Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

SKKN một số cách thức tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo cho học sinh tại trường THPT phan thúc trực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 32 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Tính lịch sử của sáng kiến kinh nghiệm................................................................ 2
3. Điểm mới và đóng góp của sáng kiến ................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm........................ 3
B. NỘI DUNG
1. Hiểu biết chung về hoạt động trải nghiệm sáng tạo ........................................ 4
1.1. Khái niệm …………………………………………………………………………………4
1.2. Quan điểm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong lĩnh vực giáo dục……… 4
1.3. Thực trạng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo hiện nay…………………………5
1.4. Lợi thế của hoạt động trải nghiệm sáng tạo…………………………………………7
1.5. Nguồn lực tổ chức………………………………………………………………………..8
2. Một số cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo .............................. 9
2.1. Tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần…………………………………………………9
2.2. Tổ chức một tiết học trên lớp………………………………………………………….11
2.2.1. Đóng vai nhân vật…………………………………………………………………….11
2.2.2. Giao dự án học tập……………………………………………………………………13
2.2.3. Dạy học STEM………………………………………………………………………..14
2.3. Hình thức câu lạc bộ……………………………………………………………………17
2.4. Trải nghiệm thực tế……………………………………………………………………..20
2.5. Các hoạt động tri ân, thiện nguyện…………………………………………………..23
3. Kết quả khảo nghiệm ........................................................................................ 26
3.1. Sự thay đổi nhận thức về cách thức tổ chức dạy học của giáo viên………… …26

3.2. Sự chuyển biến về năng lực, phẩm chất của học sinh…………… ………………27
3.3. Thái độ của phụ huynh học sinh ………………………………………………………… 29

4. Một số ý kiến tham vấn. .................................................................................... 30
C. KẾT LUẬN




A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực đã trở thành
xu hướng giáo dục quốc tế. Nhiều nước trên thế giới đã có sự thay đổi mạnh mẽ
theo hướng chuyển từ dạy học truyền thụ kiến thức sang dạy học phát triển năng
lực người học. Ở nước ta, Đại hội XII của Đảng xác định: tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục - đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân
theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi
mới căn bản công tác quản lý giáo dục- đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục; coi trọng quản lý chất
lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi
mới; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của tồn
xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục - đào tạo.
Đổi mới phương pháp dạy học cần phải đáp ứng mục tiêu giáo dục mới đó là
khơng chỉ nhằm trang bị kiến thức mà còn chú trọng đến vận dụng kiến thức kĩ
năng vào cuộc sống, đặc biệt quan tâm đến phát triển năng lực sáng tạo, năng lực
giải quyết vấn đề phù hợp với hồn cảnh. Điều đó có nghĩa dạy học không chỉ đơn
thuần truyền đạt, cung cấp thông tin mà chủ yếu rèn luyện khả năng tìm kiếm và
chiếm lĩnh tri thức. Khi ở thời đại mà các hoạt động đang dần chuyển dịch sang
cơng nghệ số thì trong lĩnh vực giáo dục, việc đa dạng các nguồn thông tin, phong
phú các hình thức dạy học là một cách tiếp cận đúng hướng. Đổi mới chương trình
giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới đánh giá là những phương diện
thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại những thay đổi về hiệu quả giáo dục. Và ở
khía cạnh hoạt động, tất cả những đổi mới này đều được biểu hiện sinh động trong
mỗi giờ học qua hoạt động của người dạy và người học.
Trong sự chuyển đổi mạnh mẽ về tư duy giáo dục như thế, nhiều cách thức
tổ chức dạy học cũng được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu mới về mục tiêu giáo

dục, trong đó có hình thức học tập trải nghiệm sáng tạo. Những năm gần đây,
nhiều cơ sở giáo dục đã tích cực, chủ động xây dựng mơ hình học tập này, từ sự
chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường, đến xây dựng kế hoạch của tổ nhóm chun mơn,
tổ chức thực hiện của giáo viên. Phương pháp dạy học này rất đa dạng, phong phú
về cách thức tổ chức, mỗi trường, mỗi giáo viên tùy tình hình thực tế đã có nhiều
cách làm. Do vậy, sự chia sẻ những cách thức tổ chức dạy học hay là một cách để
nhân rộng thêm những thành công mới trong dạy học. Hơn nữa, tư duy dạy học
hiện đại khơng cịn bó hẹp trong mỗi bài giảng, trong lớp học, trong khuôn viên
nhà trường mà dạy học trong không gian mở. Học sinh được tạo cơ hội để thể hiện
năng lực cá nhân, được trải nghiệm thực tiễn để rồi sau khi rời ghế nhà trường, học
sinh khơng chỉ là học được gì mà quan trọng là học sinh vận dụng kiến thức được
1


trang bị ở nhà trường vào thực tiễn như thế nào, làm được gì; ở nhà trường, học
sinh được hình thành, phát huy những năng lực, phẩm chất nào để khi ra cuộc sống
mới, các em có thể tự tin hòa nhập. Những mục tiêu này, phương pháp dạy học
truyền thống không đáp ứng được. Do vậy, mỗi một nhà trường, mỗi tổ nhóm
chun mơn, mỗi giáo viên phải khơng ngừng sáng tạo, tìm ra các cách thức dạy
học mới để đáp ứng mực tiêu giáo dục hiện đại. Trong nhà trường, nếu như mục
đích chính của các mơn học là hình thành và phát triển hệ thống tri thức khoa học,
năng lực nhận thức và hành động của học sinh; thì hoạt động trải nghiệm giúp học
sinh hình thành và phát triển những phẩm chất, tư duy, chí, tình cảm, giá trị, kỹ
năng sống và những năng lực vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chính vì
vậy, có ý kiến cho rằng: hoạt động trải nghiệm là một trong những giải pháp để
giáo viên thốt được tình trạng “dạy chay” và học sinh không phải “thuộc vẹt”.
Các kiến thức được hình thành thơng qua việc trải nghiệm sẽ được ghi nhớ rất lâu
và sâu, tránh tình trạng học sinh học không hiểu bản chất. Và đặc biệt, chính việc
dạy học thơng qua trải nghiệm như vậy cịn giúp cho học sinh phát triển được
nhiều năng lực khác nhau, trong đó có năng lực giải quyết vấn đề. Năng lực này

nếu được hình thành và rèn luyện từ sớm sẽ giúp ích rất nhiều cho các em trong
chính cuộc sống sau này.
Tuy nhiên, có một “hiệu ứng cộng hưởng” là khi hướng dẫn học sinh trải
nghiệm, cũng chính là cơ hội để giáo viên “kết nối” được kiến thức với đời sống.
Khi hướng dẫn học trò trải nghiệm cũng là khi thầy, cô giáo tự “cập nhật” cho giáo
án của chính mình. Với tiết học trải nghiệm, học sinh được thay đổi cảm xúc và
không gian học tập, được áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, được
giao lưu học hỏi từ bạn bè, thầy cơ, những tương tác trong q trình trải nghiệm.
Học sinh được rèn luyện kỹ năng xử lý tình huống (những tình huống ngồi dự
kiến ban đầu trước khi trải nghiệm)… Với giáo viên hướng dẫn cũng thêm những
trải nghiệm mới, nhất là trong xử lý tình huống, thêm điều kiện gắn bó cùng học
sinh, có điều kiện phát hiện năng lực học sinh. Ý nghĩa đó chính là l do chúng tôi
chọn đề tài “ Một số cách thức tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo
cho học sinh tại trường THPT Phan Thúc Trực” để chia sẻ với đồng nghiệp.
2. Tính lịch sử của sáng kiến kinh nghiệm
Nghiên cứu về hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo thì đã có
nhiều bài viết trên các tạp chí của ngành giáo dục. Các bài viết đi sâu vào việc
phân tích các ưu điểm của cách thức tổ chức dạy học này, có bài cịn nêu ra một số
kịch bản tổ chức. Tuy nhiên, các bài viết chỉ nêu lý thuyết chung về quan điểm, ưu
thế của hình thức tổ chức hoạt động này để khuyến khích, tư vấn các cơ sở giáo
dục và giáo viên khi triển khai nhưng không đi vào chi tiết kỹ thuật. Điều mà các
nhà trường, giáo viên đang cần là những giải pháp cụ thể, cách thức tổ chức cụ thể
để ai xem cũng có thể học theo, làm theo. Sáng kiến này sẽ đi vào khoảng trống
đó.
2


