự hợp nhất
tác động đến thế hệ trẻ. Còn giáo dục gia đình là mơi trường giáo dục
đầu tiên, có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát triển
nhân cách học sinh.
Nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm lớp
Theo thông tư số 03/VBHN-BGDĐT ban hành ngày 23 tháng 6
năm 2017 của Bộ giáo dục và Đào tạo, Điều 31 nhiệm vụ của giáo viên
trường THPT như sau: ( trong đó quy định nhiệm vụ của GVCN )
Trước hết GVCN phải là giáo viên giảng dạy bộ môn, thực hiện
đầy đủ các nhiệm vụ của một người giáo viên đứng lớp đó là: “ Dạy học
và GD theo chương trình, kế hoạch GD, kế hoạch dạy học của nhà


trường theo chế độ làm việc của GV do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy
định; Quản lý HS trong các hoạt động GD do nhà trường tổ chức; Tham
gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng,
hiệu quả GD; Tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng; Tham
gia công tác phổ cấp GD ở địa phương; Rèn luyện đạo đức, học tập văn
hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả
giảng dạy và GD; Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo đồng thời rèn luyện phương pháp

tự học của HS; Thực hiện điều lệ nhà trường; Thực hiện quyết định của
Giám đốc, chịu sự kiểm tra, đánh giá của Giám đốc và các cấp QLGD;
Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước HS;
Thương yêu, tôn trọng HS, đối xử công bằng với HS, bảo vệ các quyền
lợi chính đáng của HS; Đồn kết, giúp đỡ đồng nghiệp, tạo dựng môi
trường học tập và làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn và lành
mạnh.
Phối hợp với các GV khác, gia đình HS, Đồn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh trong dạy học và GD học sinh; Thực hiện các nhiệm vụ
khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các nhiệm vụ quy định trên, GVCNL cịn có những nhiệm
vụ sau đây: Tìm hiểu và nắm vững HS trong lớp về mọi mặt để có biện
pháp tổ chức GD sát với đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp
và của từng HS; Thực hiện các hoạt động GD theo kế hoạch đã xây
dựng; Cộng tác chặt chẽ với gia đình HS, chủ động phối hợp với các GV
bộ mơn, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có
liên quan trong hoạt động giảng dạy và GD học sinh của lớp mình chủ
nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển
nhà trường; Nhận xét, đánh giá và xếp loại HS cuối kỳ và cuối năm học,
đề nghị khen thưởng và kỷ luật HS, đề nghị danh sách HS được lên lớp


thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ
hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ; Báo cáo
thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Giám đốc ”
Những yêu cầu đối với GVCNL
Người giáo viên chủ nhiệm có phẩm chất đạo đức tốt, có nhân
cách cao đẹp sẽ tạo được niềm tin ở HS và phụ huynh, và đó cũng chính
là phương tiện để GD nhân cách và phẩm chất học trị, nó có ảnh hưởng
sâu sắc và trực tiếp đến kết quả GD.

Những yêu cầu về nhân cách, đạo đức người GV, kể cả những điều
cấm GV không được vi phạm được quy định ở những văn bản sau đây.
Theo luật giáo dục năm 2005 và được sửa đổi năm 2009 về các
hành vi nhà giáo không được làm, thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT về
các hành vi giáo viên không được làm và quyết định số 16/2008/QĐBGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng bộ GD&ĐT quy định về phẩm
chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tác phong lối sống của nhà giáo.
“ Nhà giáo không được xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm hại
thân thể người học. Không gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh
giá sai kết quả học tập, rèn luyện của người học, không xuyên tạc nội
dung giáo dục và đặc biệt là không ép buộc HS học thêm để thu tiền.
Về phẩm chất chính trị, người GVCN phải ln chấp hành nghiêm
chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị
để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ cơng dân, tích cực
tham gia các hoạt động chính trị, xã hội.
Người GVCN cần phải tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn
danh dự, lương tâm nhà giáo, có tinh thần đồn kết, thương u, giúp đỡ
đồng nghiệp trong cuộc sống và trong cơng tác, có lòng nhân ái, bao dung,


×