3. Điểm mới và đóng góp của sáng kiến
Bản sáng kiến này ít đề cập đến những lý thuyết chung chung về hoạt động
trải nghiệm sáng tạo, bởi điều này đồng nghiệp có thể tìm thấy ở nhiều nguồn

thơng tin khác, nếu có, cũng chỉ là một số hiểu biết chung về hình thức này để có
cái nhìn tồn cục. Nội dung chính và cũng là đóng góp của sáng kiến là sự tổng
hợp những cách làm hiệu quả về một số cách thức tổ chức hoạt động giáo dục trải
nghiệm cho học sinh của nhà trường, từ xây dựng kế hoạch, đến kịch bản chung,
nguồn lực, cách triển khai cụ thể để mỗi đơn vị bạn, mỗi thầy cô khi đọc đều có thể
áp dụng triển khai ở trường mình, ở lớp mình dạy. Sáng kiến được viết như một
hình thức “cầm tay chỉ việc”, điều mà các giáo viên đang cần bởi hoạt động trải
nghiệm rất phong phú, thầy cơ có thể sẽ lúng túng trong việc lựa chọn giải pháp
phù hợp. Chỉ cần mỗi một người đóng góp một tưởng thành cơng của mình, chia
sẻ cho đồng nghiệp cũng là hữu ích để cùng nhau thực hiện mục tiêu giáo dục của
mình.
4. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm
Bản sáng kiến này chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so
sánh các giải pháp giáo dục, từ đó, tư vấn, định hướng cho đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm lớp, giáo viên bộ môn lựa chọn cách thức tổ chức dạy học phù hợp với nội
dung từng bài học hay các hoạt động giáo dục khác.
Những kinh nghiệm được nêu ra tại bản sáng kiến này đều có thể áp dụng tại các
cơ sở giáo dục phổ thông.

3


B. NỘI DUNG
1. Hiểu biết chung về hoạt động trải nghiệm sáng tạo
1.1. Khái niệm
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực
tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng
như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực
thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.

Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học. Hoạt động
trải nghiệm sáng tạo không gọi là môn học mà là hoạt động giáo dục. Môn học
được tạo nên bởi một hoặc một vài lĩnh vực khoa học nên nội dung của nó được
cấu trúc chặt chẽ cịn hoạt động giáo dục sử dụng tích hợp kiến thức, kỹ năng của
nhiều lĩnh vực để thực hiện mục tiêu hoạt động của mình.
Chúng ta hình dung một chương trình giáo dục của bất kỳ quốc gia nào cũng
bao gồm nội dung dạy học (các môn học) và nội dung giáo dục (các hoạt động giáo
dục). Các môn học thực hiện giảng dạy những lĩnh vực có tính khoa học, chủ yếu
nhằm phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Bên cạnh đó, chúng ta có hoạt động
giáo dục, là hoạt động nhằm phát triển những phẩm chất nhân cách, kỹ năng sống
hay là năng lực tâm lý xã hội giúp con người có thể thích nghi, thích ứng với xã
hội, làm chủ bản thân, biết sống tích cực và hạnh phúc... Đây là những mặt vô
cùng quan trọng để tạo nên cuộc sống có nghĩa của mỗi cá nhân. Chương trình
giáo dục phổ thơng mới (2018) chính là đang tiếp cận tư duy giáo dục này.
1.2.Quan điểm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong lĩnh vực giáo dục
Chương trình giáo dục phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số
32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định:
Hoạt động trải nghiệm (cấp tiểu học) và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp (cấp
trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông) là hoạt động giáo dục bắt buộc được
thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12, nhằm tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể
nghiệm các cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động
tổng hợp kiến thức, kỹ năng của các môn học để thực hiện những nhiệm vụ được
giao hoặc giải quyết những vấn đề của thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã
hội phù hợp với lứa tuổi; thơng qua đó, chuyển hóa những kinh nghiệm đã trải qua
thành tri thức mới, hiểu biết mới, kỹ năng mới góp phần phát huy tiềm năng sáng
tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, mơi trường và nghề nghiệp tương lai.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là các hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến
hành song song với hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông. Hoạt động trải
nghiệm sáng tạo là một bộ phận của quá trình giáo dục, được tổ chức ngồi giờ học
các mơn văn hóa ở trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy

học. Thông qua các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể và các hành động
của học sinh, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là các hoạt động giáo dục có mục
4


đích, có tổ chức được thực hiện trong hoặc ngồi nhà trường nhằm phát triển, nâng
cao các tố chất và tiềm năng của bản thân học sinh, nuôi dưỡng ý thức sống tự lập,
đồng thời quan tâm, chia sẻ tới những người xung quanh. Thông qua việc tham gia
vào các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, học sinh được phát huy vai trị chủ thể,
tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân. Các em được chủ động
tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động: từ thiết kế hoạt động đến
chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và
khả năng của bản thân. Các em được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, tưởng,
được đánh giá và lựa chọn tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản
thân, được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình
và của bạn bè,… từ đó, hình thành và phát triển cho các em những giá trị sống và
các năng lực cần thiết. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo về cơ bản mang tính chất
của hoạt động tập thể trên tinh thần tự chủ, với sự nỗ lực giáo dục nhằm phát triển
khả năng sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể. Hoạt động trải
nghiệm sáng tạo có nội dung rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến
thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục
đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo dục
nghệ thuật, thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an tồn giao
thơng, giáo dục mơi trường, giáo dục phịng chống ma túy, giáo dục phòng chống
HIV/AIDS và tệ nạn xã hội.
Nội dung giáo dục của hoạt động trải nghiệm sáng tạo thiết thực và gần gũi
với cuộc sống thực tế, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của học sinh, giúp các em
vận dụng những hiểu biết của mình vào trong thực tiễn cuộc sống một cách dễ
dàng, thuận lợi. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có thể tổ chức theo các quy mơ
khác nhau như: theo nhóm, theo lớp, theo khối lớp, theo trường hoặc liên trường.

Tuy nhiên, tổ chức theo quy mơ nhóm và quy mơ lớp có ưu thế hơn về nhiều mặt
như đơn giản, khơng tốn kém, mất ít thời gian, học sinh tham gia được nhiều hơn
và có nhiều khả năng hình thành, phát triển các năng lực cho học sinh hơn. Hoạt
động trải nghiệm sáng tạo có khả năng thu hút sự tham gia, phối hợp, liên kết
nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên bộ môn, cán bộ Đoàn, Ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh, các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp ở địa phương, các nhà hoạt động xã hội, những nghệ
nhân, những người lao động tiêu biểu ở địa phương,…
1.3. Thực trạng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo hiện nay
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong các nhà trường hiện nay đang được tổ
chức dưới các hình thức sau:
- Các câu lạc bộ: Hoạt động của câu lạc bộ tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ
những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó
phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và
biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp
ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,…
Câu lạc bộ là nơi để học sinh được thực hành các quyền trẻ em của mình như
quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn
5


hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông
tin.
- Tổ chức một tiết học trên lớp: giáo viên thường xây dựng kịch bản đóng vai
nhân vật lịch sử, tình tiết văn học.., giao dự án học tập, dự án STEM…
- Tổ chức diễn đàn, sự kiện: Đây là một hình thức tổ chức hoạt động được sử
dụng để thúc đẩy sự tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ
động bày tỏ ý kiến của mình với đơng đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ
và những người lớn khác có liên quan. Thơng qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày
tỏ suy nghĩ, kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề

nào đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là
dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau.
- Tham quan, dã ngoại: Đây là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn đối
với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh được đi
thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa, cơng
trình, nhà máy… ở xa nơi các em đang sống, học tập, giúp các em có được những
kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em.
- Các hoạt động giao lưu: Hình thức phổ biến hiện nay là các cuộc giao lưu văn
hóa văn nghệ, thể dục thể thao… Qua hoạt động, học sinh được thể hiện năng lực
chun biệt của mình, thể hiện cá tính, khả năng tương tác nhóm, đồng đội…
- Hoạt động chiến dịch: Hoạt động chiến dịch là hình thức tổ chức khơng chỉ tác
động đến học sinh mà tới cả các thành viên cộng đồng. Nhờ các hoạt động này,
học sinh có cơ hội khẳng định mình trong cộng đồng, qua đó hình thành và phát
triển ý thức “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Việc học sinh tham gia các
hoạt động chiến dịch nhằm tăng cường sự hiểu biết và sự quan tâm của học sinh
đối với các vấn đề xã hội như vấn đề mơi trường, an tồn giao thơng, an tồn xã
hội,… giúp học sinh có ý thức hành động vì cộng đồng; tập dượt cho học sinh
tham gia giải quyết những vấn đề xã hội.
- Hoạt động nhân đạo: Hoạt động nhân đạo là hoạt động tác động đến trái tim,
tình cảm, sự đồng cảm của học sinh trước những con người có hồn cảnh đặc biệt
khó khăn. Thông qua hoạt động nhân đạo, học sinh biết thêm những hồn cảnh khó
khăn của người nghèo, người nhiễm chất độc da cam, trẻ em mồ côi, người tàn tật,
khuyết tật, người già cô đơn không nơi nương tựa, người có hồn cảnh đặc biệt
khó khăn, những đối tượng dễ bị tổn thương trong cuộc sống,… để kịp thời giúp
đỡ, giúp họ từng bước khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống, vươn lên hòa nhập
với cộng đồng. Hoạt động nhân đạo giúp các em học sinh được chia sẻ những suy
nghĩ, tình cảm và giá trị vật chất của mình với những thành viên trong cộng đồng,
giúp các em biết quan tâm hơn đến những người xung quanh từ đó giáo dục các giá
trị cho học sinh như: tiết kiệm, tôn trọng, chia sẻ, cảm thông, yêu thương, trách
nhiệm, hạnh phúc,… Hoạt động nhân đạo trong trường phổ thơng được thực hiện

dưới nhiều hình thức khác nhau như: Hiến máu nhân đạo; Xây dựng quỹ ủng hộ
các bạn thuộc gia đình nghèo, có hồn cảnh khó khăn; Tết vì người nghèo…
Mỗi một hình thức tổ chức đều có những ưu thế riêng, tùy thuộc vào tính
chất và mục đích của bài dạy/hoạt động. Những hình thức trên, về mặt lý thuyết là
6


rất tốt trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục song trên thực tế, việc triển khai thực hiện không hề dễ dàng bởi các lý do sau:
- Giáo viên ngại khó, sợ khơng có thời gian thực hiện, nhất là các tiết dạy ở lớp,
hoặc có tâm huyết, có tưởng muốn thay đổi song còn lúng túng về kỹ năng,
phương pháp tổ chức.
- Cách thức tổ chức khơng hấp dẫn thì khơng những khơng đạt mục đích mà cịn
khơng lơi kéo được học sinh, dễ thất bại.
- Sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục khác, ví dụ: giáo viên chủ nhiệm, cha
mẹ học sinh có đồng ý cho giáo viên bộ môn thực hiện không bởi khi triển khai
hoạt động này có thể sẽ ảnh hưởng đến các kế hoạch khác.
Ở một góc nhìn khác, một số người quan niệm, hoạt động trải nghiệm chủ
yếu là tổ chức các hoạt động tham quan, dã ngoại, tìm hiểu các di tích lịch sử, văn
hóa… Hiểu thế khơng hồn tồn sai nhưng phiến diện. Vài chục năm qua, khi
chúng ta chưa chính thức bàn về dạy học để phát triển năng lực, hầu hết các nhà
trường đều đã tổ chức cho học sinh các hoạt động tham quan dã ngoại, tham gia
bảo vệ mơi trường, tham gia lao động cơng ích, đi đến các bảo tàng, di tích lịch
sử… song đó đã phải là trải nghiệm học tập, trải nghiệm sáng tạo chưa? Xin thưa:
chưa. Đó chỉ là trải nghiệm đời sống nói chung. Sự “nghiệm” chủ yếu là tùy cảm
nhận và mang tính chiêm nghiệm cá nhân chứ khơng theo một nội dung, khung
thang nào cả, nên khó có thể đánh giá được. Thực chất đó là “trải” chứ chưa
“nghiệm” theo yêu cầu giáo dục. Ấy là nếm trải mà chưa chiêm nghiệm có mục
đích. Ví dụ đưa ra câu trả lời rằng nếu đưa học sinh đi thực tế thì thúc đẩy được
những kỹ năng gì, các kỹ năng ấy sẽ hợp thành năng lực gì? Hay sau trải nghiệm,

học sinh viết báo cáo và thuyết trình thì sẽ luyện được những kỹ năng nào? Trải
nghiệm trong giáo dục có mục tiêu cao hơn - đó là nhằm tăng cường kiến thức và
rèn luyện kỹ năng. Trải nghiệm với mục tiêu phát triển năng lực làm cho hoạt động
trải nghiệm thành đường đi có đích.
Những giải pháp nêu ra trong bản sáng kiến này sẽ phát huy được những yếu tố
tích cực của hoạt động trải nghiệm, đồng thời hạn chế được những yếu tố khó khăn
khi triển khai thực hiện.
1.4. Lợi thế của hoạt động trải nghiệm sáng tạo
1.4.1. Lợi ích chung.
- Hoạt động trải nghiệm là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống
nhất giữa nhận thức với hành động góp phần phát triển phẩm chất, tư tưởng, ý chí,
tình cảm, giá trị, niềm tin đúng đắn ở học sinh.
- Hình thành những năng lực cần có của con người trong xã hội hiện đại, là con
đường để phát triển toàn diện nhân cách học sinh.
- Hoạt động trải nghiệm diễn ra có chủ đích, có kế hoạch, có sự thống nhất và có
tính giáo dục cao.
- Hoạt động trải nghiệm học sinh sẽ đóng vai trò chủ thể, năng động, sáng tạo và
giáo viên sẽ đóng vai trị là người tổ chức, hướng dẫn.
- Học sinh được học tập ở nhiều không gian khác nhau.
7


- Học sinh có cơ hội được học hỏi, hợp tác và trao đổi thông tin với nhiều người
khác nhau.
1.4.2. Lợi ích đối với phát triển nhân cách của học sinh.
- Trong qua trình trải nghiệm học sinh thể hiện được giá trị của bản thân mình,
thiết lập được các quan hệ giữa cá nhân với tập thể, với các cá nhân khác, với môi
trường học và môi trường sống.
- Sự trải nghiệm có nghĩa sẽ huy động tổng thể các giá trị của cá nhân từ cảm xúc
đến ý thức và hành động. Sự trải nghiệm huy động toàn bộ năng lực hành động, sự

liên kết trách nhiệm của bản thân với xã hội.
- Qua hoạt động trải nghiệm có thể quan sát trực tiếp được hành vi của và sản
phẩm của người học qua quá trình học.
- Trong qua trình trải nghiệm một lượng lớn thơng tin được truyền qua lại với nhau
trong môi trường kiến tạo xã hội phần học lý thuyết sẽ được hình thành và củng cố
bởi chính sự khám phá của người học hoặc được truyền thụ bởi từ người học hiểu
biết sang người học còn chưa biết như vậy kiến thức, kĩ năng sẽ được chiếm lĩnh
bởi chính cá nhân người học và được củng cố trong môi trường xã hội.
- Hoạt động trải nghiệm giúp nâng cao ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình, nhà trường và xã hội, ý thức định hướng nghề nghiệp của học sinh.
- Quá trình trải nghiệm giúp học sinh có thái độ đúng đắn trước những vấn đề của
cuộc sống, biết chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân: đấu tranh tích cực với
những biểu hiện sai trái của bản thân (để tự hoàn thiện) và của người khác, biết
cảm thụ và đánh giá cái đẹp trong cuộc sống.
1.4.3. Lợi ích hoạt động trải nghiệm trong giáo dục KNS
- Hoạt động trải nghiệm giúp người học tham gia một cách trọn vẹn vào chương
trình học. Khi tham gia hoạt động trải nghiệm, các giác quan như mắt, tay, miệng,
đều được tiếp xúc cụ thể điều đó làm cho người học có sự trải nghiệm sâu sắc về
hoạt động, nó có tác động sâu sắc đến người học.
- Nhờ hoạt động trải nghiệm, học sinh được rèn giũa những kỹ năng mang tính
thực tiễn, học sinh phải đưa ra những cách thức xử lý vấn đề dựa theo hồn cảnh
của hoạt động, nhờ đó người học được rèn giũa qua chính sự việc. Nhờ hoạt động
trải nghiệm, giúp học sinh khám phá ra những mặt tốt, mặt chưa tốt của chính bản
thân.
1.5. Nguồn lực tổ chức:
Ngồi tính mục đích, u cầu khi tổ chức một hoạt động trải nghiệm sáng
tạo thì việc xác định rõ ràng, cụ thể các nguồn lực là yếu tố đảm bảo sự thành
công. Về cơ bản, để thực hiện một hoạt động trải nghiệm, chúng ta cần xác định
được:
- Thời gian: ngày, tháng, thời gian diễn ra hoạt động trong bao lâu…

- Địa điểm: một địa điểm hay nhiều địa điểm, trong lớp, khn viên nhà trường
hay ở ngồi trường.
- Đối tượng tham gia: học sinh, giáo viên, phụ huynh, các thành phần khác…
8


- Đối tượng tổ chức: giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn, phụ huynh hay có sự
kết hợp…nhưng phải xác định rõ đối tượng chính, thành phần khác chỉ phối hợp để
đề cao tính chủ động, trách nhiệm và đảm bảo tính mục đích của hoạt động.
- Đồ dùng, thiết bị, phương tiện: tùy thuộc vào tính chất, nội dung hoạt động để có
sự phân cơng, chuẩn bị trước.
- Tài chính: cần bao nhiêu tiền cho hoạt động, cần phân rõ từng danh mục.
2. Một số cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
2.1. Tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần
Theo khung chương trình giáo dục, mỗi tuần học sinh sẽ có một tiết sinh
hoạt tập trung đầu tuần ( thường gọi là tiết chào cờ đầu tuần). Nội dung cơ bản của
tiết học này, thông thường là giáo viên chủ nhiệm lớp trực tuần sẽ nhận xét, đánh
giá phong trào học tập, thi đua của các lớp ở tuần học trước, Đoàn trường, Ban
giám hiệu nhà trường sẽ nhắc nhở thêm một số nội dung và triển khai công tác tuần
học mới. Nội dung sinh hoạt này khơng có gì là sai song nếu lặp đi lặp lai, tuần nào
cũng giống tuần nào thì sẽ tạo ra cảm giác nhàm chán. Thực tế đã diễn ra nhiều
trường như vậy, tiết học ồn ào, học sinh không tập trung bởi chẳng có gì hứng thú
cả, nội dung thì đã biết. Do vậy, đổi mới cách thức tiết học này là một thực tế mà
các nhà trường nên quan tâm.
Ở đơn vị chúng tôi, tiết sinh hoạt đầu tuần đã thay đổi. Về cơ bản, các thông tin về
thi đua các lớp, chi đoàn hay kế hoạch tuần học mới đã được lớp trực tuần và lãnh
đạo trường chuyển qua trang thông tin nội bộ của trường (zalo), còn tiết học này
chủ yếu dành cho học sinh.
- Nếu cần có nhận xét đầu tuần của lớp trực thì học sinh sẽ nhận xét, giáo viên
không làm thay. Giáo viên hướng dẫn học sinh tổng hợp số liệu từ đội Cờ đỏ

chấm điểm của Đoàn trường, điểm từ Ban giám thị theo dõi nề nếp, điểm từ Ban vệ
sinh, điểm các thầy cô giáo bộ môn nhận xét, cho điểm trong sổ đầu bài. Học sinh
căn cứ vào quy chế thi đua của nhà trường để tính điểm thi đua và nhận xét thêm
một số nội dung nổi bật tuần học vừa xong.
Cách làm này là để rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói, diễn thuyết trước đám
đơng - một “kỹ năng mềm” đã làm nên thành công cho nhiều người, rèn luyện tư
duy, tổng hợp số liệu và khả năng thể hiện bản thân. Qua tiết học, cảm nhận của
các em học sinh được lớp lựa chọn lên trình bày nội dung là tự tin hơn, kỹ năng nói
được rèn luyện một bước.
- Sử dụng tiết sinh hoạt đầu tuần cho học sinh thể hiện năng khiếu của mình.
Đồn thanh niên nhà trường tổ chức chương trình “Tìm kiếm tài năng”, học sinh
các lớp đăng k thể hiện năng khiếu của mình qua Ban Chấp hành Đồn trường.
Đoàn trường tổng hợp danh sách, thẩm định nội dung và bố trí chương trình vào
các thứ 2 hàng tuần.
Đây là một nội dung sinh hoạt hấp dẫn, lôi cuốn nhiều học sinh tham gia, tiết sinh
hoạt tập thể thực sự có nghĩa. Học sinh xem hào hứng, học sinh thể hiện năng
khiếu cá nhân thấy được giá trị của mình. Các em tự tin hơn, thấy mình có nghĩa
9


đối với cộng đồng, qua đó, nhân cách sống, trách nhiệm của các em đối với cộng
đồng được lan tỏa.

H1. Học sinh thể hiện năng khiếu văn nghệ

H2. Học sinh thể hiện năng khiếu võ thuật

10



2.2. Tổ chức một tiết học trên lớp
2.2.1. Đóng vai nhân vật
Hình thức này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xây dụng kịch bản ở
những bài học có tình huống, tuy nhiên, phổ biến hơn cả là các bộ môn Ngữ văn,
Lịch sử, Giáo dục công dân. Những tình huống có vấn đề trong lịch sử, trong đời
sống thực tiễn hay trong văn học dân gian đều có thể được xây dựng thành những
kịch bản hay cho học sinh đóng vai thể hiện.
Trong đóng vai nhân vật, cần chú ý các nguyên tắc sau để đảm bảo tính hiệu quả
của phương pháp:
- Đảm bảo khai thác kiến thức cơ bản, trọng tâm. Giáo viên khi lựa chọn nội
dung có sử dụng phương pháp đóng vai thì bám sát chương trình, sách giáo khoa
để đạt được mục tiêu dạy học. Mỗi bài cụ thể giáo viên cần cân nhắc lựa chọn nhân
vật, tình huống để sử dụng phương pháp đóng vai.
- Đảm bảo tính khả thi.
+ Khả thi về kịch bản: Kịch bản được xây dựng dựa vào mục tiêu, nội dung bài
học, phải có kịch tính để gây sự hứng thú, gây sự chú , đồng thời kịch bản phải có
tính giáo dục, bồi dưỡng cảm xúc, thẩm mĩ cho người học. Kịch bản phải tôn trọng
sự thật lịch sử đối với kiểu đóng vai nhân vật lịch sử. Vì vậy giáo viên cần hỗ trợ
học sinh tìm nguồn tham khảo chính thống, và giáo viên phải kiểm duyệt trước khi
học sinh diễn trước lớp.
+ Khả thi về mặt thời gian: Đối với bài dạy nội khóa có sử dụng phương pháp
đóng vai thì thời gian đóng vai trò quan trọng. Với thời gian 45 phút, giáo viên cần
cân đối giữa các hoạt động, chọn nội dung sử dụng phương pháp đóng vai phù hợp.
- Đảm bảo tính tích cực, chủ động. Hoạt động đóng vai phải phát huy được
tinh thần làm việc tập thể, khả năng hợp tác, làm việc nhóm của học sinh. Qua hoạt
động đóng vai học sinh phải làm việc nhóm, địi hỏi sự tự giác và tích cực của tất
cả các thành viên. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải ln chú quan
sát, nắm bắt tâm lí từng đối tượng học sinh để có biện pháp lơi kéo các em vào bài
học một cách tự nhiên nhất. Giáo viên yêu cầu phải có biên bản làm việc nhóm, có
phân cơng nhiệm vụ và đánh giá về tinh thần thái độ của từng thành viên. Việc làm

này sẽ giúp giáo viên nắm bắt được tình hình của học sinhtừ đó đưa ra những biện
pháp cụ thể với mỗi đối tượng học sinh đó.
- Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Khi tự nguyện các em sẽ chủ động, tích cực,
tự giác và sáng tạo trong khám phá tri thức.
Một giáo viên dạy Lịch sử đã xây dựng một kịch bản sau:
Khi dạy hoạt động tìm hiểu về “Cuộc kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê”
(Bài 19 – Lịch sử 10),giáo viên tổ chức học sinh đóng vai hành động nhường ngơi
của thái hậu Dương Vân Nga cho Lê Hồn . Sau đó giáo viên tổ chức tranh luận
về nhân vật Dương Vân Nga. Cụ thể:
Giáo viên xác định vấn đề tranh luận: Tranh luận về nhân vật Dương Vân Nga
trong lịch sử dân tộc.
11


Có hai luồng kiến trái ngược nhau về bà:
Ý kiến thứ nhất: Nhiều sử gia khơng đồng tình với hành động này của cả Lê
Hoàn và Dương Vân Nga, cho rằng bà đã thơng đồng với Lê Hồn từ trước để
cướp ngơi.
Ý kiến thứ hai: Bên cạnh đó có nhiều nhà nghiên cứu lại tỏ ra thông cảm cho
hành động nhường ngơi cho Lê Hồn cũng như việc hai người trở thành vợ chồng.
Vậy chúng ta suy nghĩ thế nào trước hành động này của Dương Vân Nga?
Với vấn đề tranh luận nói trên, giáo viên tổ chức học sinh làm việc theo nhóm
trong thời gian khoảng 2 phút. Hết thời gian, giáo viên tổ chức học sinh tranh luận.
Bằng kiến thức của mình, học sinh đưa ra kiến, quan điểm đánh giá của mình.
Giáo viên khuyến khích học sinh tăng cường đưa ra kiến thông qua các câu hỏi
gợi mở.
Kết thúc tranh luận, giáo viên tổng kết, chốt lại vấn đề bằng cách đưa ra những
đánh giá khách quan và gợi cho học sinh những suy nghĩ sâu sắc hơn: Thái hậu
Dương Vân Nga, một con người nổi tiếng về tài sắc, mạnh mẽ và quyết đoán. Dù
lịch sử có đánh giá bà như nào đi nữa thì hành động nhường ngơi cho Thập đạo

tướng qn Lê Hồn là một quyết định đúng đắn với vận mệnh dân tộc lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, hành động của bà ở mỗi giai đoạn lịch sử lại có cái nhìn khác nhau:
trách cứ hoặc cảm thơng. Song có thể nói, cho dù có đánh giá như nào đi nữa, thì
vai trị của bà đối với lịch sử dân tộc là không thể phủ nhận. Thân phận bà đi bên
cạnh hai người đàn ơng – hai hồng đế. Ở vị trí nào bà cũng làm tròn vai trò của
người vợ, bậc mẫu nghi thiên hạ, đóng góp khơng nhỏ vào sự thịnh trị của hai
vương triều Đinh- Tiền Lê.

H3. Hình ảnh đóng vai nhân vật trong tiết học Ngữ văn và Lịch sử

12


Việc đóng vai và tổ chức tranh luận khơng những làm khơng khí học tập sống
động, lơi cuốn học sinh tham gia tìm hiểu mà cịn rèn luyện kỹ năng phản biện,
tranh luận cho học sinh. Học sinh được trải nghiệm trong một tình huống lịch sử
“ảo” và được thể hiện cảm xúc, thái độ của mình qua tình huống. Thành cơng của
một tình huống đóng vai sẽ là thành công “kép” cho việc phát huy năng lực và
phẩm chất cho học sinh.
2.2.2. Giao dự án học tập
Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó học sinh dưới sự
hướng dẫn và giúp đỡ của giáo viên tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang
tính phức hợp khơng chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thơng qua
đó tạo ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, cơng bố được.
Dự án được phân loại theo từng mức độ, phạm vi, ví dụ: dự án nhỏ, trung bình,
lớn; dự án thực hiện trong 1 tuần hay nhiều tuần; dự án môn học hay liên môn; dự
án cá nhân hay nhóm, tập thể…
Đối với nhà trường, dự án thường được tổ chức ở mức độ nhỏ hoặc trung bình, kéo
dài từ 1 đến 2 tuần và theo từng bộ môn do các nhóm thực hiện. Tiến trình thực
hiện dự án thơng thường có 3 bước:

Các bước thực hiện

Hoạt động của giáo viên

Xây dựng bộ câu hỏi định
hướng: xuất phát từ nội
Chuẩn bị:
Xây dựng
tưởng, lựa dung học và mục tiêu cần
chọn chủ đề, lập kế hoạch đạt được.Thiết kế dự án:
xác định lĩnh vực thực
các nhiệm vụ học tập.
tiễn ứng dụng nội dung
học, ai cần, tưởng và tên
dự án.Thiết kế các nhiệm
vụ cho HS…

Theo dõi, hướng dẫn,
đánh giá học sinh trong
Thu thập thơng tin, thực q trình thực hiện dự án,
hiện điều tra, thảo luận giúp đỡ, tháo gỡ khó khăn
với các thành viên khác, cùng học sinh trong quá
tham vấn giáo viên hướng trình thực hiện
dẫn
Kết thúc dự án:
Đánh giá, nhận xét và rút
Tổng hợp kết quả, xây
kinh nghiệm.
dựng sản phẩm hoặc viết
báo cáo

Thực hiện dự án:

Hoạt động của học sinh
Xây dựng kế hoạch dự án:
xác định những công việc
cần làm, thời gian dự
kiến, vật liệu, kinh phí,
phương pháp tiến hành và
phân cơng cơng v iệc
trong nhóm.Chuẩn bị các
nguồn thơng tin đáng tin
cậy để chuẩn bị thực hiện
dự án.Cùng GV thống
nhất các tiêu chí đánh giá
dự án.
Phân cơng nhiệm vụ các
thành viên trong nhóm
thực hiện dự án theo đúng
kế hoạch, tiến hành thu
thập, xử lý thông tin thu
được, xây dựng sản phẩm
hoặc bản báo cáo.
Báo cáo sản phẩm, thảo
luận, rút kinh nghiệm.

13


Ví dụ cụ thể: Một giáo viên Lịch sử cho học sinh thực hiện dự án “ Tìm hiểu các
nhân vật lịch sử” qua Chương II- Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ( Lịch sử

10). Đối với học sinh lớp 10, giáo viên cùng học sinh xây dựng dự án theo tuyến
trình sau:
- Xác định chủ đề : “Các nhân vật lịch sử “ Việt Nam tiêu biểu từ thế kỷ XXV.
- Thời gian hoàn thành: 2 tuần
- Chia nhóm học sinh tìm hiểu: Nhóm 1( thời nhà Lý); Nhóm 2( thời nhà
Trần); Nhóm 3( thời nhà Lê)
- Nội dung các nhân vật cần tìm hiểu: thân thế, sự nghiệp, đóng góp cho lịch
sử dân tộc. gợi ý một số nhân vật tiêu biểu như: L Công Uẩn, L Thường
Kiệt, Nguyên phi Ỷ Lan, Lý Nhật Quang (thời Lý), Trần Hưng Đạo, Trần
Thủ Độ, Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu… (thời Trần), Lê
Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung.. (thời Lê).
Ngồi ra, khuyến khích học sinh tìm hiểu các nhân vật lịch sử ở các triều đại
trên có liên quan đến địa phương Nghệ An, ví dụ như Cương quốc cơng
Nguyễn Xí, Nguyễn Vĩnh Lộc…
- Nguồn sử liệu tìm kiếm, tham khảo: mạng internet, các sách như: Các nhân
vật lịch sử Việt Nam, Amanach- Những nền văn minh thế giới, các sách, bài
viết chuyên khảo khác…
Trong quá trình học sinh thực hiện, giáo viên thơng qua trưởng nhóm hoặc tạo lập
nhóm zalo để kiểm tra, tư vấn, giúp đỡ học sinh. Hết thời gian quy định, các nhóm
báo cáo theo nội dung đã thống nhất, kèm theo tư liệu đã sưu tập được. Các nhóm
khác có thể góp ý, bổ sung hoặc phản biện. Giáo viên nhận xét, kết luận, rút kinh
nghiệm trong quá trình triển khai dự án và cho những dự án sau.
Với hình thức dạy học dự án, học sinh được rèn luyện kỹ năng sưu tập, xử lý
thơng tin, kỹ năng làm việc nhóm và kỹ năng phản biện xã hội thông qua nhận xét
một nhân vật lịch sử. Có thể tư liệu chưa phong phú, kiến nhận xét cịn đơn giản
song mục đích của dự án đã đạt được, đó là bước đầu rèn luyện kỹ năng làm việc
khoa học cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học không ảnh hưởng đến thời
lượng học tập chính khóa bởi cơ bản các em chuẩn bị ở nhà. Trong quá trình xây
dựng chương trình dạy học, các tổ nhóm chun mơn nên dành từ 1 dến 2 tiết cho
việc báo cáo dự án, tùy nội dung dự án đề cập mà bố trí vào thời điểm nào cho phù

hợp với tiến trình chung của mơn học.
2.2.3. Dạy học STEM
STEM là viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Cơng nghệ),
Engineering (Kỹ thuật) và Math (Tốn học). Giáo dục STEM về bản chất được
hiểu là trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết liên quan đến
các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học.

14


Những kiến thức và kỹ năng vừa nêu phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho
nhau giúp học sinh khơng chỉ hiểu biết về ngun l mà cịn có thể áp dụng để
thực hành và tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục
STEM nói chung và dạy học STEM nói riêng khơng phải là để học sinh trở thành
những nhà khoa học mà là xây dựng cho học sinh có kỹ năng cần thiết, để làm việc
và phát triển trong thế giới công nghệ hiện đại, trong tương lai. Có người coi dạy
STEM là phải dạy lập trình hay lắp ráp robot hay tiếp cận cơng nghiệp 4.0 là phải
dạy STEM - đó chỉ là cách hiểu một chiều hay cổ súy, quá đề cao STEM. Trong
điều kiện trường học ở nông thôn hiện nay, nhà trường, học sinh khơng thể có điều
kiện đầu tư đầy đủ trang thiết bị cho một buổi học STEM. Chúng ta hoàn toàn tận
dụng những cơ sở vật chất sẵn có của mỗi trường để sáng tạo công cụ dạy học
STEM. Dạy học STEM chỉ là một trong những hoạt động trong khuôn khổ của
giáo dục trải nghiệm. Các chủ đề có thể lựa chọn cho học sinh nên gắn với thực
tiễn đời sống các em với những nguyên liệu dễ chuẩn bị, quy trình đơn giản như
Sữa chua/dưa muối, Quy trình trồng rau an tồn, Máy phát điện/động cơ điện; Vật
liệu cơ khí…Mục đích của chúng ta không phải là tạo ra các nhà sáng chế mà là
dạy các em trải nghiệm thực tiễn từ các kiến thức được học trong nhà trường,
những hiện tượng, quy trình có thể các em gặp, thấy, đã làm hàng ngày nhưng chỉ
làm theo kinh nghiệm thì bây giờ các em được làm và hiểu đúng nguyên l , quy
trình làm.

Tổ Khoa học tự nhiên ở đơn vị chúng tôi đã tổ chức 2 buổi học STEM với 2
chủ đề : Dưa muối, cà muối ( ở bài Thực hành lên men Etylic và Lactic- Sinh học
10), trò chơi Tên lửa nước ( bài Định luật bảo toàn động lượng- Vật l 10). Nhóm
Sinh học, Vật l thiết kế bài học STEM theo 4 bước sau:
Bước 1: Lựa chọn chủ đề.
Căn cứ vào nội dung kiến thức trong chương trình mơn học và các hiện tượng, q
trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên; quy trình hoặc thiết bị cơng nghệ có
sử dụng của kiến thức đó trong thực tiễn... để lựa chọn chủ đề của bài học.
Bước 2: Xây dựng tiêu chí cho sản phẩm.
- Chủ đề Dưa muối, cà muối ( 1): đảm bảo độ ngọt, độ chua, độ chín, màu sắc,
thời gian hồn thành sản phẩm…
- Chủ đề Tên lửa nước (2): mơ hình, độ nén của khí, độ bay cao của tên lửa,
15


thời gian thực hiện trò chơi.
Bước 3: Chuẩn bị nguyên liệu.
- Chủ đề 1: lọ thủy tinh hoặc nhựa, dưa cải, cà, muối, đường, tỏi, riềng, nước
đun sôi để nguội. Những nguyên liệu này học sinh chuẩn bị ở nhà, giáo viên chuẩn
bị 2 sản phẩm đã hoàn thành để minh họa.
- Chủ đề 2: mơ hình tên lửa ( làm bằng chai nhựa hoặc giấy các tông), ống
nước nhựa, keo dính, bơm ( loại bơm dùng cho xe đạp, xe máy)
Bước 4: Tổ chức thực hiện.
Tổ chức ngoài sân trường để có đủ khơng gian, cả nhóm chun mơn tham gia làm
giám khảo, trọng tài. Các nhóm học sinh được giao chuẩn bị thực hiện, riêng Chủ
đề 2, nhóm Vật l tổ chức cho 2 lớp cùng thi với nhau, tạo khơng khí thi đua giữa
các lớp.

H3. Một buổi học STEM với trò chơi Tên lửa nước


16


Điều hấp dẫn của buổi học STEM là học sinh được tự chính tay mình chuẩn
bị, thiết kế mơ hình trên cơ sở của kiến thức bài Định luật bảo toàn động lực trong
sách Vật lý 10. Cách tiếp cận kiến thức theo lối trải nghiệm, “học đi đôi với hành”
đã thực sự mang đến nhiều hứng thú, kích thích óc sáng tạo, tư duy khoa học,
nghiên cứu của học sinh mà không xa rời thực tiễn. Học sinh được trải nghiệm nên
rất hào hứng, kỹ năng làm việc nhóm, tinh thần phối hợp đồng đội được phát huy.
Như vậy, ngoài kiến thức đạt được của buổi học, ý thức làm việc tập thể, cộng sự
trong học sinh được xây dựng. Đó là những phẩm chất, kỹ năng mà học sinh có thể
đạt được khi tham gia một bài học STEM.
2.3. Hình thức câu lạc bộ
Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng
sở thích, nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của thầy cô nhằm tạo môi
trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh
với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của câu lạc bộ tạo cơ hội để
học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các
em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh. Câu lạc bộ là nơi để học
sinh được thực hành các quyền của mình như quyền được học tập, quyền được vui
chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu
đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thông qua hoạt động của các câu
lạc bộ, thầy cô hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính
đáng của các em.
Ở đơn vị chúng tơi, có 3 câu lạc bộ của học sinh: CLB Âm nhạc - nghệ thuật
CLB Hội họa và CLB Võ thuật. Các em có nhu cầu, sở thích, năng khiếu thường
tìm đến với nhau để sẻ chia, đồng cảm, cộng tác. Tuy nhiên, chúng tơi khơng để
các hiện tượng đó diễn ra một cách tự phát mà phải có sự tổ chức thống nhất, có
chương trình hoạt động rõ ràng và có sự quản lý.
Về cách thức xây dựng, tổ chức:

Thứ nhất, Đoàn Thanh niên nhà trường cử một thầy cô trong BCH làm đầu
mối, ra thơng báo tồn trường, những em có năng khiếu văn nghệ, võ thuật, hội
họa ở các đơn vị lớp đăng k với thầy cơ. Đồn trường tổng hợp, ra Quyết định
thành lập và cử 1 thầy cơ có khả năng trong từng lĩnh vực phụ trách, hỗ trợ các
CLB.
Thứ hai, các CLB xây dựng quy định, chương trình hoạt động của mình trên
cơ sở chương trình cơng tác của nhà trường.
Thứ ba, Nhà trường, Đoàn Thanh niên, Ban đại diện cha mẹ học sinh phải
quan tâm, hỗ trợ CLB khi các em có các chương trình hoạt động phục vụ nhiệm vụ
chính trị của đơn vị.
Về cách thức hoạt động:
Trên cơ sở chương trình cơng tác của nhà trường, giáo viên được giao bảo
trợ hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch hoạt động. Các hoạt động của CLB phải
hướng tới xây dựng một mơi trường văn hóa của đơn vị, tạo ra được những điểm
nhấn trong các sự kiện. Nội dung hoạt động của các CLB, nhất là các hoạt động
17


truyền thơng phải được thẩm định, phê duyệt. Ví dụ: tuyên truyền, cổ động bằng
tranh ảnh cho các ngày lễ, các sự kiện lớn của đất nước ( CLB hội họa), tổ chức
biểu diễn văn nghệ nhân dịp các ngày lễ như ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, thành
lập Đảng 3/2 hoặc ngày khai giảng, tổng kết năm học (CLB Âm nhạc- nghệ thuật).

18


H4. Một số hình ảnh tuyên truyền của CLB Hội họa trên bảng tin nhà trường

H5. Một số tiết mục văn nghệ của CLB Âm nhạc- Nghệ thuật


19


Tham gia các câu lạc bộ, điều chúng tôi cảm nhận rõ ràng nhất là thái độ của
học sinh chuyển biến tích cực. Các em mong muốn được đến trường, u mơi
trường học tập của mình, các em thấy tự tin, thấy được giá trị bản thân hơn bởi
năng khiếu của mình được phát huy, được mọi người ghi nhận. Sự trải nghiệm
trong phạm vi của những câu lạc bộ trong trường học, dù cịn khiêm tốn nhưng đó
là những bước khởi đầu có nghĩa cho sự khẳng định bản thân sau này của các
em. Điều quan trọng là các thầy cô phải biết tập hợp, khơi dậy tiềm năng của các
em. Chúng tơi nghĩ, điều này khơng khó bởi các em đã có sẵn niềm đam mê, khát
vọng được thể hiện, cống hiến, điều còn lại là sự động viên, định hướng của những
người làm giáo dục.
2.4. Trải nghiệm thực tế
Trải nghiệm thực tiễn là một hoạt động phức hợp, bao gồm việc bổ sung
kiến thức môn học, công tác tổ chức, sự tham gia của các lực lượng như
GVCN,cha mẹ học sinh, kinh phí chuyến đi, vấn đề an tồn trong q trình tham
gia các hoạt động thực tế…Do vậy, để tổ chức hoạt động này cần có một kế hoạch
chuẩn bị kỹ, có sự thống nhất cao và phải có có mục đích rõ ràng, khơng phải là
chuyến du lịch thông thường.
Một chuyến đi trải nghiệm bắt đầu từ các bước sau:
- Mục đích trải nghiệm: giáo dục tình yêu quê hương, đất nước; tri ân các anh
hùng dân tộc, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc; xây dựng tinh thần khởi
nghiệp… Mục đích phải rõ ràng thì mới xác định được nơi cần đến và các nội dung
khác.
- Xây dựng kế hoạch: Ban đại diện cha mẹ học sinh, GVCN, học sinh tham
gia xây dựng. Nội dung kế hoạch phải bao gồm: nơi đến, số lượng học sinh, phụ
huynh tham gia; bố trí xe ( nếu đi xa); kinh phí học sinh, phụ huynh đóng góp, ăn
uống…
- Phê duyệt kế hoạch: Sau khi kế hoạch được xây dựng, GVCN cùng Ban đại

diện cha mẹ học sinh lớp thay mặt lớp trình cho Hiệu trưởng phê duyệt. Nếu được
sự cho phép của lãnh đạo thì mới được triển khai kế hoạch.
- Liên hệ với điểm đến: các đồn nên làm điều này để mình có sự chủ động,
tốt nhất là có học sinh cũ của trường đang cơng tác tại địa điểm đó thì càng thuận
lợi. Nên trao đổi với người quản l điểm đến mục đích của chuyến đi để họ có sự
sắp xếp, chuẩn bị.
- Tổ chức chuyến đi: GVCN thông báo cho học sinh thời gian, địa điểm tập
trung, xuất phát để quản lý, kể cả địa điểm gần. Quán triệt những ngun tắc, quy
định của đồn như: tơn trọng nội quy, quy định của địa điểm đến, tuân thủ sự quản
l , hướng dẫn của trưởng đoàn, viết bài thu hoạch sau chuyến đi…
Hơn 2000 năm trước, Đức Khổng Tử đã từng nói “ Những gì ta nghe, ta sẽ
qn. Những gì ta thấy, ta sẽ nhớ. Những gì ta làm, ta sẽ hiểu”. Các cụ ta ngày xưa
có câu “ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” hay “ Trăm nghe khơng bằng một
thấy” để nói rằng đi ra sẽ mở mang hiểu biết, sẽ khôn ra là một thực tế…và cũng
để nói rằng thực tế phải được kiểm nghiệm bằng tai mắt, chứ không phải chỉ được
20


cảm nhận. Tai đã nghe rồi nhưng mắt phải được thấy nữa thì thực tế kia mới thật là
xác tín.
Ví dụ cụ thể: GVCN cùng lớp 11A1(2018-2019) tổ chức chuyến trải nghiệm tại
Công ty TH Nghĩa Đàn. Các bước được thực hiện đầy đủ và điều thuận lợi là có
anh Nguyễn Bá Trường, học sinh cũ của trường khóa 1995-1998, hiện đang làm
một trưởng phịng của Cơng ty giúp đỡ. Mục đích của chuyến đi là lấy cảm hứng
từ sự thành cơng của tập đồn TH, khơi dậy ở các em tinh thần khởi nghiệp.

H6. Thầy trò lớp 11A1 tại Công ty TH Nghĩa Đàn (Ảnh chụp vào 5/2018)

Cảm nhận của học sinh sau chuyến đi là sự hào hứng, đoàn kết và háo hức
khởi nghiệp sau khi được nghe và được thấy. Tinh thần khởi nghiệp đã thay đổi

trong suy nghĩ của các em, khơng phải cái gì to tát mà bắt đầu từ những dự án bình
thường. Thực tế là hiện nay, năm 2021, có 2 em của lớp 11A1 năm đó khơng thi
vào các trường ĐH mà ở nhà khởi nghiệp. Từ cơ sở gia đình tạo điều kiện, một em
đã xây dựng một quán cà phê, một em xây dựng một trang trại trồng rau sạch và
chăn nuôi. Một số em vừa đi học, vừa tập kinh doanh online và bước đầu cũng có
những tín hiệu tốt. Như vậy, mục đích của chuyến đi đã đạt được, một trải nghiệm
thành cơng cịn giá trị hơn ngàn lời diễn thuyết.
21


H7. Bài thu hoạch của học sinh sau trải nghiệm

22


2.5. Các hoạt động tri ân, thiện nguyện
Tri ân, thiện nguyện bây giờ khơng cịn là cơng việc, là trách nhiệm xã hội
nữa mà nó đang trở thành một nhu cầu- nhu cầu được cống hiến. Trong các hoạt
động vì con người trong cộng đồng, hoạt động nhân đạo - từ thiện ngày càng được
trân trọng với nghĩa đề cao tính nhân văn cao cả, tinh thần nhân ái sẻ chia trong
hoạn nạn khó khăn giúp những thân phận, những mảnh đời nghiệt ngã vượt qua nỗi
bất hạnh, thiếu may mắn vươn lên, ổn định đời sống hòa nhập cộng đồng...Các nhà
trường nên tiếp cận sự thay đổi này để có những định hướng giáo dục cho thế hệ
trẻ. Một hành động đẹp, một tấm gương sáng sẽ hay mọi bài học về tình người và
sẽ thuyết phục, lay động được trái tim học sinh.
Để chương trình này thực sự có nghĩa, có tác dụng giáo dục học sinh, để học sinh
trải nghiệm cảm giác được sẻ chia, được tri ân thực sự thì cần tránh việc chỉ dừng
lại việc quyên góp, mà việc này, học sinh phải trực tiếp làm, khơng có đại diện,
khơng có làm thay. Xây dựng chương trình như sau:
- Xây dựng kế hoạch dự kiến: trong một năm học sẽ tri ân, làm thiện nguyện

bao nhiêu lần, đối tượng hướng đến là ai…? Thông thường các hoạt động tri ân
thường hướng đến các Mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có cơng với cách mạng,
các di tích lịch sử diễn ra vào các dịp Ngày TB - LS (27/7), Ngày chiến thắng 30/4,
Tết cổ truyền…Các hoạt động thiện nguyện thường diễn ra vào đầu các năm học
mới, dịp Tết cổ truyền hoặc những trường hợp đột xuất tùy tình hình cụ thể. Kế
hoạch này phải có lộ trình thời gian.
- Huy động nguồn lực: con người, tiền bạc, các thiết bị, vật dụng khác. Ngoài
việc huy động sự đóng góp của giáo viên, học sinh đang học , các nhà trường nên
quan tâm đến các thế hệ học sinh của trường đã trưởng thành, các doanh nghiệp
đóng trên địa bàn để có thêm sự hỗ trợ. Mỗi một kế hoạch tri ân hay thiện nguyện
đều phải chi tiết, cụ thể, cách thức thực hiện để vấn đề không chỉ là số tiền hỗ trợ
hay các vật chất khác mà còn để giáo dục, xây dựng ý thức, trách nhiệm cộng
đồng. Hoạt động này, lãnh đạo nhà trường và Đồn Thanh niên đứng ra huy động
thì hiệu quả tốt hơn.
- Cách thức tổ chức: tùy vào tính chất của hoạt động ( tri ân hay thiện nguyện)
để bố trí hình thức, thành phần phù hợp.
Ví dụ1:
- Hoạt động tri ân: Đoàn Thanh niên tổ chức quét dọn vệ sinh, dâng hương
tưởng niệm các liệt sĩ tại Di tích lịch sử Quốc gia - nơi thực dân Pháp xử bắn 72
chiến sĩ Xô viết Nghệ Tĩnh ( xã Mỹ Thành, Yên Thành). Trước khi tiến hành, BCH
phải họp để thống nhất kế hoạch, giao người phụ trách đồn, liên hệ trước với
chính quyền địa phương. Về lực lượng, BCH Đồn trường lên kế hoạch huy động
Bí thư các chi đoàn, các thanh niên chuẩn bị được kết nạp Đoàn đợt 3/2; về vật
chất, chuẩn bị hương hoa, chổi, cuốc,vét…. Yêu cầu: đảm bảo an toàn trên đường
đi, vệ sinh sạch sẽ khu di tích và quan trọng là tìm hiểu lịch sử của di tích. Những
học sinh thuộc đối tượng chuẩn bị kết nạp Đoàn phải viết thu hoạch, xem đây là
một bài học chính trị thực tiễn. Mục đích của hoạt động khơng phải là vệ sinh, quét
23



dọn, mà qua lao động, học sinh phải được vun đắp lòng biết ơn đối với các liệt sĩ,
trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay…

H8. GV,HS nhà trường quét dọn vệ sinh, dâng hương tại Khu di tích lịch sử Quốc gia- nơi
thực dân Pháp xử bắn 72 chiến sĩ Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 -1931 ( xã Mỹ Thành- Yên Thành)

24


×